Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất? Vận dụng vào việc phát triển lực lượng sản xuất ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.44 KB, 20 trang )

QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT? VẬN DỤNG VÀO VIỆC PHÁT
TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................1
I. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất?
1.Khái niệm phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất..1
1.1

Phương

thức

sản

sản

xuất

lượng

sản

xuất................................................................................2
1.2


Quan

hệ

.......................................................................................2
1.3

Lực

xuất....................................................................................3
2.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng

sản

.........................................................................................................................7
2.1 Lực

lượng

sản

xuất

xuất...................................7

quyết


định

quan

hệ

sản


2.2 Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất...8
2.3 Ý

nghĩa

trong

đời

sống



hội.................................................................11
II. VIỆC PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
1. Người lao động đối với việc phát triển lực lượng sản xuất ở Việt
Nam.....11
2. Ứng dụng thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào phát triển lực

lượng

sản

xuất

Nam................................................................................13



Việt
3. Những giải

pháp về phát triển lực lượng sản xuất......................................15
KẾT
LUẬN.........................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................17


MỞ ĐẦU
Triết học không thể thiếu trong đời sống văn hóa, xã hội của con người ở
bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Triết học khơng chỉ góp phần làm phát triển
thêm các vấn đề về tư tưởng của con người mà nó cịn tham gia vào q trình
phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam Ở cũng vậy, triết học làm tăng
thêm tính khoa học cho những lý luận và quan điểm của Đảng và nhà nước trong
thời đại hội nhập ngày nay. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là một trong
những vấn đề của triết học Mác – Lênin. Không những vậy nó là một trong
những yếu tố quan trọng nhất trong hình thái vận hành kinh tế - xã hội. Mối quan
hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất quy định sự vận
động, phát triển của các phương thức sản xuất trong xã hội. Tác động qua lại

biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được Mác và Ănghen
khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất. Hiểu được quy luật trên sẽ giúp cho việc phát triển xã hội diễn ra một cách
nhanh chóng dễ dàng hơn.
Vì vậy tơi đã chọn đề tài “Trình bày quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất? Anh (chị) liên hệ vấn đề này với việc
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay?
NỘI DUNG
I. QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1. Khái niệm phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất.
1.1 Phương thức sản xuất

1


Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức
nhất định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng. Phương thức sản
xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở những giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là sự thống
nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tương ứng.
Trong sản xuất, con người có mối quan hệ “song trùng” đó là quan hệ giữa
con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
vật chất. “Người ta không thể sản xuất được nếu khơng kết hợp với nhau theo
một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn
sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với
nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”1.
Do vậy, phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời

sự tác động giữa con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để
sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những giai
đoạn lịch sử nhất định.
1.2 Quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan
trọng nhất - quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với
người. Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một quá
trình thống nhất, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản
phẩm lao động. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ
1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.552.

2


quy định địa vị kinh tế - xã hội của các tập đồn người trong sản xuất, từ đó quy
định quan hệ quản lý và phân phối. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ
xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, luôn có vai trị quyết định các
quan hệ khác bởi vì, lực lượng xã hội nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của
quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình sản xuất và phân phối
sản phẩm.
Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc tổ chức sản xuất và phân công lao động. Quan hệ này có vai trị quyết
định trực tiếp đến quy mơ, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy
nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngày nay, khoa học
tổ chức quản lý sản xuất hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt trong nâng cao hiệu
quả quá trình sản xuất.

Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy
mơ của cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng. Quan hệ này có vai trị
đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người; là “chất xúc tác” kinh
tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất, làm năng động hóa tồn bộ đời sống kinh
tế - xã hội. Hoặc ngược lại, có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại,
chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau; trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ
vai trị quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất
hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định
mọi quan hệ xã hội.
1.3 Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của
3


giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Khi nói đến lực
lượng sản xuất, C. Mác cũng chỉ ra các yếu tố cơ bản cấu thành nên nó đó là
người lao động và tư liệu sản xuất. Theo ông, để biến đổi thế giới tự nhiên nhằm
tạo ra của cải vật chất, người lao động trước hết phải có sức mạnh và trí tuệ những yếu tố tạo nên khả năng lao động của con người. Ông viết: “Để chiếm
hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản
thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay,
chân, đầu và hai bàn tay” 2. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì q trình sản
xuất vật chất vẫn chưa thể diễn ra vậy nên tư liệu sản xuất là điều kiện cần thiết
của quá trình sản xuất vật chất. Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống
gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ (phương
thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên,
sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện
năng lực thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con

người.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao
động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã
hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong
nền sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao
động có trí tuệ
và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao
gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố
vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm
biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Tư liệu lao
động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động
lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp
2 C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr.266

