Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.05 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH:Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số:

62 22 03 15
HÀ NỘI – 2017


Luận án được hồn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học :
1. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà
2. TS. Trần Thị Nhẫn

Phản biện 1: ……………………………………………

……………………………………………
Phản biện 2: ……………………………………………

……………………………………………
Phản biện 3: ……………………………………………


……………………………………………

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi……giờ……ngày……tháng…….năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối ngoại là hoạt động quan trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thời kỳ Đảng lãnh đạo đất nước đi đến độc lập tự do 1930-1945 là giai
đoạn hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng góp phần to lớn
vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Những chủ trương, đường lối
đối ngoại, các đối sách của Đảng trong quan hệ đối ngoại thời kỳ này
cho thấy sự tài tình, nhạy bén của Đảng đối với mỗi một đối tượng riêng.
Những hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ 1930-1945
được tiến hành trong bối cảnh Đảng chưa phải đảng cầm quyền. Để
vượt qua trở ngại này, Đảng đã linh hoạt sử dụng nhiều danh nghĩa
khác nhau: khi liên hệ với các tổ chức cộng sản thì dùng chính danh
Đảng, cịn khi giao thiệp với các nước tư bản trong khối Đồng minh
thì dưới danh nghĩa mặt trận chống phát xít. Xét đến hồn cảnh khó
khăn mà Đảng phải đương đầu, những thành công trong hoạt động
đối ngoại mà Đảng đạt được thời kỳ này càng có ý nghĩa to lớn.
Từ việc phân tích các chủ trương, chính sách đúng đắn, cách ứng xử
phù hợp của Đảng trong hoạt động đối ngoại từ năm 1930 đến năm 1945

để đạt được mục tiêu giải phóng dân tộc, có thể hiểu rõ hơn hoạt động
đối ngoại phong phú để vượt qua khó khăn thử thách của Đảng trong
thời kỳ lịch sử đầy biến động và quan trọng nhưng cịn ít được nghiên
cứu, tìm hiểu này. Qua đó, có thể rút ra những kinh nghiệm cần thiết về
đối ngoại trong xu thế hội nhập tồn cầu của Việt Nam ngày nay.
Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Hoạt động đối
ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945” làm đề tài nghiên cứu
luâṇ án tiến si ̃chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ quá trình nhận thức và đường lối của Đảng về công tác
đối ngoại cũng như những tình huống đối ngoại tiêu biểu của Đảng
từ 1930 đến 1945, trên cơ cở đó, góp phần làm sáng tỏ hoạt động đối
ngoại của Đảng, rút ra những ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm về
đối ngoại của Đảng từ 1930 đến 1945.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án


2
- Phân tích, đánh giá bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam trong
thời kỳ 1930-1945.
- Làm rõ những chủ trương, đường lối của Đảng về công tác đối
ngoại và hoạt động đối ngoại từ 1930 đến tháng 8-1945.
- Đưa ra một số nhận xét về quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo
công tác đối ngoại, đánh giá những thành tựu, hạn chế, đúc rút một
số kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại từ
năm 1930 đến năm 1945.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động đối ngoại của

Đảng từ 1930 đến 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: hoạt động đối ngoại của Đảng và Nguyễn Ái Quốc
với các đối tượng dưới danh nghĩa của Đảng hoặc danh nghĩa khác.
- Về không gian: chủ yếu hoạt động đối ngoại của Đảng diễn ra ở
Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô, một số sự kiện diễn ra ở Đông Nam
Á và một số nước khác…
- Về thời gian: từ đầu năm 1930 đến tháng 8-1945.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác đối ngoại. Luận án
cũng kế thừa thành quả của những cơng trình nghiên cứu đi trước về
những vấn đề liên quan đến nội dung của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ
yếu là phương pháp lôgic, phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp,
so sánh,... để nghiên cứu.
4.3. Nguồn tài liệu
- Văn kiện Đảng là nguồn tài liệu quan trọng được khai thác khi
nghiên cứu lịch sử Đảng nói chung và lịch sử hoạt động đối ngoại
của Đảng nói riêng.
- Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh: Một số tác


3
phẩm quan trọng và tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và
các Tổng Bí thư về đường lối, chủ trương của Đảng từ năm 1930 đến
thang 8-1945.

