Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết mười lẻ một đêm của hồ anh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.35 KB, 81 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP PHÚ XUÂN
KHOA XÃ HỘI – NHÂN VĂN
HOÀNG THỊ TỐ NGA
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU
THUYẾT MƯỜI LẺ MỘT ĐÊM CỦA HỒ ANH THÁI
TIỂU LUẬN NĂM THỨ BA
NGÀNH : NGỮ VĂN
Giáo viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Lê Thị Thúy Hằng Hoàng Thị Tố Nga
Huế, 05/ 2011
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, tôi xin chân thành cảm ơn trường
Đại học Dân Lập Phú Xuân cùng khoa Xã Hội Nhân Văn đã tạo điều kiện
cho tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện bài tiểu luận này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Giảng viên Lê Thị
Thúy Hằng đã quan tâm giúp đỡ tận tình tôi về mọi mặt.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!!
Huế, tháng 05 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Hoàng Thị Tố Nga
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Văn học là nhân học”, tức văn học lấy con người làm mục đích và đối
tượng của mình. Trong văn học, con người hiện lên một cách cụ thể, sinh động
với tất cả những mối quan hệ của nó. Cũng chính con người với những cảm xúc,
tình cảm đã tạo nên sự kì diệu cho cuộc sống. Người nghệ sĩ trong quá trình sáng
tạo của mình luôn vươn tới cái đẹp, cái hoàn mĩ. Những tác phẩm nghệ thuật
chân chính luôn hướng con người trong cõi nhân gian.
Văn học Việt Nam sau năm 1975 có sự chuyển đổi mạnh mẽ và thu được


nhiều thành tựu quan trọng. Đánh giá về giai đoạn văn học sôi động này, Đại hội
Đảng lần thứ 6 khẳng định:Đời sống văn học đang có nhiều hứa hẹn đồng thời
cũng đang nảy lên những vấn đề mới, những bước phát triển đáng mừng, thu hút
sự quan tâm của nhiều tầng lớp độc giả. Văn học đổi mới phát triển mạnh mẽ với
phương châm dân chủ hóa, mới mẽ về tư duy nghệ thuật để nhận thức lại con
người. Các nhà văn trong khi cố gắng khám phá cái thế giới bí ẩn, khuất lấp, đầy
bất trắc và bất thường bên trong mỗi con người, bên trong bản - thể - người, đều
đang tìm một hướng đi riêng để khẳng định mình. Trong số đó có những người
đã trở thành hiện tượng nổi bật của văn học đổi mới như Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ… Mặc dù không nổi
bật ngay từ đầu nhưng Hồ Anh Thái đã bền bỉ tạo cho mình một phong cách vô
cùng độc đáo, tinh tế và mang đậm những đặc sắc riêng biệt.
Bằng tài năng, nhiệt huyết, trái tim giàu yêu thương của mình, nhà văn Hồ
Anh Thái đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị với một cách
viết mới mẻ, một văn phong mang dấu ấn cá nhân sâu sắc. Ông sáng tác nhiều thể
loại trong đó tiêu biểu là tiểu thuyết. Đến với Hồ Anh Thái ta bắt gặp một giọng
điệu tươi mới, trẻ trung, tinh nghịch, hiện đại khi văn chương Việt Nam vẫn chưa
qua khỏi sự ám ảnh và nỗi buồn của chiến tranh qua quan niệm nghệ thuật về con
người
Hồ Anh Thái là một trong số không nhiều những cây bút xuất hiện sớm và
để lại dấu ấn văn xuôi đương đại Việt Nam. Tác phẩm của ông tái hiện nhiều
kiếp người, cảnh người trong nhiều thời điểm, nhiều tình huống để qua đó nói lên
cảm nhận về nhân sinh. Hơn nữa, tác phẩm của Hồ Anh Thái thường đề xuất thể
nghiệm những nhận thức mới về xã hội, những cách nhìn mới về nghệ thuật
nhằm tạo sự phù hợp, hiệu quả trong việc thể hiện con người theo cảm quan của
mình. Với gần 30 năm cầm bút, ông đã cho xuất bản hơn 20 tập truyện ngắn và
tiểu thuyết. Hồ Anh Thái đã từng đạt giải thưởng của văn xuôi 1983 – 1984 của
Báo Văn nghệ với truyện ngắn Chàng trai ở bến đợi xe, nhận giải văn xuôi 1986
– 1990 của Hội nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Người và xe chạy dưới trăng.
Nhiều cuốn sách của ông đã được chọn dịch, giới thiệu ở nước ngoài và tạo được

dư luận tốt.
Trong đó, quan niệm nghệ thuật về con người là một tiêu chí quan trọng
để đánh giá giá trị của tác phẩm văn học.Cảm nhận tác phẩm là cảm nhân từ cái
nhìn của tác giả về con người thể hiện trong tác phẩm. Đồng thời, quan niệm
nghệ thuật về con người còn được xem là nhân tố cơ bản, là điểm xuất phát cho
mọi sự sáng tạo của nhà văn. Những phương tiện, thủ pháp nghệ thuật được nhà
văn sử dụng trong tác phẩm, từ xây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu cốt truyện hay
giọng điệu trần thuật… đều chịu sự chi phối và góp phần thể hiện con người theo
quan niệm của tác giả. Vì vậy, xuất phát từ quan niệm nghệ thuật về con người để
tìm hiểu tác phẩm văn học được xem là một trong những biện pháp quan trọng để
có cái nhìn toàn diện về sự sáng tác của mỗi nhà văn cũng như về một giai đoạn
văn học.
Chọn đề tài :Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ
một đêm của Hồ Anh Thái- một tác giả ngày càng được dư luận chú ý nhưng
chưa được đánh giá toàn diện, chúng tôi muốn thể nghiệm quan niệm nghệ
thuật về con người trong tác phẩm văn xuôi của ông. Mặt khác tìm hiểu những

.
tìm tòi cách tân nghệ thuật của cây bút này, phù hợp với dòng chảy của những
cách tân trong văn xuôi Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt trong Mười lẻ một đêm, với tiếng cười của mình, Hồ Anh Thái
đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên
đang tồn tại trong cuộc sống. Mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận
thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và
chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực.
Là sinh viên, chúng tôi mang trong mình niềm đam mê tìm hiểu, khát
khao khám quan niệm nghệ thuật về con người trong văn chương nói chung và
trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái nói riêng để qua đó hiểu hơn về con người.
Việc thực hiện đề tài còn là dịp cho chúng tôi bước đầu làm quen, tập
nghiên cứu độc lập một vấn đề văn học, từ đó giúp chúng tôi nâng cao kiến thức