4


ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và
phương tiện lao động. Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản
xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối
tượng lao động trong q trình sản xuất vật chất. Cơng cụ lao động là những
phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng
lao động nhằm biến đổi chúng, tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con
người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn”
giữa người lao động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây chính
là “khí quan” của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và
được con người sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản xuất. Cơng
cụ lao động giữ vai trị quyết định đến năng suất lao động. Ngày nay, trong điều

kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển, công cụ lao động
được tin học hóa, tự động hóa và trí tuệ hóa càng có vai trị đặc biệt quan trọng.
Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất,
là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử; là thước đo
trình độ tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn để phân biệt các
thời đại kinh tế khác nhau. Chính vì vậy, C. Mác khẳng định: “Những thời đại
kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng
sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” 3.
Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao
động và công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố
hàng đầu giữ vai trị quyết định, bởi vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử
dụng công cụ lao động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao
động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất
phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản
xuất, nếu như cơng cụ lao động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm,
thì do bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao động người lao động
không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà cịn sáng tạo ra giá
trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng
3 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.23, tr.269.

5


tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất. Cùng với người
lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu, đặc
biệt, trình độ phát triển của cơng cụ lao động là nhân tố quyết định năng suất lao
động xã hội. Lực lượng sản xuất là kết quả năng lựcthực tiễn của con người,
nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách
quan mà trong đó con người sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất ln
có tính khách quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển lực lượng sản xuất là kết quả

của sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình
độ. Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã
hội hóa trong việc sử dụng tư liệu sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự
phát triển của người lao động và cơng cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản
xuất được thể hiện ở trình độ của cơng cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã
hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng
của người lao động và đặc biệt là trình độ phân cơng lao động xã hội. Trong thực
tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không tách rời nhau.
Nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, C. Mác
khẳng định: “Tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến
mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp” 4. Ngày nay, trên thế giới đang
diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khoa học đã trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học sản xuất ra của cải đặc biệt, hàng hóa đặc
biệt. Đó là những phát minh sáng chế, những bí mật cơng nghệ, trở thành
ngun nhân của mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất. Hiện nay, khoảng cách
từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất đã được rút ngắn làm cho
năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh. Khoa học kịp thời giải quyết
những mâu thuẫn, những yêu cầu do sản xuất đặt ra; có khả năng phát triển
“vượt trước” và thâm nhập vào tất cả các yếu tố của sản xuất, trở thành mắt khâu
bên trong của quá trình sản xuất.
4 . C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.46, ph.II, tr.372.

6


Tri thức khoa học được kết tinh, “vật hóa” vào người lao động, người quản lý,
công cụ lao động và đối tượng lao động. Sự phát triển của khoa học đã kích
thích sự phát triển năng lực làm chủ sản xuất của con người.
Trong thời đại ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang

phát triển, cả người lao động và cơng cụ lao động được trí tuệ hóa, nền kinh tế
của nhiều quốc gia phát triển đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh
tế mà trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai
trị quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất và
nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Đặc trưng của kinh tế tri thức là cơng
nghệ cao, cơng nghệ thơng tin, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản
xuất và trong đời sống xã hội. Lực lượng sản xuất phát triển trong mối quan hệ
biện chứng với quan hệ sản xuất.
2.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức
sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ
sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. C.Mác
viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan
hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ
sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của
các lực lượng sản xuất vật chất của họ” 5. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại, nếu khơng phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
2.1 Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.

5 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.14-15.

7



Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính năng
động,cách mạng, thường xun vận động và phát triển; quan hệ sản xuất là hình
thức xã hội của q trình sản xuất có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động
của mâu thuẫn biện chứng đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cơ
sở khách quan quy định sự vận động phát triển không ngừng của lực lượng sản
xuất là do biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu con người; do tính năng động và
cách mạng của sự phát triển cơng cụ lao động ; do vai trò của người lao động là
chủ thể sáng tạo là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát
triển khơng ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản
xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển
của lực lượng sản xuất trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là phải xóa bỏ quan hệ
sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất đã phát triển. C. Mác đã nêu tư tưởng về vai trò của sự phát
triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội: “Những quan
hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có những lực
lượng sản xuất mới, lồi người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do
thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, lồi người thay đổi tất
cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có
lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng
nghiệp” 6 .
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất
mới trong lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Bằng
năng lực nhận thức và thực tiễn, con người phát hiện và giải quyết mâu thuẫn,