- Các tư liệu khác về:
+ Các cơng trình luận án, luận văn, bài báo đã công bố về đề tài.
+ Tư liệu về các hội nghị quốc tế, quan điểm của chính trị gia các
nước, văn kiện của chính phủ các nước.
+ Khối báo chí đương thời phát hành từ năm 1941 đến năm 1945,
gồm báo chí bí mật như Cờ giải phóng, Việt Nam độc lập, Cứu
quốc…
+ Các tài liệu nghiên cứu: ảnh, bưu thiếp, thẻ tham dự hội nghị…
(một số được đưa vào phụ lục luận án).
5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần cung cấp cơ sở khoa học về quá trình định hình
đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1930-1945. Từ đó, thấy
rõ sự phát triển, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo thực hiện cơng
tác đối ngoại của Đảng.
- Phân tích, góp phần làm sáng tỏ những hoạt động đối ngoại của
ĐCSĐD với cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945. Góp
phần khẳng định đường lối và hoạt động đối ngoại đúng đắn, sáng
tạo của Đảng trong giai đoạn lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.
- Góp phần đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động đối
ngoại của Đảng giai đoạn này, đúc rút những kinh nghiệm lịch sử bổ
ích có thể áp dụng trong q trình lãnh đạo của Đảng về đối ngoại
sau này.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận án gồm 4 chương và 9 tiết.


4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH

NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, lịch sử
Đảng liên quan đến đề tài
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề chung của lịch sử
Đảng mà trong đó có đề cập đến hoạt động đối ngoại ở các khía cạnh
khác nhau. Có thể kể đến: “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sơ
khảo” của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương; “Tiến lên
dưới lá cờ của Đảng”, “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam” (2 tập) “Cách mạng Tháng Tám” của Trường Chinh; “Một vài
đặc điểm của cách mạng Việt Nam”, “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng,
vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi
mới”,“Cách mạng Tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam”, của Lê Duẩn.
1.1.2. Những cơng trình khoa học nghiên cứu quan hệ đối
ngoại và hoạt động đối ngoại của Đảng liên quan đến đề tài
Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 là một
phần được nêu trong những cơng trình nghiên cứu về đường lối và
hoạt động đối ngoại của Đảng các giai đoạn khác, tiêu biểu như:
“Đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 1945-2012”, của Đinh
Xuân Lý; “Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010)” của
GS.Vũ Dương Ninh; Luận án Tiến sỹ Lịch sử “Đảng lãnh đạo hoạt
động đối ngoại thời kỳ 1945-1946” của TS. Nguyễn Thị Kim Dung...
Nhiều hơn là các cơng trình nghiên cứu mối quan hệ đối ngoại
với một đối tượng nhất định:“Quốc tế cộng sản với Việt Nam” của
A.A. Xô-cô-lốp; “Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nghĩa vụ
quốc tế đối với cách mạng Lào thời kỳ 1930-1945” của Nguyễn
Trọng Phúc; “Cách mạng Việt Nam 1945-Rudơven, Hồ Chí Minh và
Đờ Gơn trong thế giới có chiến tranh” của Stein Tønnesson; “Ý

nghĩa của việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt Nhật đối với thắng lợi


5
của cuộc cách mạng nhân dân ở Trung Quốc, Triều Tiên và Việt
Nam”của M. L. Titapenco; “OSS và Hồ Chí Minh-Đồng minh bất
ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật” của Dixee R.
Bartholomew-Feis; Luận án Tiến sỹ lịch sử “Quan hệ Nhật-Pháp và
vấn đề Đông Dương trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai 19391945” của TS. Trần Văn La; Các tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí
Minh như: “Những hoạt động ngoại giao đầu tiên của Mặt trận Việt
Minh” và “Thơng điệp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam gửi Liên
hiệp quốc tháng 8-1945” của Phạm Xanh...
1.1.3. Những cơng trình nghiên cứu về hoạt động của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài
Những tư tưởng hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh đã được
nhiều cơng trình đề cập đến: Luận án Tiến sỹ lịch sử “Hoạt động đối
ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1945-1954” của TS. Đặng
Văn Thái; “Tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh ” của
Đinh Xn Lý; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác ngoại giao” của
Học viện Quan hệ Quốc tế; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác
ngoại giao” của Vũ Khoan; “Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông (19311933)-tư liệu và hình ảnh” do Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp với
Nxb Chính trị Quốc gia sưu tầm;…
Ngồi ra, có nhiều cơng trình của các tác giả nước ngồi nghiên
cứu cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, trong đó ít nhiều đề cập
đến mối liên hệ giữa Đảng, Hồ Chí Minh với quốc tế, chẳng hạn như:
“Đồng chí Hồ Chí Minh” của E. Cơ-bê-lép; “Hơ Chi Minh- A life
(Hồ Chí Minh- một cuộc đời)” của William J. Duiker; “Ho Chi Minh
- The missing years (Hồ Chí Minh - Những năm tháng lưu lạc)” của
Sophie Quinn-Judge;…
1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN

