Đề tài
QUAN NIỆM CỦA MÁC VỀ CON
NGƯỜI TRONG TÁC PHẨM “BẢN
THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC 1844”
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người từ lâu đã trở thành đối tượng và mục đích nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học và trong đó không thể không nhắc tới triết học. Trong hệ thống triết
học từ xưa đến nay, từ triết học cổ đại đến triết học hiện đại; từ triết học phương
Đông đến triết học phương Tây, người ta đều có thể tìm thấy ít hay nhiều những
quan niệm khác nhau về con người. Nếu như triết học Trung Hoa cổ đại quan tâm
đến vấn đề bản tính con người như Nho gia cho rằng bản tính con người là thiện,
Pháp gia cho rằng bản tính con người là bất thiện, Đạo gia nhấn mạnh bản tính tự
nhiên của con người… thì trong triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại con người được
xem là khởi đầu của tư duy triết học, con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao
la, hay con người là thước đo của vạn vật.
Do những điều kiện sinh hoạt của con người, nội dung, ý nghĩa đời sống của
con người luôn luôn biến đổi. Bởi vậy, ở mỗi thời đại khác nhau lại đặt ra và giải
quyết vấn đề này một cách khác nhau và đem lại những giá trị mới trong nhận thức
về con người. Chính vì thế mà đề tài về con người vẫn luôn mới mẻ và sẽ không
bao giờ kết thúc.
Từ thời cổ đại xa xưa con người đã tìm câu trả lời về bản thân mình. Các nhà
triết học trước đây đã cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “con người là gì?”,
“bản chất của con người là gì?”, “ý nghĩa cuộc sống của con người là gì?”… Các
trào lưu triết học khác nhau lại đưa ra những quan niệm khác nhau, những kiến giải
khác nhau về vấn đề con người, và do đó có các cách giải thích khác nhau về bản
chất con người, vai trò của con người trong thế giới và mối quan hệ giữa con người
và xă hội.
Trên cơ sở kế thừa một cách có chọn lọc và phê phán những tư tưởng của các
bậc tiền bối, Mác và Ăngghen đã xây dựng một học thuyết độc đáo, khoa học về
con người. Mác, Ăngghen và Lênin đều hướng tới việc giải quyết những nội dung
2
liên quan đến bản chất con người là gì?, vị trí, vai trò của con người đối với thế giới
như thế nào?, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong đời sống hiện thực của con
người… Tất cả những vấn đề trên xét về thực chất đó là học thuyết giải phóng con
người, hướng tới mục đích vì con người – chủ thể của lịch sử. Nó cũng thể hiện bản
chất cách mạng và khoa học của triết học Mác – Lênin. Và cho đến nay học thuyết
ấy vẫn còn nguyên giá trị của nó.
Trong những thập kỉ gần đây, quan niệm “con người là yếu tố trung tâm của sự
phát triển” đã được thừa nhận trên quy mô toàn cầu. Trong Báo cáo phát triển Con
người toàn cầu (HDR) đầu tiên năm 1990, Tổ chức Liên hợp quốc (viết tắt là
UNDP) đã tuyên bố: “Con người là của cải thực sự của quốc gia. Con người là
trung tâm của sự phát triển”. Đây được coi là nguyên lý cơ bản đầu tiên, là tôn chỉ
hoạt động của UNDP. Và ở Việt Nam trong những năm gần đây quan niệm coi con
người là trung tâm đã trở thành cách nhìn, cách nghĩ có sức hấp dẫn, thu hút sự
quan tâm của đông đảo các nhà lý luận và các nhà hoạt động chính trị - xã hội.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng xác định “con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; một tư tưởng nổi bật của đường lối
đổi mới, của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa là xây dựng và phát
huy nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội”. Bởi vậy chúng ta càng cần quan tâm đến việc làm
sao để có được những nhận thức đầy đủ về con người, để xây dựng chiến lược phát
triển con người Việt Nam đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc kiến thiết đất
nước. Để làm được điều đó, một mặt, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu những
di sản của những tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác để tìm ra những quan niệm về
con người còn đúng đắn, còn giá trị. Mặt khác, chúng ta cần phải biết kết hợp
những giá trị ấy với những tri thức và thành tựu khoa học hiện đại về con người.
Đây là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, phương
pháp và tư tưởng.