cũng như kinh nghiệm cho việc học tập và nghiên cứu sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Anh Thái là nhà văn ngày càng có nhiều công chúng, các tác phẩm
của ông ngày càng gây được nhiều sự chú ý của dư luận và bạn đọc. Để có cơ sở
cho một cái nhìn sâu sắc, bao quát đối với nghệ thuật truyện ngắn, vừa không
dẫm dấu chân người đi trước, vừa đảm bảo tính khách quan khoa học, chúng tôi
xin lược khảo những nghiên cứu, đánh giá về những quan niệm sáng tác của Hồ
Anh Thái.
Hồ Anh Thái với những sáng tác của mình, đã thực sự thu hút và tạo được
những ấn tượng tốt cả trong và ngoài nước. Hiếm có tác giả nào có sức sáng tạo
dồi dào và có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau như Hồ Anh Thái. Nhìn chung,
các đánh giá dừng lại ở dạng bài viết cho từng tập truyện, từng tiểu thuyết, hay
từng truyện ngắn trước vấn đề mà Hồ Anh Thái đặt ra trong tác phẩm của mình,
chẳng hạn như:
Những bài phỏng vấn Hồ Anh Thái xoay quanh tiểu thuyết Mười lẻ một
đêm của ông mới xuất bản gần đây.
Mười lẻ một đêm là cuốn tiểu thuyết thành công của Hồ Anh Thái, ở đó chủ
âm là giọng giễu nhại, hài hước. Được kể chủ yếu theo kiểu hoạt cảnh nhờ việc
tạo dựng ra những màn kịch nhỏ trong một màn kịch lớn, vở hài kịch về chuyện
hẹn hò thời hiện đại được Hồ Anh Thái “cường điệu” một cách hợp lí. Lồng vào
câu chuyện hẹn hò của hai nhân vật chính này là biết bao con người, biết bao
mảnh đời khiến độc giả cười ngả nghiêng mà chua xót. Hồ Anh Thái đã sử dụng
grotesque với chất giọng giễu nhại để “lật tẩy”. Giễu nhại văn hóa thi hoa hậu:
Bạn sẽ làm gì ngay sau khi đăng quang hoa hậu? Em kính thưa ban giám khảo,
nếu em đăng quang hoa hậu, việc đầu tiên em sẽ hiến thân cho người nghèo trong
xã hội (Mười lẻ một đêm); Giễu nhại hội Lim: …Bờ ao kè xi măng. Không còn bờ
cỏ tự nhiên. Mấy con thuyền bằng sắt tây chen nhau đi vòng quanh bờ ao. Anh hai
đi giày Tây, chị hai đi giày khủng bố. Anh hai khăn đóng áo dài, chị hai tứ thân
mớ ba mớ bảy. Mỗi người cầm một cái micơzô. Còn duyên ngồi gốc cây thông,
Hết duyên ngồi gốc cây hồng hái hoa (Mười lẻ một đêm); Giọng điệu giễu nhại

không chỉ bộc lộ qua cảm hứng mà thể hiện rõ qua việc cấu tạo ngôn ngữ, cấu
trúc câu. Chất giễu nhại kiểu grotesque, chất trào tiếu dân gian làm nổi rõ sự va
đập giữa hai mảng sáng tối: một thế giới của văn hóa và một thế giới lộn nhào
mọi giá trị, lố bịch và kệch cỡm. Chính sự dung hợp giữa chất trào tiếu dân gian
và chất suy tưởng bác học ấy đã khu biệt giọng điệu Hồ Anh Thái trong bản hợp
xướng nhiều bè của tiểu thuyết Việt Nam đương đại Việt. Nó được thể hiện qua
những câu trả lời của ông trước báo chí đã cho chúng ta hiểu rõ về những quan
niệm sáng tác mới của mình:
Cho đến trước Mười lẻ một đêm, thiên hạ bảo từ sau Cõi người rung
chuông tận thế (2003), Hồ Anh Thái không viết được cái gì mới hơn nên phải
quay sang “đỡ đầu” các “tài năng trẻ” để chứng tỏ sự - tồn - tại của mình và để
làm văn đàn bấy nay vốn tẻ nhạt thêm “xôm trò”. Anh nghĩ sao về những chuyện
kiểu này?
Thấy văn chương có cái gì hay là tôi muốn giới thiệu cho nhiều người cùng
thưởng thức. Có khi sự nồng nhiệt của mình làm người khác khó chịu. Nhưng dư
luận là cái không nên chống đỡ, và cũng không thể. Nhiều điều cơ bản của đời
sống con người là dựa trên nhầm lẫn và ngộ nhận - đừng có mong không bị người
đời hiểu nhầm! Mà cũng phải tự hỏi lại, chính ta đã làm gì nhiều để người đời
hiểu đúng về mình đâu? Bất kể thế nào thì mỗi ngày tôi vẫn viết ít nhất hai tiếng
đồng hồ. "Kho dự trữ" của tôi còn bản thảo hai tiểu thuyết viết trước Mười lẻ một
đêm nhưng chưa gửi in.
Trong Mười lẻ một đêm người ta thấy hiện rõ bộ mặt Hà Nội và Sài Gòn
với sự “giàu xổi” của giới trí thức, sự kệch cỡm của những “Phòng khách”, sự tẻ
nhạt của lớp thị dân, thói trưởng giả của giới thượng lưu... Vì sao đời sống thị dân
luôn trở đi trở lại trong các sáng tác của anh? Phải chăng vì anh cũng là một
công chức “sáng cắp ô đi, tối vác về” nên mới thấm thía hết cái nhợt nhạt, nhàn
nhạt của những “ao đời bằng phẳng” ấy ?.
Dịp đầu năm, có tờ báo mời viết truyện ngắn nhằm vào đối tượng độc giả
là nông dân, tôi phải lập tức trình bày: tôi không biết gì về nông thôn cả. Nếu
không có hai lần đi sơ tán thời chống Mỹ thì tôi không có một tí kỷ niệm nào về

cánh đồng, ao đầm, mùa màng... Có lẽ chính là hoàn cảnh đã chọn đề tài cho tôi,
sống đâu quen đấy, làm gì biết nấy. Không thể gọi là đã hiểu, nhưng có thể nói
tôi thuộc môi trường sống của mình.
Mười lẻ một đêm rồi trước đó là những Trại cá sấu, Bến Ôsin, Cõi
người rung chuông tận thế... thấy anh lạnh quá, tỉnh quá! Những điều tử tế,
những kẻ tử tế (kiểu như thằng Người Cá chẳng hạn) cũng bất thành nhân dạng,
cũng chỉ như thanh củi khô cháy leo lét, còn bao trùm là một bức tranh xám màu
về nhân tình thế thái. Phải chăng “cõi người ta” đã trở thành một sa mạc mênh
mông, hoang vắng của dục vọng và lòng ích kỷ đến mức anh phải “rung chuông
tận thế?.
Các nhân vật của tôi không có người hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Ngay
cả khi giễu nhại thì tôi cũng thấy trong đối tượng có cả hình bóng của chính mình
và người thân của mình. Không thể có chuyện vô can theo kiểu: "Chắc là nó trừ
mình ra!" Một số độc giả phản ứng có lẽ vì họ chỉ thấy tôi phê phán người đời mà
không đọc ra được cái chất tự giễu nhại của chính tôi. Dù sao đi nữa, nếu để cho
độc giả hiểu nhầm thì lỗi đầu tiên vẫn là của tác giả.
Hay là những bài nghiên cứu về Hồ Anh Thái của các tác giả Việt Nam. Ở
những bài viết này tác giả dù ít nhiều cũng đề cập đến những phương diện nghệ
thuật có liên quan phong cách cũng như những quan niệm nghệ thuật về con
người của ông đó là:
Nhà báo Lê Hồng Lâm nhận xét: Ngay từ khi xuất hiện, anh đã “phả” vào
văn học một giọng điệu tươi mới, trẻ trung, hiện đại khi văn chương Việt Nam vẫn
chưa đi qua khỏi sự ám ảnh và nỗi buồn của chiến tranh [3, tr 249].
Hay nhà văn Lê Minh Khuê nhận định: Đây là người con đi dài với văn
chương [3, tr 267]
Rồi Nguyễn Đăng Điệp khi khảo sát các sáng tác của Hồ Anh Thái đã
nhận định: Rõ ràng, xuất phát từ quan niệm coi cuộc đời như những mảnh vỡ, bản
thân mỗi một con người lại mang những mảnh vỡ, những xung lực khác nhau
trong trăm ngàn mảnh vỡ kia đã trở thành nét chính trong quan niệm về cuộc sống
của Hồ Anh Thái. Chính quan niệm này sẽ tao nên tính đa cấu trúc trong các tác