CỨU Các cơng trình khoa học nghiên cứu về đường lối đối ngoại và
hoạt động đối ngoại của Đảng ngày càng tăng về số lượng, chất
lượng với nhiều cách tiếp cận, giải quyết vấn đề khác nhau.
1.2.1. Những cơng trình khoa học, bài viết về hoạt động đối
ngoại của Đảng để đưa đất nước đến độc lập, tự do khá phong phú,
đa dạng về cách tiếp cận, về các mối quan hệ quốc tế. Các công trình


6
đã bước đầu đề cập đến việc quán triệt, lãnh đạo tổ chức thực hiện
hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945, nêu lên
những nội dung đối ngoại, một số kết quả đạt được và những tồn tại
hạn chế. Tuy nhiên, cho đến nay, còn thiếu những cơng trình khoa
học nghiên cứu một cách đầy đủ, tồn diện và có hệ thống q trình
hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945.
1.2.2. Trong những cơng trình đã cơng bố, cịn nhiều ý kiến đánh
giá khác nhau về các sự kiện, nhân vật lịch sử; có những đánh giá,
nhận định chưa có sức thuyết phục, chưa xác đáng. Dù vậy, các cơng
trình đã tập hợp được nhiều tư liệu có liên quan, cung cấp những luận
cứ khoa học, những gợi mở quan trọng cho việc tiếp cận, nghiên cứu
đề tài luận án một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT
Kết quả khảo cứu các cơng trình khoa học có liên quan đến đề tài
Luận án cho thấy, nghiên cứu sinh cần tiếp tục giải quyết các vấn đề:
- Làm rõ hơn quá trình nhận thức và chủ trương, đường lối lãnh
đạo của Đảng về hoạt động đối ngoại giai đoạn 1930-1945.
- Làm rõ các hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ 19301945, trong đó có các nhà cách mạng Việt Nam. Từ đó, làm sáng tỏ
đường lối đối ngoại mà Đảng và các nhà cách mạng Việt Nam đã áp
dụng với những đối tượng khác nhau.
- Làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của đường lối đối ngoại, hoạt

động đối ngoại của Đảng đối với thành quả của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
- Nhận xét, đánh giá và đúc kết những kinh nghiệm rút ra từ hoạt
động đối ngoại của Đảng thời kỳ 1930 – 1945, có thể tham khảo
phục vụ hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước hiện nay.


7
Chương 2
ĐẢNG RA ĐỜI VÀ TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
TỪ NĂM 1930 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1939
2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1935
2.1.1. Hồn cảnh lịch sử
2.1.1.1. Tình hình thế giới
Hoạt động sôi nổi của Quốc tế cộng sản những năm 1920-1930
nhằm thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới phát triển. Năm 1929, kinh tế thế giới lâm vào khủng
hoảng, ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình kinh tế, xã hội của các nước
tư bản chủ nghĩa. Giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa hình thành
hai khối đối lập. Tại Pháp, cuộc khủng hoảng diễn ra muộn hơn
nhưng kéo dài. Pháp đẩy sức ép kinh tế, tài chính và những bất ổn cơ
bản trong xã hội đến các nước thuộc địa, đặc biệt là Đơng Dương.
2.1.1.2. Tình hình trong nước
Nền kinh tế Việt Nam gánh thêm hậu quả của khủng hoảng ở
“chính quốc”, càng suy sụp hơn bao giờ hết. Thực dân Pháp thi hành
chính sách khủng bố trắng tàn bạo. Người dân Việt Nam phải chịu
đựng sư á ̣ p bức bóc lột, mong muốn đấu tranh giành độc lập.
Giai đoạn này, tư tưởng vô sản theo chủ nghĩa Mác-Lênin dần
trở thành tư tưởng chủ đạo. Với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt

Nam tháng 2-1930, lần đầu tiên, Việt Nam có một tổ chức Đảng
vững vàng về chính trị, đúng đắn về đường lối để dẫn dắt toàn dân
tộc trên con đường tìm kiếm độc lập tự do.
2.1.2. Sự ra đời của Đảng năm 1930 và bước đầu xác định
đường lối đối ngoại của Đảng
Nhờ sự hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, tư tưởng MácLênin được truyền bá về Việt Nam. Cuối năm 1929, đầu năm 1930, ở
Việt Nam lần lượt thành lập ba tổ chức cộng sản, sau đó hợp nhất
thành một đảng cộng sản duy nhất trong cả nước.
Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng đã họp từ ngày 6 tháng 1 đến
ngày 7 tháng 2 năm 1930 ở bán đảo Cửu Long (Hồng Kông), do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Tại Hội nghị, các đại biểu nhất trí tán thành


8
hợp nhất, thành lập một chính đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, thông qua các văn kiện quan trọng như: Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng...
Về mặt đối ngoại, Sách lược vắn tắt xác định cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới nên cần phải liên kết với
cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới.
Sau đó, Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Quốc tế cộng sản, viết
thư gửi các tổ chức quốc tế để giới thiệu về Đảng Cộng sản Việt Nam
mới được thành lập và đề nghị thiết lập mối quan hệ, sự giúp đỡ lẫn
nhau trong đấu tranh cách mạng.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ
ngày 14 đến ngày 31-10-1930 tại Hồng Kơng. Hội nghị thơng qua
Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, dự thảo Luận
cương Chính trị, Điều lệ các tổ chức quần chúng; đổi tên Đảng Cộng
sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
So với Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, Luận cương

Chính trị có chỗ khác biệt, nhất là trong sách lược tập hợp lực lượng
cách mạng trong nước. Song cả văn kiện tháng 2-1930 và tháng 101930 đều nhất quán trong việc xác định những nhân tố chủ yếu hình
thành đường lối quốc tế của cách mạng Việt Nam nên nhiệm vụ cốt
yếu của cách mạng tư sản dân quyền được xác định trong Luận
cương vẫn là ủng hộ Liên bang Xơviết; liên kết với giai cấp vơ sản
tồn thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa,…
2.1.3. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1935
Ngay sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo quần chúng công
nông làm nên cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết
Nghệ-Tĩnh. Để đáp trả, thực dân Pháp đẩy mạnh khủng bố trắng,.
Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị với Quốc tế cộng sản, Quốc tế Nông
dân... giúp đỡ phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Từ năm
1930 đến năm 1935, Quốc tế Cộng sản nhiều lần ra chỉ thị cho Đảng,
nhất là về mặt tổ chức, và Đảng đều nghiêm túc tuân thủ. Đầu năm
1932, Lê Hồng Phong và một số đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế
cộng sản về việc tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng


9
3-1934, theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của
Đảng được thành lập.
Quốc tế Cộng sản cũng là cầu nối giúp Đảng liên hệ với các
Đảng Cộng sản anh em. Đảng Cộng sản Đông Dương và các Đảng
Cộng sản anh em cũng trao đổi thư từ, thể hiện sự ủng hộ lẫn nhau,
đồn kết vì phong trào cách mạng thế giới.
Đặc biệt, Đảng Cộng sản Pháp đã có nhiều hoạt động giúp đỡ
Đảng ta như cơng bố bản Chương trình hành động của Đảng Cộng
sản Đơng Dương trên báo chí ở Pháp và ra Lời kêu gọi Vì sự nghiệp
giải phóng Đơng Dương (7-1932); thành lập Ủy ban vận động tịa án
ân xá tù chính trị Đông Dương (9-3-1933); ủng hộ cách mạng Đông