3
Hơn nữa khi xem xét những quan niệm cụ thể của chủ nghĩa Mác về con
người, không ít học giả phương Tây cho rằng không có học thuyết con người trong
chủ nghĩa Mác. Đúng là Mác, Ăngghen, Lênin không để lại một tác phẩm riêng nào
bàn về con người. Đó là do mục tiêu và điều kiện đấu tranh giải phóng giai cấp vô
sản khiến cho các ông không có đủ thời gian bàn một cách chi tiết, hệ thống về vấn
đề con người. Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu những tác phẩm của Mác – Ăngghen
một cách thấu đáo, đặc biệt là những tác phẩm trước năm 1844 đến những tác phẩm
cuối đời của các ông thì chúng ta có thể khẳng định rằng vấn đề con người luôn
xuất hiện và chi phối những sáng tạo của các ông. Và theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác thì có vấn đề nào của lịch sử, của xã hội mà lại không phải là vấn đề của con
người. Chúng ta có thể nói “CON NGƯỜI” “có mặt” trong tất cả các bộ phận của
chủ nghĩa Mác. Như vậy việc nghiên cứu tác phẩm của Mác, nghiên cứu quan niệm
về con người của ông là thêm một lần nữa chúng ta khẳng định “chủ nghĩa Mác
không bỏ rơi con người”.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Quan niệm của Mác
về con người trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”” làm luận văn
cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề con người trong lịch sử triết học là một đề tài lớn đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu vấn đề này như:
+ Nhóm các tác giả nghiên cứu về đề tài con người trong lịch sử triết học:
1, Tác giả Vũ Minh Tâm: “Tư tưởng về con người trong lịch sử triết học”
2, PGS.TS Hồ Sỹ Quý: “Con người và phát triển con người”
3, GS. Nguyễn Hữu Vui: “Lịch sử triết học”
+ Nhóm các tác giả nghiên cứu quan niệm của Mác về con người
1, Hồ Sỹ Quý: “Con người và phát triển con người trong quan niệm của Mác
và Ăngghen”
4
2, TS. Phạm Văn Chung: “Triết học Mác về lịch sử”
3, TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền: “Mác – Ăngghen về giải phóng con người”
– Luận văn Thạc sĩ; “Quan niệm của Mác về tha hóa và ý nghĩa của nó đối với phát
triển con người Việt Nam hiện nay” – Luận án Tiến sĩ
4, Trần Bạch Tuyết với luận văn thạc sĩ: “Tư tưởng của Mác về bản chất của
con người”
5, Nguyễn Thị Tố Uyên với “ Quan điểm triết học của Mác về vấn đề con
người với tư cách chủ thể sáng tạo lịch sử” – Luận văn THS
+ Nhóm các tác giả nghiên cứu về tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học
1844”
1, Bùi Bá Linh: “Khái niệm con người trong Bản thảo kinh tế triết học 1844” –
Tạp chí Triết học số 3/ 1998
2, PGS. TS Hồ Sỹ Quý: “Mấy tư tưởng lớn về con người trong Bản thảo kinh
tế triết học 1844” được in trong “Con người và phát triển con người trong quan
niệm của C.Mác và Ph. Ăngghen”
3, TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền: “Tư tưởng Các Mác về con người và giải
phóng con người trong Bản thảo kinh tế - triết học 1844” – Kỉ yếu Hội thảo Khoa
học nữ Đại học Quốc gia Hà Nội lần thứ 10. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
4, Trương Thị Kim Oanh: “Vấn đề tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo
kinh tế - triết học 1844” – Luận văn THs Triết học
Tóm lại, có thể nói rằng, nhìn tổng quát thì vấn đề con người trong lịch sử
triết học nói chung, quan niệm của Mác về con người nói riêng đã được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập trên nhiều bình diện với những khía cạnh tư tưởng khác nhau.
Nhưng để đánh giá đúng đắn, sâu sắc vấn đề vẫn cần có những chuyên đề đi sâu vào
những tác phẩm với những nội dung cụ thể. Dựa trên những nguồn tài liệu, những
công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố, những kiến thức học được
5
trên giảng đường, tôi cố gắng tìm hiểu, đi sâu và trình bày một cách có hệ thống
quan niệm cơ bản của Mác về con người trong “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu: Luận văn này nhằm làm rõ nội dung cơ bản của quan
niệm con người trong triết học Mác được thể hiện trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế
- triết học” của ông. Từ đó thấy được những ý nghĩa, những giá trị nhân văn trong
quan niệm về con người của Mác và bác bỏ luận điệu cho rằng triết học Mác đã bỏ
rơi con người.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích đó luận văn tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày những điều kiện hình thành quan niệm về con người của
Mác, trong đó phải nhấn mạnh đến những quan điểm về con người trước chủ nghĩa
Mác.
Thứ hai, giới thiệu về tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”: hoàn cảnh
ra đời, kết cấu, nội dung cơ bản.
Thứ ba, đề cập và nhấn mạnh đến những nội dung bàn tới bản chất con người
và giải phóng con người của Mác trong tác phẩm, đưa ra những dẫn chứng tiêu
biểu, cụ thể.
Thứ tư, đưa ra những nhận xét đánh giá, kết luận của người viết, quan niệm
của Mác có điểm gì tiến bộ, hạn chế so với triết học trước đó và đánh giá giá trị của
quan niệm này.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
+ Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm duy vật về lịch
sử, quan điểm của triết học Mác – Lênin về sự tác động qua lại giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội.
6
+ Phương pháp nghiên cứu: phương pháp được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu và trình bày luận văn là: logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, hệ thống
hóa, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của Mác về con người
+ Phạm vi nghiên cứu: Tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn muốn làm rõ thêm quan niệm của Mác về con người được luận
chứng thông qua tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”. Từ đó góp phần
chứng minh triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung không “bỏ rơi”con
người mà luôn vì con người, giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, góp
phần bảo vệ những di sản kinh điển, những giá trị của triết học Mác về con người.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
+ Ý nghĩa lý luận: Đóng góp thêm một số ý kiến, hiểu biết trong nhận thức
quan niệm triết học cơ bản của Mác về con người, đồng thời nhận thức giá trị, ý
nghĩa của quan niệm đó trong thời đại ngày nay.
+ Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu triết học Mác – Lênin nói chung và tư tưởng, quan điểm của Mác –
Ăngghen về con người nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
2 chương và 6 tiết.
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM CỦA MÁC VỀ CON NGƯỜI TRONG “BẢN THẢO KINH TẾ -
TRIẾT HỌC NĂM 1844”
1.1 Những điều kiện của sự hình thành quan niệm về con người của Mác
trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”
1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội
- Nền đại công nghiệp cơ khí ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của
kinh tế thị trường.
+ Cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, đại công nghiệp đã làm cho chủ nghĩa
tư bản phát triển, chế độ tư bản hình thành và đạt được nhiều thành tựu to lớn của
nó trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học xã hội. Đại công nghiệp đã chứng
tỏ mối quan hệ thống nhất giữa tự nhiên và xã hội, những quy luật phát triển của tự
nhiên, xã hội đã tác động mạnh mẽ trong một thể thống nhất là đại công nghiệp.
+ Đại công nghiệp và kinh tế thị trường ra đời đã làm cho cấu trúc kinh tế trở
nên chặt chẽ hơn bao giờ hết, không còn lỏng lẻo như trong xã hội phong kiến.
Đồng thời những mặt khác nhau của đời sống xã hội cũng được phân chia và xác
định rõ ràng. Lần đầu tiên cho người ta thấy rằng kinh tế là lĩnh vực quan trọng nhất
quyết định tất cả, là nền tảng của tất cả những sinh hoạt khác.
+ Cũng với thời đại công nghiệp, con người đã làm chủ được những sức mạnh
to lớn của tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Đặt cơ sở cho quan niệm về tính chủ
thể của con người. Triết học ra đời đã đặt ra vấn đề cái tôi. Và triết học Mác đã gắn
cái tôi với lao động, cái tôi làm ra, sáng tạo ra cả thế giới, không phải là cái tôi
hưởng thụ.
+ Đại công nghiệp ra đời đã làm cho các quốc gia dân tộc trên thế giới được
đặt vào sự ảnh hưởng phụ thuộc lẫn nhau. Do đó lịch sử ấy là cơ sở cho việc hình
8
thành quan niệm về lịch sử nhân loại, không những là quá trình thống nhất mà còn
là quá trình phát triển.
- Chủ nghĩa tư bản được xác lập và giữ địa vị thống trị. Giai cấp công nhân
công nghiệp ra đời, đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất mới, có bản chất
cách mạng triệt để nhất.
- Sự bần cùng, khốn khổ của người công nhân trong xã hội tư bản, trong nền
đại công nghiệp.
- Và không phải chờ đến Mác, không phải chỉ có Mác mới nhận ra sự bần
cùng, khốn khổ của con người trong xã hội công nghiệp ấy, mà ngay từ đầu khi
phương thức tư bản chủ nghĩa ra đời đã có không ít nhà khoa học lên tiếng bảo vệ
con người. Họ nêu cao tinh thần nhân đạo, vì con người. Những họ lại không thể rời
bỏ hàng ngũ tư sản của mình để đứng sang hàng ngũ những người vô sản, để thấu
hiểu triệt để đời sống cơ cực của họ, để chỉ ra những căn nguyên sâu xa làm nên
những sự bất công đó. Họ chỉ kêu gọi sự ban ơn của những nhà tư bản dành những
đặc ân cho những người công nhân. Nhưng tất cả chỉ là những điều không tưởng.
Và chỉ đến Mác, ông mới dám thẳng thắn rời bỏ hàng ngũ tư sản của mình để bước
sang hàng ngũ những người lao động chân chính, để lên tiếng bênh vực họ, chỉ ra
nguyên nhân của mọi đau khổ mà con người đang phải gánh chịu đó là do chế độ tư
hữu tư sản, là do sự bóc lột giá trị thặng dư, bóc lột sức lao động của nhà tư bản…
Ông đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh cho nhân loại cần lao, để giải phóng
“triệt để” con người, đặc biệt là người lao động, người công nhân khỏi mọi bất
công.
Chính từ thực tiễn sinh động ấy, từ những hoạt động thực tế sôi nổi mà Mác
đã đưa ra những quan điểm chính xác, khoa học về con người. Mác khác với những
nhà triết học trước ông trong quan niệm về con người. Nếu như những nhà triết học
trước Mác chỉ nhìn thấy con người trừu tượng, con người nói chung, hay khái niệm
về con người thì Mác đã đưa ra quan niệm của ông về con người xã hội, con người
9
cụ thể. Đó là những con người đang lao động sản xuất, những con người đáng quý,
đáng trân trọng và cần được bảo vệ.
1.1.2 Tiền đề lý luận
Vấn đề con người được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử triết học, tuy là vấn đề
xưa cũ nhưng luôn được đặt ra đối với mọi thời đại và luôn được làm mới mẻ. Triết
học Mác ra đời và kế thừa những tư tưởng có giá trị của các bậc tiền bối và Mác
cũng đã đưa ra những quan điểm riêng về con người. Tuy nhiên, ở thời kì này Mác
vẫn chưa được tiếp xúc nhiều với những tư tưởng phương Đông, đặc biệt là tư
tưởng về con người. Do vậy chúng tôi chỉ đề cập đến những quan niệm về con
người trong triết học phương Tây trước Mác.
- Trong triết học Hy lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu của tư
duy triết học. Khi lý giải về con người mặc dù mới chỉ dừng lại những hiểu biết bên
ngoài về tồn tại con người nhưng đã có sự phân biệt con người với tự nhiên. Con
người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Con người và thế giới xung quanh là
tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Prôtago – một nhà ngụy biện cho rằng “con người
là thước đo của vũ trụ”. Arixtốt quan niệm “con người là một động vật chính trị”.
- Với triết học Tây Âu trung cổ con người chỉ là sản phẩm của Thượng đế, mọi
niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ
của con người thấp hơn lý trí anh minh của Thượng đế. Đời sống ở trần gian chỉ là
bước chuẩn bị cho hành trang đến với thế giới vĩnh cửu bên kia. Con người trở nên
nhỏ bé trước cuộc sống, bằng lòng và an phận trong sự sắp đặt của Chúa.