phẩm của anh [3, tr 350].
Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét: Văn viết lạ…có lẽ không chỉ ở sự tinh tế ở
văn phong, lối biểu đạt độc đáo, nhuần nhuyễn trong cấu tứ; mà chính ở chỗ anh
đã cho thấy những giao nhịp phức điệu giữa con người cá thể và nhân loại [3, tr
342].
Không dừng lại ở đó những sáng tác của Hồ Anh Thái cũng đã thực sự thu
hút và tạo được ấn tượng trong lòng các tác giả nước ngoài qua những nhận xét
chủ yếu tập trung chỉ ra cái nhìn dũng cảm của nhà văn về hiện “thực khi thế giới
thảm hại đi qua chiến tranh và sử dụng thay đổi văn hóa, cùng với văn phong vừa
hài hòa vừa sâu sắc của tác giả”:
Tiến sĩ văn học Ấn Độ K.Pandey đã từng nhận xét truyện ngắn viết về Ấn
Độ của Hồ Anh Thái trên báo The Hindustan là: Những dòng chữ của Hồ Anh
Thái là những mũi kim châm cứu Á Đông đã điểm đúng huyệt tính cách Ấn Độ[3,
tr 322]
Nhà văn Wayne Karlin (Mỹ) viết: Với lòng kính trọng và tình yêu, anh
chấp nhận điểm xuất phát của mình trong lịch sử và văn học nước nhà, nhưng
cùng mở hướng ra cho những ảnh hưởng khác – nổi bật là chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo Mỹ la tinh và tác phẩm của nhà văn Pháp gốc Czech Milan Kundera và
anh đã để cho tác phẩm của mình đưa văn học Việt Nam đương đại đi theo những
hướng mới [5, tr 391].
Còn rất nhiều bài viết về văn xuôi Hồ Anh Thái, trên đây chỉ là những
bài viết về tác phẩm tiêu biểu. Có nhiều bài viết cần bàn luận thêm nhưng hầu hết
các ý kiến đều khẳng định Hồ AnhThái là cây bút triển vọng, có phong cách đa
dạng, có cái nhìn đa chiều về hiện thực, có những cách tân về nghệ thuật. Qua
những tài liệu chúng tôi nhận thấy: chưa có nhiều công trình nghiên cứu quan
niệm nghệ thuật về con người trong các sáng tác của Hồ Anh Thái, bao gồm cả
tiểu thuyết Mười lẻ một đêm. Xuất phát từ thực tế đó, việc nghiên cứu quan niệm
nghệ thuật về con người trong sáng tác Hồ Anh Thái nói chung và trong tiểu
thuyết Mười lẻ một đêm nói riêng có thể xem là một hướng nghiên cứu hợp lý, có
ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn cao. Từ đó thấy được ý nghĩa thẩm mỹ đậm

chất nhân văn, những nét độc đáo trong nghệ thuật văn xuôi, cũng như những góp
của Hồ Anh Thái cho văn xuôi đương đại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối với đề tài này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là: quan niệm nghệ
thuật về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện và hoàn thành đề tài này, chúng tôi xác định phạm vi nghiên
cứu là tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiên hành nghiên cứu, căn cứ vào nội dung, yêu cầu của đề tài chúng tôi
đã sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê, miêu tả: thống kê các tác phẩm của Hồ Anh
Thái, cũng như những tác phẩm của các tác giả khác trong văn xuôi Việt Nam
sau 1975,các công trình nghiên cứu đi trước và nhiêu đánh giá, nhận xét. Trên cơ
sở đó để ta có một cái nhìn khách quan, tổng thể hơn về vấn đề.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp: cùng với việc thống kê cần phải có
một óc phân tích, tổng hợp một cách logic, hợp lý. Vừa tổng hợp vừa đưa ra
những dẫn chứng để phân tích, mổ xẻ vấn đề.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: Nhằm phân biệt sự giống và khác nhau
trong phong cách sáng tác nói chung và quan niệm nghệ thuật về con người nói
riêng qua tiểu thuyết Mười lẻ một đêm so với các tác phẩm khác của Hồ Anh
Thái, đồng thời là với các nhà văn khác.
4.4. Vận dụng lý thuyết thi pháp học: vận dụng các khái niệm,các phương
pháp và các tri thức trong thi pháp học để làm rõ hơn quan niệm nghệ thuật về
con người trong các tác phẩm văn học. Đặc biệt là đối với tiểu thuyết Mười lẻ
một đêm của Hồ Anh Thái.
5. Bố cục tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài của chúng tôi được
trong ba chương sau:

Chương 1: Hồ Anh Thái – Hành trình sáng tạo nghệ thuật.
Chương 2: Những kiểu quan niệm về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ
một đêm của Hồ Anh Thái.
Chương 3: Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ
một đêm của Hồ Anh Thái nhìn từ phương thức biểu hiện.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: HỒ ANH THÁI – HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ
THUẬT
1.1.Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Anh Thái
1.1.1. Cuộc đời
Hồ Anh Thái là một nhà văn đã và đang gây xôn xao trong văn học những
năm gần đây. Ông sinh ngày 18 tháng 10 năm 1960 tại Hà Nội, quê gốc ở Nghệ
An, tuổi nhỏ sống cùng gia đình tại Nam Định. Tốt nghiệp phổ thông năm 1977
rồi học Đại học Ngoại giao và nhận được bằng cử nhân năm 1983. Trong khi làm
việc ở Bộ Ngoại giao, Hồ Anh Thái được cử đi làm nghiên cứu sinh ở Ấn Độ. Tại
xứ sở được ví là Thiên đường của các thần linh ấy, ông đã học hỏi và rất nhanh
chóng thông thạo tiếng Hinđi. Nhờ vậy, ông đã có thể đi khắp Ấn Độ, vào các
chùa chiền để nghiên cứu văn hóa và tôn giáo, đồng thời khám phá những bí ẩn
sâu kín của đất nước rộng lớn này. Sau khi nhận bằng tiến sĩ Đông phương học,
ông được giữ lại làm ở đại sứ của Việt Nam tại Ấn Độ. Với cương vị mới, ông lại
có thêm điều kiện thâm nhập đời sống văn hóa tinh thần phong phú của người Ấn
Độ. Hồ Anh Thái còn đi xa hơn nữa tới cả những miền đất nơi Phật giáo Ấn Đô
lan tỏa tới. Những trải nghiệm và hấp thu một cách tự nhiên đời sống tâm linh,
văn hóa tinh thần phong phú ở Ấn Độ chính đã tạo ra cái chất “thiền” đặc sắc
trong các sáng tác của nhà văn. Từ Ấn Độ trở về, ông vẫn là một công chức ngoại
giao, nhưng ông nói công việc thực sự của mình là viết văn.
Không chỉ nhiều năm học tập và công tác ở Ấn Độ mà Tây Tạng cũng là nơi
đem lại nhiều kinh nghiệm, kiến thức quí báu cho Hồ Anh Thái và hiện ông đang
đảm trách chức vụ tham tán, phó Đại sứ nước Việt Nam tại Cộng hòa Hồi giáo
IRAN. Là tiến sĩ ngành văn hóa Phương Đông; từng là chủ tịch Hội Nhà văn Hà