Dương tại các phiên họp của Hạ nghị viện Pháp (3-1933).
Ở Lào, trước năm 1930, chưa có tổ chức cách mạng quần chúng,
nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng Lào ra đời
và ngày càng lan rộng. Xứ ủy Lào thành lập vào tháng 9-1934.
Thời kỳ này, vai trò của Nguyễn Ái Quốc không được phát huy
mạnh mẽ như trước: bị chính quyền Anh ở Hồng Kơng bắt giam (61931 đến 1-1933); vấp phải một số nghi vấn trong Quốc tế cộng sản;
bị cho là mang nặng tư tưởng chủ nghĩa dân tộc. Dù vậy, Người vẫn
đặc biệt quan tâm đến phong trào cách mạng trong nước và quốc tế
và ln mong muốn được hịa mình vào dịng chảy cách mạng.
Tháng 7-1935, Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Đơng Dương gồm
3 người sang tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế cộng sản ở
Mátxcơva. Nguyễn Ái Quốc chỉ được tham gia với tư cách là đại
biểu tư vấn. Tại phiên họp bế mạc, Đại hội chuẩn y Nghị quyết của
Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản chính thức
cơng nhận Đảng Cộng sản Đơng Dương là một phân bộ của Quốc tế
cộng sản và bầu đồng chí Tổng Bí thư Lê Hồng Phong làm Ủy viên
Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản.
2.2.HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO VỊ THẾ CỦA ĐẢNG, ĐOÀN
KẾT VỚI CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN, ĐẤU TRANH VÌ HỊA BÌNH
DÂN CHỦ TỪ NĂM 1936 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1939
2.2.1. Hồn cảnh lịch sử
2.2.1.1. Tình hình thế giới


10
Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với
nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế cộng sản và phát
động chiến tranh chia lại thế giới.
Đại hội VII Quốc tế cộng sản (tháng 7-1935) xác định kẻ thù
nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít.

Phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít ngày càng mạnh mẽ.
Tháng 4-1936, Mặt trận Bình dân Pháp giành thắng lợi trong
cuộc bầu cử Quốc hội, tạo ảnh hưởng tích cực tới phong trào dân chủ
Đơng Dương những năm 1936-1939.
2.2.1.2. Tình hình trong nước
Do hậu quả của khủng hoảng kinh tế mà thế lực cầm quyền phản
động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột. Đời sống của đại đa số
nhân dân khó khăn nên hăng hái tham gia đấu tranh đòi tự do, cơm
áo dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong thời gian này, Chính phủ Pháp cử phái đồn sang điều tra
tình hình Đơng Dương, cử Tồn quyền mới, ân xá tù chính trị, nới
rộng quyền tự do báo chí… Một loạt động thái này đã khiến cho cao
trào đấu tranh dân chủ bùng lên sôi nổi.
2.2.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1936 đến tháng
8 năm 1939
Cùng thực tiễn tình hình cách mạng, những năm 1936-1939,
theo chủ trương chuyển hướng chiến lược do Đại hội lần thứ VII
Quốc tế Cộng sản đề ra, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến
được Đảng cụ thể hóa bằng nhiệm vụ: chống phát xít, chống phản
động thuộc địa, địi tự do dân chủ. Trong quá trình thực hiện những
nhiệm vụ này, Đảng luôn chú trọng việc báo cáo, nhận chỉ thị từ
Quốc tế cộng sản cũng như sự giúp đỡ từ các Đảng Cộng sản, phong
trào tiến bộ của các nước anh em.
Trong khi hoạt động, nhất là sau các Hội nghị, Hội nghị mở
rộng, Ban Chấp hành hoặc Ban Chỉ huy ở ngoài thường gửi báo cáo
đến Quốc tế cộng sản về tình hình cơng tác, xin ý kiến chỉ đạo về tổ
chức, đề nghị cấp kinh phí, yêu cầu gửi sinh viên đi đào tạo ở nước
ngoài,… (7-1936, 9-1937, 4-1938,…)



11
Trong giai đoạn này, hoạt động đối ngoại của Đảng chủ yếu với Chính
phủ và các Đảng của nước Pháp, nêu rõ quan điểm, mục tiêu đấu tranh của
Đảng và phong trào cách mạng Việt Nam; kêu gọi sự ủng hộ trong phong
trào đấu tranh chống phát xít, địi hịa bình, dân chủ. Đảng đã gửi thư cho
Chính phủ, Mặt trận Nhân dân Pháp (3-10-1936, 8-1937) kêu gọi chấm dứt
chế độ khủng bố, đề nghị cho các tổ chức cách mạng được hoạt động hợp
pháp, yêu cầu tiến hành cải cách dân chủ ở Đông Dương.