6 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187


8


thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc
thang cao hơn.
2.2 Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất.
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của q trình sản xuất có tính độc
lập tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò
của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự
phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là địi hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức
phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản
xuất phát triển9. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất; giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự phù hợp bao gồm cả việc tạo điều kiện
tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo
điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành
quả vật chất, tinh thần của lao động.
Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đều là không phù hợp. Sự phù hợp khơng có nghĩa là đồng nhất
tuyệt đối mà chỉ là tương đối, trong đó chứa đựng cả sự khác biệt. Sự phù hợp
diễn ra trong sự vận động và phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh
mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.

9



Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục
đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống động lực
thúc
đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo
hai chiều hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát
triển đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học và
cơng nghệ được áp dụng nhanh chóng; người lao động nhiệt tình, hăng hái sản
xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại
lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn,
với những điều kiện nhất định.
Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp
mới ở trình độ cao hơn. C. Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó
của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan
hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát
triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan
hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách mạng xã hội” 7.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho
lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ
phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy qua phương thức sản xuất chiếm
7 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, trvvv .15.

10



hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ
quan quy định, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất có những đặc điểm tác động riêng. Sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu phải thiết lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa dần dần loại trừ đối kháng xã hội. Sự phù hợp khơng diễn ra “tự động”,
địi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa
có thể bị “biến dạng” do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật.
2.3 Ý nghĩa trong đời sống xã hội.
Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển
lựclượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và cơng cụ lao
động.
Muốn xố bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất
mớiphải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính tất yếu kinh
tế,yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm,
duy ý chí.
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong
quántriệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận
thứcsâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt NamNaTrong quá
trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước
hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận
thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này đã đem lại hiệu quả to lớn
trong thực tiễn
11



Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh
tếtổng qt, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
pháttriển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
II. VIỆC PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY.
Sau hơn 30 năm đổi mới, trình độ phát triển lực lượng sản xuất của Việt
Nam đã được cải thiện đáng kể. Hiện nay, cần ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại, tạo điều kiện cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất và
công nghệ tiên tiến, thực hiện mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
kết hợp với phát triển kinh tế hội nhập thế giới.
1. Người lao động đối với việc phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam.

Việt Nam là một nước đơng dân, mật độ dân số cao và có cơ cấu dân số
trẻ “dân số vàng”. Tính đến năm 2019 dân số Việt Nam là hơn 96 triệu người,
dân số phân bố khơng đồng đều và có sự khác biệt lớn giữa các vùng miền. Dân
số khu vực thành thị ở Việt Nam năm 2019 là 33,1 triệu người chiếm 34,4%; ở
khu vực nông thôn là 63,1 triệu người chiếm 65,6 %. Lực lượng lao động từ 15
tuổi trở lên năm 2019 ước tính đạt 55,77 triệu người. Hàng năm ở nước ta, trung
bình có khoảng hơn 1,5 -> 1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Việt Nam
có nguồn lao động trẻ dồi dào và có lợi thế lớn trong việc phát triển lực lượng
sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền sản xuất hiện đại, thúc đẩy
phát triển kinh tế đất nước. Lực lượng lao động trẻ có nhiều thuận lợi trong việc
tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật; thích ứng và bắt kịp quy trình sản xuất địi hỏi kỹ
thuật cao, căng thẳng, thích ứng với sự thay đổi của ngành nghề và điều kiện lao
động theo yêu cầu của quá trình sản xuất.
Tỷ lệ lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật tại Việt Nam vẫn còn khá
khiêm tốn. Theo kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ lệ lực lượng lao
12