Nội, ủy viên Ban Chấp hành hội nhà văn Việt Nam.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Mặc dù công tác đối ngoại chiếm khá nhiều thời gian và trí lực, nhưng Hồ
Anh Thái vẫn luôn dành tâm huyết cho văn chương. Từ tác phẩm đầu tay viết
năm tác giả 18 tuổi, đến nay ông đã có trên 30 đầu sách – bình quân mỗi năm 1
cuốn, trong đó có nhiều cuốn đã được dịch ra tiếng nước ngoài (Anh, Pháp, Thụy
Điển…). Hồ Anh Thái là tác giả sớm bộc lộ năng khiếu văn chương và sớm xác
định chỗ đứng của mình trên văn đàn. Đúng như Hoài Nam đã viết về ông: “Hồ
Anh Thái- người lúc nào cũng viết”.
Khởi nghiệp viết văn, Hồ Anh Thái nổi lên như một hiện tượng, với giọng
văn trẻ trung, tươi mới về đời sống thanh niên, sinh viên với những cuộc phiêu
lưu, những khát khao khám phá đời sống. Ông là một trong số không nhiều các
cây bút xuất hiện sớm và thành danh cũng rất sớm. Hồ Anh Thái đã từng đạt giải
thưởng của văn xuôi 1983-1984 của Báo Văn nghệ với truyện ngắn Chàng trai ở
bến đợi xe, nhận giải văn xuôi 1986-1990 của Hội nhà văn Việt Nam với tiểu
thuyết Người và xe chạy dưới trăng. Giải thưởng văn học năm 1995 của Hội Liên
hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam với tập truyện ngắn Người đứng một chân.
Ông là một nhà văn trưởng thành nhanh chóng và để lại dấu ấn khó phai trong
văn xuôi Việt Nam kể từ đổi mới (1986) đến nay.
Sáng tác của Hồ Anh Thái bao gồm tiểu thuyết và truyện ngắn, ở thể loại
nào ông cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Tác phẩm của ông tạo được sự
chú ý và gây ấn tượng với người đọc về tư tưởng chủ đề, nội dung và những thủ
pháp nghệ thuật. Bằng tài năng của mình, Hồ Anh Thái đã mang đến cho văn học
nước nhà sự mới mẽ độc đáo của một phong cách đang định hình và ngày càng
có nhiều công chúng đón nhận.
Trong thời gian làm việc ở Bộ Ngoại giao, Hồ Anh Thái đi nghĩa vụ quân
sự. Cũng dịp này, tập truyện ngắn Chàng trai ở bến đợi xe được xuất bản. Và tại
đây, vào tháng 11 năm 1985, Hồ Anh Thái đã viết cuốn tiểu thuyết Người đàn bà
trên đảo, đề cập đến những chấn thương về thể chất và tinh thần của những người
phụ nữ đi qua cuộc chiến tranh, trở thành quá lứa lỡ thì. Sau chiến tranh, những nữ

cựu chiến binh đó đến làm việc trong một lâm trường trên đảo Cát Bạc. Đây là câu
chuyện về cuộc chiến đấu tiếp tục của họ, hoặc là đau đớn chống lại những ham muốn
nhục dục thường tình, hoặc là nhẫn nhục thèm khát có một chút con làm nơi nương tựa
lúc cuối đời. Dù là nhà văn rất trẻ, nhưng ông đã đặt vấn đề về tình dục, về bản năng
con người và nhu cầu làm tròn thiên chức người phụ nữ. Đặc biệt, đề tài của tiểu thuyết
thực sự táo bạo, là cái giá mà những nữ cựu chiến binh phải trả trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ thật ghê gớm. Năm 1986, Hồ Anh Thái lại xuất bản tiểu thuyết Vẫn chưa tới
mùa đông. Và năm này ông cũng viết xong tiểu thuyết Người và xe chạy dưới trăng.
Sức viết của ông thật dồi dào, rất hiếm thấy trong số các nhà văn Việt Nam thời ấy và
cả hiện nay. Bây giờ nhìn nhận lại hiện tượng Hồ Anh Thái, chúng tôi thấy, ngay từ khi
bắt đầu sáng tác, ông đã thể hiện tính chuyên nghiệp trong việc viết văn. Điều này, sang
đầu thế kỷ XXI hầu hết các nhà văn nước ta còn chưa ý thức được.
Năm 1987, tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng được xuất bản.
Trong những truyện ngắn đầu tay, Hồ Anh Thái viết về đời sống tinh thần của
những thanh niên, sinh viên cùng trang lứa với những khao khát về cái đẹp, vươn
tới cái lương thiện. Nhưng rồi càng đi càng phải giữ mình trong sạch, mà đời cứ
luôn muốn nhấn người ta vào sắc dục, vào những chỗ không được lương thiện
lắm. Cuộc sống xã hội thời gian đó với những xô dập ghê gớm. Các nhân vật
trong tiểu thuyết đều còn trẻ, Toàn, Hiệp, Trang, Minh... mỗi người một số phận,
bị cuộc sống xô dạt về những nẻo khác nhau và họ phải vật lộn với số phận trên
con đường của đời mình. Với Người và xe chạy dưới ánh trăng, Hồ Anh Thái đã
khẳng định được một vị trí trong đời sống văn chương Việt Nam. Năm 1989, ông
lại viết tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra. Nhưng, Hồ Anh Thái kể lại những
câu chuyện chiến tranh nhằm đặt ra những vấn đề bức thiết của cuộc sống những
năm tám mươi, thế kỷ XX.
Đầu những năm 1990, sau nhiều năm nghiên cứu và làm việc ở nhiều nước
Âu – Mỹ, đặc biệt là 6 năm tại Ấn Độ, ông trở lại trên văn đàn với những chùm
truyện ngắn độc đáo, hài hước mà thâm trầm về Ấn Độ: Người đứng một chân,
Người Ấn, Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Cuộc đổi chác…
Từ năm 2000, ông có những tác phẩm được đánh giá cao và gây tranh luận

như: Cõi người rung chuông tận thế, Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Mười
lẻ một đêm… Cũng trong năm 2000, ông được bầu là chủ tịch Hội Nhà văn Hà
Nội.
Năm 2007, ông trở lại với đề tài Ấn Độ bằng tiểu thuyết Đức Phật, nàng
Savitri và tôi. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học Việt Nam tái hiện
chân dung Đức Phật thông qua một cốt truyện hấp dẫn, một văn phong giản dị,
một đa cấu trúc có hiệu quả mở rộng chiều kích không gian và thời gian. Sách
của ông thường được phát hành với số lượng lớn và đã được dịch ra hơn 10 ngôn
ngữ, trong đó có tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Thụy Điển…
Với sự miệt mài không ngừng nghỉ, Hồ Anh Thái đã góp phần làm phong
phú thêm cho nền văn học Việt Nam bằng những tác phẩm gây dấu ấn mạnh mẽ
trong lòng công chúng nước nhà và trên thế giới:
• Chàng trai ở bến đợi xe (1985)
• Phía sau vòm trời (1986)
• Vẫn chưa tới mùa đông (1986)
• Người và xe chạy dưới ánh trăng (1987)
• Người đàn bà trên đảo (1988)
• Những cuộc kiếm tìm (1988)
• Mai phục trong đêm hè (1989)
• Trong sương hồng hiện ra (1990)
• Mảnh vỡ của đàn ông (1993)
• Người đứng một chân (1995)
• Lũ con hoang (1995)
• Tiếng thở dài qua rừng kim tước (1998)
• Họ trở thành nhân vật của tôi (2000)
• Tự sự 265 ngày (2001)
• Cõi người rung chuông tận thế (2002)
• Bốn lối vào nhà cười (2005)
• Đức Phật, nàng Sivitri và tôi
• Mười lẻ một đêm (2006)