- Triết học thời kỳ Phục hưng - Cận đại đã có những bước tiến đáng kể so với
trung cổ trong quan niệm về con người. Thời kì này vai trò của trí tuệ, lý tính con
người được đề cao. Con người là một thực thể trí tuệ, có cảm xúc, biết đam mê và
khỏe mạnh về mặt thân xác. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để giải thoát
con người khỏi mọi “gông cùm” mà chủ nghĩa thần học áp đặt nên con người. Tuy
vậy, để nhận thức đầy đủ bản chất con người về mặt sinh học và mặt xã hội thì chưa
10
có trường phái nào đạt được. Con người được nhấn mạnh mặt cá thể nhưng lại xem
nhẹ mặt xã hội.
- Triết học cổ điển Đức, quan niệm về con người được lý giải theo khuynh
hướng duy tâm. Những nhà triết học nổi tiếng thời kì này tiêu biểu như Hêghen đã
đưa cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan vào để nhận thức về con người.
Ông cho rằng con người chính là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Và thông qua
quá trình tự ý thức của tư tưởng con người đã đưa con người trở về với giá trị tinh
thần, giá trị bản thân con người. Hêghen cũng là người trình bày một cách có hệt
hống về các quy luật của quá trình tu duy của con người, làm rõ cơ chế của đời sống
tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người. Tuy vậy, Hêghen đã nhìn
thấy con người là chủ thể và kết quả của lịch sử. Ông quan niệm “sự phát triển của
lịch sử nhân loại luôn mang tính kế thừa, mỗi thời đại lịch sử là kết quả của cả một
tiến trình phát triển trước đó” [7, tr 427].
Tư tưởng triết học của Phoi-ơ-bắc, người khép lại triết học cổ điển Đức, đã
đạt tới chủ nghĩa duy vật khi ông khẳng định rằng ý thức cũng như tư duy của con
người chỉ là khí quan vật chất nhục thể là bộ óc người, tinh thần là sản phẩm tối cao
của vật chất. Ông đã phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về
bản chất con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con người do sự
vận động của thế giới vật chất tạo nên. Con người là kết quả của sự phát triển của
thế giới tự nhiên. Con người và tự nhiên thống nhất, không tách rời nhau. Ông cũng
đề cao vai trò và trí tuệ của con người với tính cách là những các thể người. Đó là
những cá thể riêng biệt, đa dạng, phong phú và không giống ai. Quan niệm của
Phoi-ơ-bắc dựa trên nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính, nhằm giải
phóng cá nhân con người. Song khi lý giải các vấn đề xã hội, ông lại sa vào chủ
nghĩa duy tâm. Ông khẳng định con người là kết quả của sự phát triển của thế giới
vật chất, do vậy con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời. Tuy nhiên,
Phoi-ơ-bắc lại không thấy được bản chất xã hội trong đời sống con người, tách con
11
người ra khỏi điều kiện lịch sử cụ thể. Con người của Phoi-ơ-bắc là phi lịch sử, phi
giai cấp và trừu tượng.
Có thể khái quát rằng các quan niệm về con người trong triết học phương
Tây trước Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm nhị nguyên hay duy
vật siêu hình đều không phản ánh đúng đắn nhất bản chất con người. Nhìn chung
các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt
tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên – sinh học mà không
thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy, chúng ta cũng không thể phủ
nhận những giá trị mà các nhà tư tưởng trước Mác đã đạt được như việc phân tích,
quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con
người tới tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa cho sự hình thành tư tưởng về con
người của Mác sau này. Triết học Mác đã đưa ra quan niệm duy vật về lịch sử làm
cơ sở khoa học cho việc lý giải vấn đề con người. Việc tiếp nhận một cách có phê
phán những “ hạt nhân hợp lý” những thành tựu tích cực của các học thuyết triết
học trước, Mác đã xây dựng nên một quan niệm đúng đắn, khoa học về vấn đề con
người.
1.2 Giới thiệu tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”
1.2.1 Tác giả
C. Mác sinh ngày 05/05/1818. Thời thơ ấu và niên thiếu của Mác, ông sống ở
tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về kinh tế và chính trị của nước Đức. Sống
trong thời kì thế giới đầy biến động, lại được tiếp thu những ảnh hưởng tốt nhất của
gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác nhau đã làm hình thành ở Mác tinh
thần xã hội nhân đạo chủ nghĩa và xu hướng yêu tự do. Phẩm chất đạo đức, tinh
thần cao đẹp đó không ngừng được bồi dưỡng để trở thành định hướng cho cuộc đời
sinh viên, đưa Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng và quan điểm vô thần.
Sau khi nhận bằng tiến sĩ triết học vào tháng 4 năm 1841, Mác chuẩn bị vào
dạy triết học ở trường Đại học Tổng hợp Bon và dự định xuất bản một tờ tạp chí với
12
tên gọi “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần”. Nhưng hy vọng của ông đã không thực
hiện được vì vua Phri – đrich Vi – nhem IV thực hiện chính sách phản động và đàn
áp những người dân chủ cách mạng.
Sự chuyển biến bước đầu diễn ra trong thời kì Mác làm việc ở báo sông Ranh
(từ tháng 5- 1842 đến tháng 4 – 1843). Thực tiến đấu tranh trên báo chí cho tự do
dân chủ đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Mác có nội dung chính xác hơn,
đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng nghèo khổ và bất hạnh về chính trị và xã
hội”.