động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo đạt 44,58 triệu người chiếm 24%. Trong
những năm gần đây người lao động có trình độ chun mơn cao khơng ngừng
tăng lên, sự tăng lên này đã bước đầu đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền
sản xuất trong việc ứng dụng các công nghệ kĩ thuật hiện đại vào sản xuất hiện
đại.
Con người Việt Nam luôn mang trong mình những đặc điểm nổi bật đó là
cần cù lao động tay chân là chính, linh hoạt, sáng tạo trong mọi trường hợp luôn
biết đổi mới mang đến hiệu quả trong lao động, biết đồn kết tìm kiếm cái lợi
ích chung để xã hội phát triển bền vững. Nhờ đó mà trình độ của người lao động
ngày càng tăng, số lượng lao động làm trong những ngành công nghiệp cần có
độ tỉ mỉ chính xác cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Nhận biết được những đức tính này
của con người Việt Nam và cũng do ảnh hưởng của quá trình cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa nên có rất nhiều các cơng ty, các nhà máy của các tập đồn lớn ở
nước ngoài đầu tư xây dựng sản xuất tại Việt Nam. Vì vậy, cơ cấu lao động của
Việt Nam đã thay đổi theo hướng tích cực, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm dần,
tỷ lệ lao động công nghiệp tăng lên đáng kể, vấn đề thất nghiệp của đất nước do
lao động nông thôn ngày càng được cải thiện. đời sống tinh thần vật chất và
nhân lực được nâng cao.
Bên cạnh đó người lao động Việt Nam cịn tồn tại những hạn chế lớn. Tỉ lệ
lao động có trình độ học vấn, trình độ chun mơn tuy tăng lên đáng kể nhưng
vẫn cịn thấp trong đó, trong khi đó cơ cấu trình độ đào tạo cơ cấu nghề nghiệp
cịn nhiều bất hợp lý khi bước vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỉ lệ
thiếu việc làm thất nghiệp vẫn tiếp tục gia tăng, việc sử dụng lao động chưa
đúng nghề nghiệp còn phổ biến. Số người tốt nghiệp có trình độ cao nhưng làm
trái ngành trái nghề vẫn tiếp tục gia tăng gây lãng phí tài năng cho cá nhân gia
đình và xã hội gây ảnh hưởng lớn đến việc phát triển lực lượng sản xuất ở Việt
Nam.

13



2. Ứng dụng thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam.
Ngày nay trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang
phát triển, công cụ lao động được tin học hóa tự động hóa và trí tuệ hóa có vai
trị đặc biệt quan trọng. Những thành tựu của khoa học, cơng nghệ đã góp phần
đáng kể trong việc phát triển lực lượng sản xuất. Thúc đẩy lực lượng sản xuất ở
Việt Nam phát triển trên mọi phương diện như cải thiện đời sống vật chất tinh
thần, nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động. Sự phát triển nhanh
mạnh của khoa học công nghệ cho thấy mối liên hệ gắn bó chặt chẽ giữa khoa
học với sản xuất. Hiện nay khi quá trình sản xuất đã được hiện đại hóa thì khoa
học cơng nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trở thành điều kiện tất
tất.
Khoa học và công nghệ tác động mạnh mẽ đến công cụ lao động, đối
tượng lao động đã tạo ra bước nhảy vọt của các yếu tố trong tư liệu sản xuất.
Hiện nay, xu hướng vận động của lực lượng sản xuất là không ngừng thay thế
dần sức lao động bằng các thiết bị kĩ thuật tân tiến tiêu hao ít ngun vật liệu,
khơng gây ơ nhiễm mơi trường. Sức lao động, lao động tay chân của con người
dần thay thế bằng lao động trí óc, sự chun mơn hóa trong khâu sản xuất ngày
càng cao.
Những cơng cụ lao động thơ sơ, lạc hậu mang tính chất thủ cơng trước kia dần
được thay thế bằng các trang thiết bị tân tiến hiện đại. Những sự thay đổi lớn của
khoa học công nghệ vào sản xuất làm cho năng suất lao động tăng mạnh , khối
lượng sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều và đạt chất lượng cao. Khoa học
công nghệ ngày càng thâm nhập sâu vào mọi khâu của q trình sản xuất, từ
khâu quản lí, sản xuất đến phân phối và tiêu dùng. Nhờ đó, Việt Nam không chỉ
sản xuất phân phối ở thị trường trong nước mà còn vươn ra tiêu thụ ở các nước
trên thế giới.