• Namaskar! Xin chào Ấn Độ (2008)
• Hướng nào Hà Nội cũng sông (2009)
1.2 Tác phẩm Mười lẻ một đêm và quan niệm sáng tác của nhà văn
1.2.1. Đôi nét về tác phẩm Mười lẻ một đêm
Mười lẻ một đêm ra mắt bạn đọc năm 2006, khi mà tiểu thuyết Việt đã có
nhiều những trang viết thành danh, thể hiện rõ lối cách tân mạnh mẽ. Nhưng Hồ
Anh Thái vẫn không bị che mờ bởi những tên tuổi cùng thời và của cả chính mình,
ông vẫn thể hiện một lối trần thuật riêng, có sự nối tiếp của những sáng tạo trước
đó của mình và có những bước tiến rõ rệt, thể hiện một văn tài đáng chú ý.
Bằng tiếng cười, tác giả của Mười lẻ một đêm đã phanh phui những cái nhẽ
ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống. Mặt
khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở
đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối,
sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực.
Mười Lẻ Một Đêm không phải là câu chuyện của một đời người mà là câu
chuyện của một xã hội đầy ấp những bi hài đầy màu sắc theo lời kể của nhân vật
trong truyện. Câu chuyện này được bắt đầu bằng tình huống cố tình được tổ chức
giống như cách bắt đầu truyện ngắn, bằng một lát cắt thời gian, trong một không
gian rất hẹp: một đôi tình nhân lâm tình huống, bị nhốt trong căn hộ trên tầng 6
chung cư suốt mười một ngày đêm. Tình huống này, từ góc nhìn báo chí, có thể
viết gọn vào một tin ngắn: một đôi từng yêu nhau thời trẻ, rồi chia tay, ai cũng
lập gia đình. Sau hơn mười năm tình cũ không rủ cũng về, họ được người bạn
cho mượn căn hộ tầng 6. Anh bạn họa sĩ tốt bụng, hồn nhiên khóa cửa buổi sáng,
hẹn chiều về giải phóng đôi tình nhân, nhưng anh ta biến mất tăm. Mười lẻ một
đêm bị nhốt, đôi tình nhân nếm trải đủ mọi hỉ nộ ái ố của cuộc đời thu nhỏ, trong
tình thế oái oăm, cho đến khi họ thoát khỏi cảnh ngộ dở khóc dở cười ấy. Và kết
cục chẳng hề có hậu: đôi tình nhân chia tay vĩnh viễn.
Phải nói ngay rằng, tay nghề tiểu thuyết của Hồ Anh Thái đã thực là cao tay
ấn trong tiểu thuyết này. Cả tiểu thuyết có thể dễ dàng tóm gọn trong một cái tin,
như những cái tin được thông báo đầy rẫy trên báo chí hàng ngày. Cách kể

chuyện ở đây cũng thế. Thoạt nhìn, thấy nhà viết tiểu thuyết kể lan man toàn
chuyện đời sống thường nhật vặt vãnh của một xã hội thị dân Việt Nam đương
đại, đang trôi chảy, như hàng ngày ta vẫn thấy chúng đang trôi. Nhưng đọc kĩ,
ngẫm kĩ, lại thấy nhiều điều đáng khóc, đáng nghĩ, đáng cười... Chính đằng sau
cái lối viết kiểu thông tin báo chí có vẻ khơi khơi trên bề mặt, lại là một góc nhìn
ở vị thế hắt sáng từ phía sau, từ bản thể, là cái giọng tiểu thuyết giễu nhại thâm
sâu của Hồ Anh Thái.
Và câu chuyện cũng đươc mở đầu khi tác giả đưa đẩy khá cẩn thận đôi khi
đọc sách cũng để thử thách sự kiên nhẫn, đọc sách dở cũng để thử thách sự khoan
dung. Trong khoảng thời gian có Mười lẻ một đêm người đọc sẽ cùng trải qua suy
nghĩ của hai nhân vật chính trong câu chuyện được tác giả mô tả trong một hoàn
cảnh rất đặc biệt Có một người đàn ông và một người đàn bà tìm thấy nhau và bị
nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm, và
mười lẻ một ngày . Thực ra cũng không phải là hai người bị nhốt. Người đàn ông
và người đàn bà cần có một căn phòng, ở với nhau một buổi sáng. Họ đến với
nhau và mượn căn hộ này của một người bạn.
Hai nhân vật vật chính được gọi là “chị” và “anh” thôi nhưng câu chuyện
không dừng lại ở mối tình khá đặc biệt của họ. Sự liên lạc của hai nhân vật chính
trong một thời gian khá dài chỉ là một cái phong bì cho tác giả để đề cập đến một
xã hội đang phát triển và đổi thay từng ngày cùng với những màu sắc âm thanh
đa dạng. Chuyện mười lẻ một ngày đêm chính là chuyện của hai đời người, của
mấy đời người, của một thời thế, của hôm qua và hôm nay được ghi chú trong cái
nhìn mới mẽ để rồi bất ngờ thu hẹp lại, sắc nét và tinh quái. Hồ Anh Thái dường
như không buông tha bất cứ điều gì từ chuyện các trường phái gây ấn tượng từ
các hoạ sĩ thời nay đến chuyện khu chung cư hiện đại nhưng không có đường
điện thoại do đầu tư không đồng bộ, chuyện nước non, chuyện sóng điện thoại di
động chập chờn đến chuyện học tập phong cách phong hàn, các kiến thức chỉ là
thủ tục chuyện nhà nghỉ nhà trọ, các kỹ thuật tự động cho tới những chuyện đi vệ
sinh vô tư của người dân nơi công cộng đến chuyện cô gái tuôỉ ba mươi chưa
chồng vì quá chin chắn, chuyện các danh nhân thời mở cửa yêu tỉnh táo, chuyện

các hôn nhân quyền cao chức trọng dắt nhau tìm các trang trại khai hoang
Trong suốt câu chuyện là giọng văn hài hước và khá châm biếm của tác
giả, người đọc cười ra nước mắt khi thấy chi tiết một ông nhận quà của cấp dưới..
sao chỉ có mỗi cái đầu nhỉ?.
Cuộc đời nhân vật “anh” thì ba chìm bảy nổi, anh kinh doanh du lịch khi mở
cửa rồi lại làm nhà sản xuất phim trong cơ chế thị trưòng nhưng rồi vì con đã
tránh xa nhiều nơi hư ảo ấy để rối nhận ra nhiều điều mặt trái của cuộc sống.
“Chị” thì từ vị trí phái gia trở thành vị phu nhân trong tầng lớp mới giàu có thăng
quan tiến chức hay như mua đất giá rẽ xem ra chi là mua vui cho qua ngày cho
những người thừa tiền.
Cuộc ngoại tình trớ trêu của hai nhân vật chính được đưa đến đỉnh điểm khi
mà họ bị nhốt một cách không cố ý, lơ lửng dường như cả thế giới này dừng tồn
tại bởi những lý do tế nhị bởi việc tạo ra những chuẩn mực đạo đức để rồi bị
chính những cái đó cấm cừ.
Mượn cớ là một câu chuyện tình nhưng cảm nhận của chúng ta lại xa hơn rất
nhiều phải chăng những trăn trở của đời thường vẫn còn vương vấn đâu đây khi
mà đọc truyện để rồi khi thấy bóng hình trên đó và để rồi có người sẽ chợt giật
mình hoặc có người khác thì lại mỉm cười độ lượng khi gấp quyển sách trên tay.
Nhưng dù sao đi chăng nữa, chỉ riêng việc khiến cho độc giả có thể cười khi
đọc Mười lẻ một đêm - trong bối cảnh một tình hình văn học quá ưa đạo mạo
nghiêm túc - đã là một thành công của nhà văn Hồ Anh Thái. Và để kết thúc bài
viết này, xin lặp lại một câu của Milan Kundera trong tập Những di chúc bị phản
bội: "Tim tôi đau thắt, khi nghĩ đến ngày Panurge không còn gây cười". Chính
những nét mới lạ, độc đáo cả về nội dung lẫn hình thức mà tiểu thuyết Mười lẻ
một đêm của Hồ Anh Thái đã đem lại những dấu ấn, những trải nghiệm cho công
chúng Việt Nam và thế giới.
Mười lẻ một đêm là một câu chuyện rộng lớn về cuộc sống thể hiện một cái
nhìn bao quát, khả năng phản ánh và phân tích những tồn tại trong xã hội, một tài
bút hài hước kiểu mới của tác giả. Tác phẩm một lần nữa khẳng định vị trí của
Hồ Anh Thái, thể hiện những bước tiến dài của ông trong nghệ thuật tiểu thuyết.