Về thế giới quan triết học, nhìn chung Mác vẫn đứng trên lập trường duy tâm
trong việc xem xét bản chất nhà nước. Nhưng việc phê phán chính quyền nhà nước
đương thời đã cho Mác thấy cái quan hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà
nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã tìm cách chứng
minh bằng triết học mà là những lợi ích. Còn chính quyền nhà nước là “cơ quan đại
diện đẳng cấp của những lợi ích tư nhân”. Qua thực tiễn hiện thực đã làm nảy nở
khuynh hướng duy vật ở Mác.
Sau khi báo sông ranh bị cấm, Mác đã viết cuốn sách “Góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen”, ông đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, tiếp
nhận có chọn lọc quan điểm duy vật của triết học Phoi-ơ-bắc, chính điều đó đã làm
tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm của Mác.
Cuối tháng 10 năm 1943, Mác sang Pari để viết Niên giám Pháp – Đức. Điều
đó đã đánh dấu bước hoàn thành sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ
nghĩa duy vật. Như vậy quá trình hình thành và phát triển quan điểm, tư tưởng triết
học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử cũng đồng thời là quá trình hình
thành chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Vào năm 1844, Mác và Ăngghen đã gặp nhau, cuộc gặp gỡ lịch sử đó đã bắt
đầu một tình bạn lâu dài, bền vững suốt cả cuộc đời. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn
tới tình bạn vĩ đại của hai ông, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát
13
triển một thế giới quan mới mang tên Mác – Ăngghen – thế giới quan cách mạng
của giai cấp vô sản. Sau những năm tháng lao động miệt mài, vất vả và nghiêm túc
để đấu tranh giành lại quyền lợi cho giai cấp vô sản, giải phóng nhân loại khỏi mọi
áp bức bất công, ngày 14/ 03/ 1883, Mác đã ngủ một giấc ngàn thu. Nhân loại đã
sớm mất đi một khối óc xuất sắc nhất mà ngày nay chúng ta khó có được. tên tuổi
và sự nghiệp của ông sẽ còn sống mãi đến muôn đời.
Mác là một nhà kinh tế chính trị thên tài và ông cũng là một nhà triết học xuất
sắc, cùng với Ăngghen, ông đã để lại nhiều tác phẩm triết học nổi tiếng mà đến
ngày nay chúng ta vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu và học tập để tìm ra những giá
trị lớn lao của chúng.
Những tác phẩm lớn của ông có thể kể tới như:
+ Giai đoạn 1: Những tác phẩm thời trẻ, tính cho đến năm 1845, ngoài
luận án tiến sĩ, là:
- Năm 1844, khởi thảo Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen
- Năm 1844, tập Bản thảo kinh tế và triết học
- Viết chung với Ăngghen năm 1845, Hệ Tư Tưởng Đức và Gia đình thần
thánh
- Năm 1845, Luận cương Phoi-ơ-bắc
+ Giai đoạn 2:
- Năm 1848, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
- Năm 1847, Sự khốn cùng của triết học.
- Hai năm 1857-1858, Những nguyên lý phê phán Kinh tế - Chính trị học.
+ Giai đoạn 3:
- Tư Bản tập 1 và tập 2, 3 do Ăngghen xuất bản; Lý luận về Giá trị thặng
dư do Cau-sky xuất bản.
- Năm 1975, Phê phán cương lĩnh Gôta
14
Những tác phẩm của Mác đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nó chứa đựng những
bài học quý để chúng ta nghiên cứu, học tập.
1.2.2 Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời: Trong thời kì từ những năm 1843 – 1844 được coi là thời
kì đóng vai trò quan trọng quyết định tới sự hình thành chủ nghĩa Mác. Mác đã tổng
hợp các quan điểm triết học, kinh tế và chính trị thành một thể thống nhất, toàn vẹn,
trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Và sau khi thấy được “xã
hội công dân” là cơ sở, nguồn gốc của nhà nước và hiểu ra rằng đây mới chính là
“lĩnh vực phải đi vào để tìm ra chiếc chìa khóa giải thích thế giới, giải thích quá
trình lịch sử tự nhiên của xã hội loài người”, Mác đã quan tâm nghiên cứu đời sống
kinh tế, xã hội tư bản nhẳm hiểu rõ chế độ kinh tế của nó, và chứng minh rằng giai
cấp vô sản là lực lượng cơ bản của cuộc cách mạng cộng sản. Và kết quả đầu tiên
của nghiên cứu này là “Bản thảo kinh tế - triết học 1844” được Mác viết từ tháng 4
đến tháng 8 năm 1844, bằng tiếng Đức, công bố toàn văn lần đầu tiên trong Max-
Engel Gesamtausgabe.Erste Abteilung, Bd 3, 1932. Tác phẩm này hiện này được in
trong tập 42 của bộ sách “C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập”, do NXB Chính trị quốc
gia ấn hành năm 2000.