14


Khoa học và công nghệ không chỉ tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển
tư liệu sản xuất, mà cịn có những tác động tới người lao động - yếu tố hàng đầu
của lực lượng sản xuất. Nếu trước đây trong sản xuất thì con người chỉ có thói
quen , kinh nghiệm, thể lực thì hiện nay dưới tác động của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ con người lao động cần phải có tri thức, sự hiểu biết và năng lực
thì mới có thể tham gia vào q trình sản xuất. Người lao động sẽ trực tiếp quản
lí, vận hành, điều khiển q trình sản xuất mà khơng cần phải tham gia lao động
tay chân như trước kia nữa. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại yêu cầu con người không ngừng học tập và tăng cường tri
thức khoa học, hình thành xã hội học tập. Ngày nay người lao động không chỉ là
những người lao động phổ thơng mà cịn bao gồm cả nhóm lao động chuyên gia
kỹ thuật, kỹ sư, nhà khoa học có chun mơn kĩ thuật cao trực tiếp tham gia vào
sản xuất. Họ là những người quyết định áp dụng tri thức khoa học vào quá trình
sản xuất như thế nào cho có hiệu quả.
Tuy nhiên trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thì Việt Nam vẫn
là một nước đi sau nên so với các nước trên thế giới nhìn chung nền sản xuất
Việt Nam vẫn cịn nhiều hạn chế. Nhiều ngành cơng nghiệp chưa thực sự phát
triển mức độ hiện đại hóa cịn chưa đồng đều giữa các vùng, tính cạnh tranh giũa
các mặt hàng cịn thấp nên giá thành khơng cao. Người lao động có trình độ
chun mơn cao cịn ít nên đối với việc tham gia vào các q trình quản lí sản
xuất còn kém chưa phát huy hết được các tiềm lực có sẵn.
3. Những giải pháp về phát triển lực lượng sản xuất.
Trước tiên khắc phục điểm yếu của nền kinh kế nước ta hiện nay là nguồn
nhân lực thiếu kĩ năng, trình độ chun mơn thấp. Cần phải cải cách chương
trình giáo dục đào tạo căn bản . Chương trình giáo dục mới phải đáp ứng được
mục tiêu đào tạo nền tảng tri thức phổ cập ngoại ngữ và tri thức tin học cơ bản
phải là tiêu chuẩn trong hệ tiêu chuẩn phổ cập giáo dục. Nhà nước đóng vai trò

chủ lực trong việc củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học, tiến hàng phổ cập trung học cơ sở trong cả nước giúp đông đảo người
15


nghèo có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản. Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu,
thực hành trẻ có năng lực. Bỏi đây là bước quyết định triển vọng phát triển của
nền khoa học, cơng nghệ nói riêng và của Việt Nam nói chung. Tiếp tục đổi mới
hồn thiện cơ chế chính sách pháp luật về khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khoa học và thực hiện xã hội hóa lĩnh vực khoa học và cơng
nghệ đi đơi với xóa bỏ cơ chế quan liêu, độc quyền trong khoa học để tạo điều
kiện, môi trường cho cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực này. Một trong những
vấn đề cần được ưu tiên đó là khắc phục nạn thất nghiệp, các thành phần kinh tế
phải đóng góp vào việc tạo cơng ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là
thành phần kinh tế tư bản tư nhân với những doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thu
hút nhiều lao động. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Đẩy mạnhnghiên cứu, ứng dụng
khoa học, công nghệ phục vụ các chương trình, kế hoạch phát triển kinhtế, xã
hội, đặc biệt là trong những ngành, những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn. Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, bảo vệ môi trường. Tiếp tục
nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện chế độ phân phối, phúc lợi xã hội, cải cách chế
độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho người lao động và nhân dân.

KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển củalực lượng

sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sửnhân loại.
Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuấtlàm cho
lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sảnxuất, từ
16


phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ qua phương thức sản xuấtchiếm hữu
nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Sau hơn 30
năm đổi mới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam đã có nhiều
thay đổi đáng kể như trình độ của tư liệu sản xuất, nhất là công cụ lao động được
cải tiến; khoa học - công nghệ được ứng dụng nhiều vào sản xuất; trình độ, kỹ
năng của người lao động khơng ngừng tăng lên nhưng so với yêu cầu của nền
sản xuất hiện đại, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế. Do đó, cần có những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam đáp ứng u cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để đạt mục tiêu sớm đưa Việt Nam trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa, khơng thể khơng ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất. Trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
quốc tế hiện nay, lực lượng sản xuất của Việt Nam cần phát triển một trình độ
cao, hiện đại. Trình độ đó được quyết định bởi tư liệu sản xuất tiên tiến, khoa
học công nghệ hiện đại, người lao động với trình độ chun mơn kỹ thuật cao,
có ý thức tổ chức, có đạo đức nghề nghiệp và ý thức bảo vệ mơi trường. Đó
chính là những yêu cầu cơ bản để phát triển lực lượng sản xuất hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác-Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị)-Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật-Hà Nội
2. />3. />4. />
17



5. />6. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập

18



×