1.2.2. Quan niệm sáng tác của nhà văn Hồ Anh Thái
Trong sáng tạo nghệ thuật, cách nhìn cuộc đời của nhà văn đóng vai trò
rất quan trọng.Cách nhìn thể hiện cách cảm thụ, tư duy, quan niệm về thế giới
con người của nhà văn. Cách nhìn nghệ thuật luôn cố gắng nắm bắt phần cốt lõi,
bản chất của hiện thực. Từ đó hướng tới việc khai thác, khám phá bản chất thẩm
mỹ của đời sống, phát hiện ra những cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài… và thể
hiện chúng bằng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, sống động.
Cách nhìn nghệ thuật được coi là một hiện tượng khách quan, nó là một
thể thống nhất giữa hai mặt, cái được nhìn thấy và cách nhìn, cách cảm thụ, lý
giải của chủ thể sáng tạo hiện thực được phản ánh. Mỗi nhà văn có một cách nhìn
riêng về cuộc đời và con người. Chính cách nhìn đó đã tạo nên phong cách của
nhà văn. Nó không chỉ thể hiện lập trường đối với cuộc sống mà hơn nữa là thể
hiện sự hiểu biết về tình cảm đối với con người và cuộc đời. Cách nhìn chi phối
cảm hứng sáng tác và thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn.
Chính vì thế, Hồ Anh Thái cũng muốn một cách nhìn thế giới khác lạ trên
những sự kiện xác thực, với niềm tin sâu sắc rằng, cái nhìn của mình, cách mình
nghĩ, cách diễn đạt của mình mới là quan trọng nhất trong cuốn tiểu thuyết của
mình.
Với một quan niệm đúng mực về lao động và văn chương, Hồ Anh Thái nhiệt
tình với nghề và luôn có ý thức trách nhiệm đối với ngòi bút của mình. Sáng tạo,
đổi mới không lặp lại mình và không lặp lại phong cách của người khác. Chính
ông đã từng khẳng định ông có thể viết bằng hoặc hay hơn những tiểu thuyết và
truyện ngắn mà ông đã đọc. Ông quyết định không bắt chước mà tạo ra con
đường riêng. Chính điều này đã đưa ông trở thành một trong những nhà văn nổi
tiếng của thời hậu chiến, một trường hợp hiếm hoi trong nền văn học Việt Nam
đương đại.
Đại diện cho thế hệ nhà văn đổi mới thời hậu chiến, ông cho rằng thế hệ của
mình quá nhỏ để tham gia cuộc chiến, nhưng lại lớn lên với những âm thanh
cuồng nộ của chúng, vì vậy phải tiếp nhận và cũng cần phê phán quá khứ.
Hồ Anh Thái không chỉ gây chú ý bởi những sáng tác với phong cách độc

đáo, mà ngay cả với cái cách ông ứng xử trong làng văn. Trong lịch sử văn học
hiện đại Việt Nam chưa từng có một hội viên Hội Nhà văn nào lại từ chối tặng
thưởng của Hội. Nhưng Hồ Anh Thái thực sự là một con người có cá tính và
cũng rất đúng mực khi ông thẳng thắn nói rằng: Nhà văn đích thực phải là người
tử tế, cũng giống như nghề văn là một nghề cao quý…còn những cái mác, những
danh hiệu thì hãy coi chừng! Không khéo chỉ vì những thứ ấy mà bệnh ảo tưởng
của nhà văn càng nặng đấy.
Từng quan niệm viết tiểu thuyết là một giấc mơ dài, với những điều mà đời
thực không có, Hồ Anh Thái, trong một thập kỷ qua, đã đạt được những thành
tựu đáng kể trong lao động viết tiểu thuyết nhọc nhằn của một nhà văn thực sự
coi viết là một nghề. Giấc mơ dài này hiển thị bằng mấy cuốn tiểu thuyết gây
được sự chú ý trên văn đàn, đặc biệt là Cõi người rung chuông tận thế.
Đã có người so sánh rằng: cuốn tiểu thuyết này mới đến mức giống hệt sự ở
lì của thằng-bé- bào-thai trong tiểu thuyết Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh,
đến tháng đến ngày vẫn không muốn chào đời, vì nghe thấy cuộc đời thật lắm
phiền phức, sách nhiễu, phức tạp..., thà nằm im bụng mẹ, sướng hơn. Song thực
ra, Cõi người rung chuông tận thế, do một lối viết mới khiến biên tập viên không
dễ ứng xử, đã bị nằm yên trong cõi mê riêng của tác giả lâu đến mức ngoài ý
muốn, sáu năm trời. Nó đã lênh đênh qua dăm sáu nhà xuất bản, và chỉ nhờ
duyên may mới được chào đời ở NXB Đà Nẵng, tận miền Trung xa ngái. Có lẽ vì
nó gây hấn người đọc quá chừng, bởi cách viết “đa thanh” trong giọng kể nhiều
biến điệu của chủ thể tiểu thuyết Hồ Anh Thái, lại được dồn nén trong chưa đầy
300 trang, vừa đủ đọc trên một chuyến máy bay sang Paris chẳng hạn, nhưng lại
khiến người đọc phải ngẫm nghĩ rất lâu sau đó về cõi người ta. Chẳng phải ngẫu
nhiên mà cuốn tiểu thuyết này liên tiếp được tái bản và gây ra được những tranh
luận nhiều chiều từ người đọc.
Thực ra, cái viết trong mấy chục năm cầm bút của Hồ Anh Thái, nhìn từ cái
đọc của người đọc tiểu thuyết, có thể nói, đã được tạo lập, không chỉ một giấc mơ
dài, mà là một chuỗi giấc mơ tiểu thuyết, với mỗi tác phẩm ra đời là một-giấc-
mộng-con độc đáo.