Nét đặc trưng của Bản thảo này là ở chỗ, bằng việc tập trung tìm hiểu các vấn
đề của kinh tế, chính trị học, Mác thể hiện không chỉ như một nhà nghiên cứu kinh
tế mà còn như một nhà triết học và xã hội học, nhà lý luận cách mạng và nhà hoạt
động thực tiễn. Để có được những ý tưởng tạo thành Bản thảo này, Mác đã phải làm
quen với “các tác phẩm của Phoi-ơ-bắc như “Những luận điểm cơ bản trong triết
học của tương lai”, “Khởi thảo tuyên ngôn về cải cách triết học”, của Xây: “Khái
niệm về khoa kinh tế chính trị”, của Xcabếch: “Học thuyết về của cải xã hội”,
Xmít: “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân của sự giàu có của các dân tộc” và
của Ricácđô “Về nguyên lí kinh tế chính trị” và một số các ghi chép về kinh tế
chính trị của Ph.Ăngghen” [số 2, tr 87]
15
b. Mục đích của Bản thảo: Xét về mặt nhận thức, Bản thảo này là một công
trình nghiên cứu kinh tế. Tuy nhiên mục đích của nó rộng lớn hơn nhiều. Chủ đề
kinh tế đan xen với các luận điểm triết học, làm rõ mục đích của Mác là “giải thích
trên cơ sở khoa học đời sống của con người, thái độ phê phán đối với phương pháp
luận kinh tế chính trị đương thời, các quan niệm không tưởng về xã hội, sự phân
tích triết học vấn đề tha hóa trong lao động và khắc phục tha hóa, vấn đề giải
phóng chính trị và giải phóng con người thông qua xóa bỏ tích cực chế dộ tư hữu”
[số 2, tr 85]. Với mục đích đó tác phẩm mang ý nghĩa kinh tế, triết học thực sự đúng
như cái tên của Bản thảo này.
c. Kết cấu của tác phẩm: “Bản thảo đến tay chúng ta dưới dạng ba bản thảo
trên các tờ giấy cỡ 30 x 40 cm, mỗi bản thảo được đánh số trang riêng của nó
(đánh bằng chữ số La Mã)” [số 1, tr 659]. Đây là bản sơ thảo đầu tiên của cuốn
sách “Phê phán chính trị và khoa kinh tế chính trị” của Mác. Vì được trình bày như
những bản thảo kết hợp lại nên người đọc trong khi tìm hiểu về Bản thảo phải chấp
nhận một kết cấu không theo trình tự các mục như cách sắp xếp thông thường.
Ngoài lời tựa, các chủ đề lần lượt được triển khai như sau:
[Bản thảo thứ nhất] với các nội dung: I. Tiền công; II. Lợi nhuận của tư bản (1/
Tư bản, 2/ Lợi nhuận của tư bản, 3/ Sự thống trị của tư bản đối với lao động và
động cơ của nhà tư bản, 4/ Tích lũy tư bản và cạnh tranh giữa các nhà tư bản); III.
Địa tô và [lao động bị tha hóa].
[Bản thảo thứ hai] với nội dung [Quan hệ sở hữu tư nhân]
[Bản thảo thứ ba] với [Bản chất của chế độ tư hữu trong sự phản ánh của kinh
tế chính trị học]; [Chủ nghĩa cộng sản]; [Nhu cầu, sản xuất, và phân công]; [Tiền].
Phê phán phép biện chứng và triết học nói chung của Hêghen.
d. Nội dung triết học cơ bản của tác phẩm:
16
Theo cuốn sách “Giới thiệu kinh điển triết học Mác – Lênin” của Khoa Triết
học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Hà Nội, “Bản thảo kinh tế -
triết học 1844” có 6 nội dung cơ bản sau:
1. Tư tưởng khoa học về con người
2. Quan niệm về lao động sản xuất
3. Quan niệm về xã hội
4. Tư tưởng về sự phát triển của con người và xã hội loài người
5. Tư tưởng duy vật lịch sử cơ bản
6. Những nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Đặc biệt trong Bản thảo đã thể hiện một cách khá toàn diện và có hệ thống
những tư tưởng triết học, khoa học quan trọng về lịch sử, Mác đã cho thấy rõ ràng
sự hình thành tư tưởng cơ bản về lịch sử. Và với tư tưởng đó ông đã có cơ sở khoa
học cho việc xây dựng chính xác hơn những tư tưởng về con người. Bản thảo có ý
nghĩa như “bào thai của hệ thống lý luận khoa học về lịch sử” (sách thầy Chung, tr
43).
17
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN NIỆM CỦA MÁC VỀ CON
NGƯỜI TRONG “BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844”
2.1 Quan niệm của Mác về bản chất con người
2.1.1 Khái niệm “con người” trong “Bản thảo”
Trong quá trình hình thành quan niệm duy vật lịch sử về con người của Mác,
“Bản thảo kinh tế - triết học 1844” được coi là một dấu mốc quan trọng. Ở đây lần
đầu tiên, khái niệm “con người” được Mác trình bày theo quan niệm duy vật lịch sử
một cách tương đối rõ ràng.
- Từ việc so sánh, phân biệt phương thức hoạt động sống của con người với
phương thức hoạt động sinh tồn của động vật, Mác đã đi đến khẳng định con người
- đó là phương thức tồn tại đặc thù của con người.
Dẫn chứng: “Động vật trực tiếp đồng nhất với hoạt động sinh hoạt của mình.
Nó không phân biệt nó với hoạt động sinh hoạt của nó. Nó là hoạt động sinh hoạt
ấy. Còn con người thì biến bản thân hoạt động sinh hoạt của mình thành đối tượng
của ý trí và ý thức của mình. Hoạt động sinh hoạt của con người là có ý thức. Đó
không phải là cái tính quy định mà con người trực tiếp hòa làm một với tính quy
định đó”.
Hoạt động sinh tồn của con người khác với hoạt động sinh tồn của con vật ở
chỗ: “súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu của giống loài của
nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của bất cứ giống loài nào và ở
đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối tượng; do đó con người nhào
nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”.