Điều đó chứng tỏ, quan niệm viết tiểu thuyết của Hồ Anh Thái đã được kiến
trúc trên sự tự ý thức triết học về cái viết, đồng thời với quá trình vận động nhằm
đổi mới tư duy, giọng điệu và cách ứng xử với tiếng Việt. Với Hồ Anh Thái, viết
văn là một nghề hẳn hoi, chứ không phải thứ lao động tài tử, nghiệp dư, như khá
nhiều người lầm tưởng. Hồ Anh Thái từng so sánh, khi được hỏi về kinh nghiệm
sống và viết, rằng, cái viết trong nghề văn cũng có chút gì đó giống như tình yêu.
Cần một chút mê đắm, một chút thành thực là có tình yêu. Nhưng để nuôi dưỡng
tình yêu ấy lâu bền thì cần có hiểu biết, cần sự từng trải nữa. Hiểu biết không nhất
thiết chỉ từ sách vở, sự từng trải không nhất thiết là chỉ đắm chìm trong cái đời
thường.
Cho nên, Hồ Anh Thái tự đặt lịch: mỗi ngày tôi phải đều đặn viết ít nhất hai
tiếng. Người viết chuyên nghiệp phải thế, ngồi vào bàn là phải đủ kĩ năng để huy
động cảm hứng. Chờ cảm hứng dẫn thân tới là một thái độ lao động nghiệp dư và
có chút thần bí hóa nghề văn.
Chính cái ý thức đó, cái sự tự mình thách thức cái viết của chính mình đó
mà năm nào người đọc cũng được tiếp nhận tác phẩm mới của Hồ Anh Thái.
Năm 2006, một tiểu thuyết mới của Hồ Anh Thái vừa chào đời, thêm một giấc
mơ làm đầy đặn thêm chuỗi giấc mơ dài về tiểu thuyết của nhà văn không hề
muốn ngưng làm mới mình này.Và tất nhiên, một tiểu thuyết mới như thế, tự thân
nó yêu cầu một cách đọc mới.
Trong nhiều lần tranh luận về văn chương, Hồ Anh Thái có bộc lộ quan điểm
của ông: Nếu sử dụng phương pháp truyền thống thì quan niệm phải có nhân vật
là thỏa đáng. Gần đây người đọc hay nhắc đến một số nhân vật của tôi như cô
Ôsin, cô "cá sấu", anh xe ôm... Nhưng nhiều kiệt tác của văn xuôi hiện đại bói
cũng không ra nhân vật. Hãy nhìn vào Con đường xứ Flandres của Claude Simon,
Linh Sơncủa Cao Hành Kiện... đâu còn "nhân vật đáng nhớ" theo kiểu cổ điển
nữa. Xem một truyện ngắn , một tiểu thuyết hay, có thể người đọc chỉ lưu lại một
cảm giác thăng hoa, một hiện trạng tinh thần viên mãn, chứ không nhất thiết là
một nhân vật. Nhưng nói ra điều này ở ta vẫn chưa được chia sẻ ".
Ngay cả khi trả lời trên báo chí, nhà văn cũng đã thể hiện quan niệm riêng

về văn chương của mình. Ông cho rằng: Văn chương không cao quý hơn cũng
không tầm thường hơn giá trị tự thân nó vốn có. Còn nói chuyện sứ mệnh, nghe to
tát quá. Cuộc đời cần nhà văn như cần mọi người làm nghề khác, không thể thiếu
một nghề một người nào. Tuy nhiên, ở một xã hội đang vươn tới văn minh, nhiều
khi không có văn chương cũng chẳng ai thấy thiếu đâu.
Đồng thời, Hồ Anh Thái đề cập đến vấn đề nhiều người cầm bút thường bị
ám ảnh vì những ảo tưởng văn học: Ở một mức độ nào đó, thế gian này là cả một
hình ảnh huyễn tưởng trong vũ trụ. Văn chương nghệ thuật là hình bóng, là bản
sao của cõi huyễn tưởng đó. Cả ở những nghề khác, cả trong khoa học kỹ thuật,
người ta cũng đầy ảo tưởng về mình, về môi trường của mình. Đó là một thứ thuốc
giảm đau, nhờ nó người ta quên được thực tế nghiệt ngã về bản thân. Người ít ảo
tưởng giống như không chịu dùng thuốc giảm đau. Hình như tôi thuộc loại người
này. Còn “ảo tưởng” hiểu theo nghĩa bị nhân vật và cuộc sống trong tác phẩm
đang viết bắt mất hồn vía, thì nhà văn nào mà chẳng có lúc như trong "cõi mộng”.
Hồ Anh Thái đã luôn thay đổi, tự làm mới mình qua đề tài, cảm hứng và
phương pháp sáng tác. Nhà văn cho rằng: Hiện thực và không gian nghệ thuật của
mỗi cuốn sách đòi hỏi một cách xử lý riêng, một giọng điệu riêng, một văn phong
riêng… có phong cách là phải đa giọng điệu [3, tr 299]. Với trí tưởng tượng
phong phú và năng lực cảm nhận sâu sắc cuộc sống đã giúp cho nhà văn chiếm
lĩnh được hiện thực rộng lớn, đa chiều.
Nếu tiểu thuyết là nơi Hồ Anh Thái thể hiện bằng cái nhìn mới mẻ, thì
truyện ngắn ẩn chứa những cái nhìn ở chiều sâu triết lý, tâm linh và nhận thức về
cuộc sống, con người. Bằng suy tưởng, Hồ Anh Thái đã tái tạo và sáng tạo những
mảng hiện thực khác nhau, kì ảo đến ma quái nhưng rất thực. Một hiện thực phi
lý, phi logic nhưng có lý, phù hợp với triết lý nhà phật về luật nhân quả, luật quả
báo. Sự thay đổi của ông Diên (Món tái dê), Khoa (Vẫn tin vào chuyện thần tiên),
… chính yếu tố kì ảo làm cho hiện thực hấp dẫn, lung linh hơn và trở thành một
thủ pháp nghệ thuật của Hồ Anh Thái.
Hiện thực đối với Hồ Anh Thái là cõi tâm linh huyền bí, mang tính văn hóa
khi viết về Ấn Độ. Người Ấn là sự bất lực của phương Tây trước các giá trị thần

bí ẩn đầy sức cám dỗ, mê hoặc của phương Đông qua sự thất bại của Kitty. Tiếng
thở dài qua kim tước là tập tục nặng nề về của hồi môn, … có thể thấy cái hiện
thực này qua chùm truyện ngắn viết về Ấn Độ của Hồ Anh Thái.
Hồ Anh Thái muốn thông qua hiện thực đầy biến hóa kì ảo để tìm một lối đi
riêng, cách nhìn riêng, cách lý giải riêng, cắt nghĩa riêng về cuộc sống đem lại
cho văn học hiện đại một phong cách mới lạ. Hồ Anh Thái còn nhìn hiện thực
cuộc sống như những mảnh vỡ, xen cài giữa cái ác và cái thiện, cái cao cả và cái
thấp hèn, cái trang trọng và cái nhếch nhác, … Thông qua cái nhìn suồng sã của
tư duy nghệ thuật hiện đại, nhà văn đối thoại với nhân vật, với độc giả về những
giá trị của cuộc sống, về những vấn đề nảy sinh trong xã hội hiện đại. Vì vậy, đọc
sáng tác của nhà văn giai đoạn gần đây, người đọc bắt gặp nhiều chất giọng giễu
nhại ẩn chứa trong giọng điệu ấy là nụ cười chua chát về cõi nhân sinh. Tác giả
lật tẩy những trớ trêu nghịch cảnh trong cuộc sống để rồi từ đó nêu ra những triết
lý, triết luận về đời sống, về kiếp người. Hồ Anh Thái khẳng định: Tôi đã nhại
giọng chua cay của người này người khác theo lối tỉnh táo mà thấy rằng cả thực
tại ấy, cả cái giọng chua cay ấy đều đi đén một kết cục tất yếu, hư vô và tức cười
của kiếp người [6,tr 299].
Hồ Anh Thái phát hiện cuộc đời như một nhà cười một khi bước chân vào
hình như ai cũng thấy có một khía cạnh nào đó là mình: méo mó, dị dạng, tức
cười một khi đã phóng đại, tô đậm nhưng không thấy cụ thể. Người đọc giật
mình trước một hiện thực cuộc sống nhốn nháo, lộn xộn, nhố nhăng. Khác với
Vũ Trọng Phụng viết để giết chết đối tượng. Còn Hồ Anh Thái viết để tái sinh
đối tượng. Mặc dù không hi vọng nhiều nhưng Hồ Anh Thái không mất nhiều
niềm tin ở con người.
Hồ Anh Thái đã có một cái nhìn hiện thực nhiều chiều, không chỉ là cái
được thấy mà còn là cái cảm thấy. Vì đây chính là hiện thực bên trong khó nắm
bắt. Ông không ảo tưởng về cuộc sống, về con người và thậm chí có lẽ cũng ít hi
vọng, đôi lúc còn thất vọng. Nhà văn nói: Một cách biện chứng, người dễ thất
vọng chính là kẻ đã đặt quá nhiều hi vọng vào con người [6, tr 229]. Ông tỉnh táo,
lý trí và có độ sắc khi phê phán cái xấu đầy rẫy trong con người, cái hạn chế của