Mác đã nói tới phương thức tồn tại của con người với tư cách là toàn bộ
hoạt động cải tạo đối tượng sản xuất của con người. Hoạt động đó diễn ra một cách
thường xuyên, phổ biến và mang tính kế thừa, có tổ chức xã hội của con người.
- Trong “Bản thảo”, Mác đã trình bày quan niệm về con người chủ yếu xuất
phát từ những con người đang lao động sản xuất ra của cải vật chất, trong xã hội tư
18
sản đó là những người công nhân. Họ là những người vô sản, đang tồn tại, hoạt
động trong điều kiện lao động bị tha hóa và tự tha hóa. Đó là những con người riêng
biệt, là cá nhân hiện thực và có thể được xác định bởi kinh nghiệm.
“Trong điều kiện của lao động bị tha hóa người xem xét người khác căn cứ
vào thước đo và quan hệ mà trong đó bản thân mình tồn tại với tư cách là người
công nhân”.
“Con người là một cá nhân đặc thù nào đó và tính đặc thù ấy làm cho nó
thành ra một cá nhân và một thực thể xã hội cá thể hiện thực”
- Mác còn cho rằng con người đó là một mẫu hình lý tưởng về sự tồn tại và
phát triển của con người, để khi đối chiếu mẫu hình đó với những hoạt động sinh
hoạt hiện thực của con người sẽ cho thấy những hoạt động ấy có mang tính người
hau không mang tính người.
Trong điều kiện nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, người công nhân chỉ nhận được
vừa đủ cái cần thiết để họ duy trì sự sống, song “không phải sống như một con
người mà như một công nhân” và để “sinh đẻ ra không phải loại người mà ra giai
cấp những người nô lệ - những người công nhân”
- Đôi chỗ trong “Bản thảo” Mác cũng nói con người là chủ thể trừu tượng. Con
người với tư cách là con người tự nó – con người được trừu tượng hóa khỏi các mối
quan hệ, các điều kiện các hình thức và phương tiện hoạt động hiện thực của nó:
“sự tồn tại trừu tượng của con người coi như chỉ là con người lao động”
Trong “Bản thảo kinh tế - triết học 1844”, thuật ngữ “con người” được
Mác sử dụng không đơn nghĩa: con người vừa là phương thức tồn tại của con người
trong thế giới, là một cá nhân riêng biệt, là mẫu hình sinh hoạt của con người, là đại
diện điển hình của nhân loại… Do thuật ngữ đa nghĩa nên phải xuất phát từ tính đa
nghĩa ấy để tìm ra các mối quan hệ giữa con người – con người, con người với tự
nhiên và con người với xã hội.
2.1.2 Con người là thực thể tự nhiên có tính chất người
19
Mác hiểu rằng con người chính là một “sinh vật có tính loài”, là “thực thể tự
nhiên có tính chất người nghĩa là thực thể tồn tại cho bản thân mình và do đó là
thực thể loài” (sách thầy Chung, tr 45).
+ So sánh với “tính loài” của Phoi-ơ-bắc
+Mặt tự nhiên là cơ thể sinh vật của con người và mối liên hệ hữu cơ của nó
với giới tự nhiên ở bên ngoài: “Con người là một bộ phận của giới tự nhiên”, “giới
tự nhiên là thân thể vô cơ của con người” tư tưởng độc đáo
+ Mặt xã hội chính là toàn bộ hoạt động của con người, trước hết là hoạt động
lao động sản xuất và những mối liên hệ giữa con người với nhau.
Hai mặt này liên hệ hữu cơ với nhau và đều gắn liền với thực thể người.
Mác đã dựa vào đó để nêu bật những đặc trưng của cđã dựa vào đó để nêu bật
những đặc trưng của con người. Những đặc trưng nhằm vào sự phân biệt con người
với con vật.
2.1.3 Bản chất xã hội của con người
Bản chất xã hội của con người được biểu hiện tập trung trong quan niệm của
ông về hoạt động đối tượng hóa con người – hoạt động lao động sản xuất vật chất.
Nhờ quá trình đối tượng hóa này mà tự nhiên biến thành tự nhiên thứ hai, thành tác
phẩm của con người, “con người có thể nhận thức, chiêm ngưỡng và hưởng dụng
bản thân mình trong thế giới sản phẩm do nó sáng tạo ra” (t. Chung, tr 53).
Dẫn chứng: “Còn đời sống sản xuất thì chính là đời sống có tình loài. Đó là
đời sống đẻ ra đời sống. Tính chất của hoạt động sinh sống bao hàm toàn bộ tính
chất của một chủng tộc nhất định, tính loài của nó, và hoạt động tự do, có ý thức
chính là tính loài của con người”
“Hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động
sinh sống của con vật. Chính vì thế mà con người là sinh vật có tính loài”.
20
“Việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc cải tạo giới tự nhiên vô
cơ là sự tự khẳng định của con người với tư cách là một sinh vật có tính loài có ý
thức, nghĩa là một sinh vật đối xử với bản thân mình như một sinh vật có tính loài”
Những luận điểm này thể hiện sự khác biệt giữa quan niệm của Mác và
những quan niệm trước ông về bản chất con người. Với Mác con người hiện thực,
con người xã hội không phải là những con người tồn tại cô lập, trừu tượng và chỉ ở
trong ý thức mà trước hết đó là những con người hoạt động sản xuất. Bản chất con
người phải bộc lộ ra trong tổng thể những hoạt động, quan hệ của con người và phải
được nhận thức ngay trong quá trình lao động sản xuất vật chất ấy.