con người.
Trong xu hướng đổi mới dân chủ, khi văn học văn học bắt đầu đi vào khám
phá con người ở muôn mặt của cuộc sống đời thường, thì những giá trị tinh thần,
khát vọng cá nhân được đề cao. Con người cá nhân ở đây không phải là con
người của chủ nghĩa cá nhân, của cái tôi cực đoan, mà là những số phận nằm
trong mối quan hệ với xã hội. Đằng sau mỗi con người, mỗi thân phận đó luôn là
những vấn đề có ý nghĩa thời đại. Vấn đề số phận cá nhân đã khơi nguồn cho một
cảm hứng nhân văn mới mẻ.
Hồ Anh Thái đã có một cái nhìn mới, rất riêng và cảm hứng nhân văn ở ông
thấm đẫm cái nhìn yêu thương đối với con người. Chính những giá trị nhân văn,
nhân bản đời thường đã tạo nên chất men say, khơi nguồn cho cảm hứng sáng tác
của ông. Các sáng tác thời kì đầu của Hồ Anh Thái là sự khúc xạ từ chính môi
trường cuộc sống học sinh, sinh viên của ông. Trong đó người đọc bắt gặp những
cảm xúc ngại ngùng, e ấp, rụt rè nhưng rất chân thành của tình yêu đầu đời(
Những cuộc kiếm tìm, Chàng trai ở bến đợi xe, Người và xe chạy dưới trăng,
Trong sương hồng hiện ra…), những trăn trở băn khoăn và sự ân hận, hối lỗi của
những tâm hồn mới lớn, đã xác định cho mình con đường đúng đắn( Nằm ngủ
trên ghế băng, Chàng trai ở bến đợi xe…). Người đọc còn bắt gặp những tình
cảm yêu thương cảm thông với bạn bè với người thân và mọi người xung quanh(
Cánh võng không người, Mảnh vỡ của đàn ông…). Và cả nỗi xót xa thương cảm
cho nhưng đứa trẻ bị bỏ rơi giữa cuộc đời( Lũ con hoang).
Với số lượng tác phẩm tương đối, Hồ Anh Thái đã chứng tỏ là người nắm
bắt rất tinh tế nhịp sống thời đại cả trên bề nổi cũng như chiều sâu mạch ngầm.
Tác phẩm của ông đã tái hiện nhiều kiếp người, cảnh người ở nhiều thời điểm
khác nhau, qua đó thể hiện những cảm nhận sâu sắc của mình về nhân sinh. Và
chính những quan niệm trên, Hồ Anh Thái đã đem đến cho người đọc những cách
cảm nhận riêng về cuộc sống, về con người.
1.3. Hồ Anh Thái trong dòng chảy văn học Việt Nam sau 1975
1.3.1. Diện mạo của văn học Việt Nam sau 1975
Năm 1986 là dấu mốc quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và đời

sống văn học nghệ thuật nói riêng. Đây là thời điểm ghi nhận sự đổi mới tư duy
trên các lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật. Không khí cởi mở, dân chủ của
đời sống văn học tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo với quan niệm mới về
nhà văn, đến sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người, đến sự
thay đổi thi pháp thể loại của các thế hệ nhà văn Việt Nam. Từ lớp nhà văn tiền
chiến như Chế Lan Viên, Tô Hoài đến những cây bút hậu sinh.
Quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi động và đa dạng
trên các thể loại: văn xuôi, thơ, kịch, lý luận phê bình, văn học dịch,… và đạt
được nhiều thành tựu ở thể tài văn xuôi. Đây là những thể loại được hình thành,
tạo tác trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với cái hàng ngày, với một hiện thực đang
vận động, không ngừng biến chuyển. Nổi lên hàng đầu là sự hiện diện của thể ký.
Thể phóng sự sau nhiều năm đứt đoạn, vắng bóng nay đồng loạt ra quân như một
sự hồi sinh của thể loại, gây chấn động dư luận với ý thức nhìn thẳng vào sự thật:
Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Lời khai của bị can (Trần Huy Quang),
Làng giáo có gì vui (Hoàng Minh Tường), Tiếng kêu cứu của một vùng văn hoá
(Võ Văn Trực), Người đàn bà quỳ (Trần Khắc), Suy nghĩ trên đường làng (Hồ
Trung Tú),… Sau cái nhìn trực diện về những vấn đề nhức nhối của thực trạng xã
hội trong các phóng sự là cái nhìn bên trong của những chủ thể sáng tạo - những
con người “nếm trải” với những trang viết đa nghĩa, ám gợi không chỉ tái hiện
bối cảnh thời đại, lịch sử mà còn khám phá thế giới nội tâm, khắc hoạ diện mạo
tâm hồn của những con người trải qua bao ấm lạnh, khóc cười của thời cuộc và
số phận trong hồi ký Cát bụi chân ai, Chiều chiều của Tô Hoài và hàng loạt các
hồi ký của Anh Thơ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Đào Xuân Quý, Bùi Ngọc Tấn,…
Bên cạnh ký là sự khởi sắc của truyện ngắn, từ sự đổi mới tư duy nghệ thuật
và bút pháp của các cây bút Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Bùi Hiển, Ma
Văn Kháng, Đoàn Lê, Lê Minh Khuê chia tay với “một thời lãng mạn” đến sự
vào cuộc đầy tính chuyên nghiệp, bén ngọt và sắc sảo của Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Hoà Vang, Nguyễn Quang Lập, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn
Ngọc Tư,… đã đem lại phẩm chất nghệ thuật đích thực và những hiệu ứng thẩm
mỹ cho thể loại tự sự cỡ nhỏ, tạo lực hấp dẫn, thu hút công chúng trở lại với văn

hoá đọc. Thể loại tiểu thuyết với những tác phẩm mở đường cho thời kỳ đổi mới
như Thời xa vắng (Lê Lựu), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân) và tiếp đó là những
tiểu thuyết ghi nhận thành tựu của thể loại: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương
Hướng) đã kích thích các cây bút nỗ lực không ngừng trong sáng tạo và thể
nghiệm: Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Cơn giông (Lê Văn Thảo), Cõi
người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Người đi vắng,
Thoạt kỳ thuỷ (Nguyễn Bình Phương), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ
Duy Anh), Người sông mê (Châu Diên), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mẫu thượng
ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh),…
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới xuất hiện hiện tượng một số cây bút đã
từng sống ở Việt Nam, nay đang sống, làm việc ở hải ngoại như Nguyễn Mộng
Giác, Lê Ngọc Mai, Lê Minh Hà, Đoàn Minh Phượng, Thuận, Nguyễn Danh
Bằng, Nguyễn Văn Thọ, Vũ Hoàng Hoa,… đa số là của các tác giả nữ đã đem

×