- Mác cũng phân tích bản chất này rõ hơn trong khi xem xét lao động bị tha
hóa. Ông đã chỉ ra rằng trong điều kiện lao động bị tha hóa, con người đã biến hoạt
động lao động tức là biến cái bản chất của mình thành phương tiện để duy trì sự tồn
tại thể xác của mình, nó trở thành cái ở bên ngoài anh ta. “Trong lao động bị tha
hóa, con người đã thay thế cái nhu cầu đặc trưng cho con người, tức nhu cầu lao
động, bằng nhu cầu tồn tại nhục thể đơn thuần, nên lao động trở thành cưỡng bức”
- Mác chỉ ra rằng hoạt động đối tượng hóa vừa là quá trình, phương thức xác
lập bản chất con người, vừa là quá trình thể hiện, khẳng định bản chất con người:
“Chúng ta thấy rằng con người không để mất bản thân mình trong đối tượng của
mình chỉ trong trường hợp đối tượng ấy trở thành đối tượng của con người đối với
con người, hoặc trở thành con người đã đối tượng hóa, Điều đó chỉ có thể có được
khi đối tượng ấy trở thành đối tượng xã hội đối với con người, bản thân con người
trở thành thực thể xã hội đối với mình, còn xã hội thì trở thành bản chất đối với con
người trong đối tượng đó”.
Tóm lại. trong “Bản thảo”, thứ nhất, Mác chủ yếu để cập đến con người với tư
cách cá nhân con người, do đó bản chất con người chủ yếu được ông giải thích là
bản chất của con người cá nhân. Thứ hai, thực chất quan niệm của ông về bản chất
con người chính là quan niệm về tính người của con người để phân biệt con người
21
với con vật. Bản chất ấy là sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội, giữa con người
với tự nhiên, giữa xã hội và con người và giữa con người với nhau.
2.2 Quan niệm của Mác về phát triển con người
- Trước hết Mác giả thích phát triển con người, xã hội gắn liền với hoạt động
bản chất của con người, đó là lao động. Ông khẳng định: “Toàn bộ cái gọi là lịch sử
của toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo của con người kinh qua lao động
của con người, sự sinh thành của tự nhiên cho con người” Tư tưởng của Mác về
phát triển con người đó là quá trình không ngừng xác lập, khẳng định bản chất con
người tức là tính người của con người một cách hiện thực, trước hết là trong lao
động sản xuất.
- Sự phát triển con người còn hàm chứa một quan niệm sâu sắc hơn của Mác
đó là việc khẳng định bản chất con người về thực chất là để cho con người đạt được
trạng thái hòa đồng giữa nó và tự nhiên, giữa con người và xã hội, giữa con người
với con người. Điều đó có nghĩa là để con người có thể đạt tới hình thức cộng đồng
mới, cao hơn, cộng đồng toàn nhân loại. Để đạt được trạng thái đó, cần phải xóa bỏ
tình trạng lao động bị tha hóa và xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản. “Đấy là quá trình con
người chiếm lại tự nhiên, thế giới đối tượng, chiếm hữu lại con người bản chất con
người của mình”.
- Ông chỉ ra lịch sử phát triển xã hội loài người nói chung trải qua các giai
đoạn đặc trưng bằng những tổ chức xã hội nhất định, mà giai đoạn hiện nay là chế
độ tư hữu tư sản. Xu hướng chung của toàn bộ lịch sử loài người là đi đến chủ nghĩa
cộng sản, một trạng thái hòa đồng giữa con người với tự nhiên, xã hội và tự nhiên,
con người và con người.
2.3 Quan niệm của Mác về giải phóng con người
- Dựa trên việc khẳng định bản chất con người, Mác đi đến phân tích những sự
tha hóa của con người trong chủ nghĩa tư bản và con người bị đánh mất bản chất
chân thực của mình.
22
Con người tồn tại gắn liền với lao động, lao động trở thành thuộc tính chung
của con người. Nhưng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, lao động của con người
đã bị tha hóa. Theo Mác thì lao động bị tha hóa chính là việc người lao động bị tách
ra khỏi những điều kiện căn bản nhất của quá trình lao động, tức là những công cụ
lao động, tư liệu lao động nói chung. Và nguyên nhân trực tiếp của sự tách rời ấy là
chế độ tư hữu tư sản.
- Vậy điều kiện để giải phóng giai cấp công nhân, những người lao động cần
lao là gì? Mác trả lời đó là xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ chế độ tư hữu: “Xóa bỏ một cách
tích cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng định sinh hoạt của con người là sự
xóa bỏ một cách tích cực mọi sự tha hóa”.
- Mác cho rằng để giải phóng con người toàn diện thì phải xây dựng một xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa thông qua việc tiến hành cách mạng cộng sản chủ
nghĩa: “chủ nghĩa cộng sản như vậy, với tính cách là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, =
chủ nghĩa nhân đạo, với tính cách là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, = chủ nghĩa tự
nhiên; nó giải quyết thực sự mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên; giữa con người
và con người; là sự giải quyết thực sự cuộc tranh chấp giữa tồn tại và bản chấp,
giữa đối tượng hóa và sự tự khẳng định, giữa tự do và tất yếu, giữa cá thể và loài.
Nó là sự giải quyết câu đố của lịch sử và nó biết rằng nó là sự giải quyết ấy”.
Chính người công nhân phải đứng lên để tự giải phóng cho mình, cho giai
cấp mình và tiến tới giải phóng cho toàn nhân loại.
2.4 Ý nghĩa quan niệm của Mác về con người
KẾT LUẬN
23