Đảng chủ trương ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp và Chính phủ
Bơ-lum, xem họ là người bạn của nhân dân Đông Dương. Đảng kêu
gọi quần chúng đoàn kết với các tổ chức của người Pháp là thành
phần của Mặt trận nhân dân Pháp; vận động kiều dân các nước tham
gia Đông Dương Đại hội và Mặt trận nhân dân Đơng Dương, đồn
kết đấu tranh cho tự do, cơm áo và hồ bình, chống chủ nghĩa phát
xít, chống chiến tranh đế quốc.
Trước những địi hỏi hợp lý của nhân dân và từ tình hình thực tế tại
Đông Dương, nhằm xoa dịu dư luận phản đối từ Mặt trận Nhân dân
Pháp, Chính phủ Pháp buộc phải ban hành tại thuộc địa một số quyền tự
do dân chủ hạn chế. Trong năm 1937, nhân dịp đại diện Quốc hội Pháp
Gơđa sang Đơng Dương tìm hiểu tình hình và Bre-vi-e nhậm chức Tồn
quyền Đơng Dương, nhiều hoạt động của quần chúng và các tổ chức xã
hội diễn ra mạnh mẽ. Người dân biểu tình địi chính quyền Pháp ở Đông
Dương tiến hành những cải cách cho phù hợp với việc Chính phủ Mặt
trận Nhân dân Pháp lên cầm quyền ở chính quốc.
Ngồi ra, Đảng tổ chức nhiều hoạt động đối ngoại thiết thực,
như: Tham gia các hoạt động trong phong trào đấu tranh dân chủ từ
1936-1938; Phối hợp với Đảng Xã hội Pháp tổ chức các cuộc sinh
hoạt quần chúng nhân ngày 1-5, tổ chức Hội chợ quyên góp giúp nạn
nhân chiến tranh ở Trung Quốc, phối hợp với tổ chức dân chủ của

người Pháp tổ chức các hoạt động quốc tế trên đất Đông Dương…
Trong năm 1938, Đảng đã mở cuộc vận động ủng hộ nhân dân
Trung Quốc kháng chiến chống phát xít Nhật, tạo ra phong trào ở
nhiều địa phương trong cả nước. Phong trào ủng hộ nhân dân Trung
Quốc kháng Nhật thể hiện tình đồn kết quốc tế cao cả, tinh thần yêu


12
chuộng hịa bình chống chiến tranh phát xít của nhân dân ta, góp
phần nâng cao uy tín của Đảng ở Đơng Nam Á và thế giới.
Từ cuối năm 1938, tình hình quốc tế và trong nước nhiều bất lợi,
Đảng rút vào bí mật trước khi địch ra tay khủng bố truy lùng. Ngày
29-10-1938, Đảng ra Tuyên ngôn đối với thời cuộc, cho thấy nhãn
quan chính trị sắc bén trước tình hình thế giới, tình hình Đơng Dương
và thể hiện rõ lập trường quan điểm của Đảng.
Cuối năm 1938, sau một thời gian nghiên cứu, học tập tại Liên
Xô, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc. Người viết nhiều bài báo
ủng hộ cách mạng Trung Quốc và có ý kiến sâu sắc đối với phong
trào cách mạng Việt Nam, đăng trên tuần báo Notre Voix.
Tiểu kết chương 2
Từ năm 1930 đến năm 1939 là thời gian đường lối đối ngoại của
Đảng được hình thành. Dù là một Đảng non trẻ, mới ra đời, bị thực
dân Pháp đàn áp, khủng bố nặng nề nhưng Đảng Cộng sản Đông
Dương đã dần từng bước xây dựng mối quan hệ với Quốc tế cộng sản
và các Đảng Cộng sản khác.
Những chủ trương, đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng
thời kỳ 1930-1939 bước đầu định hình rõ nét đường lối đối ngoại của
Đảng; thể hiện sự sáng suốt và linh hoạt trước bối cảnh, tình hình,
đặc biệt là trước mỗi đối tượng đối ngoại mà Đảng thực hiện. Qua
việc ngày càng chủ động phát triển các mối quan hệ, có thể thấy từng

bước trưởng thành trong đối ngoại của Đảng. Đó là cơ sở để Đảng
tiếp tục vận dụng, phát triển trong hoạt động đối ngoại giai đoạn
1939-1945.
Chương 3
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
TRONG CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ
THÁNG 9 NĂM 1939 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945
3.1. HOÀN CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC
3.1.1. Hoàn cảnh quốc tế
Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Khối Trục theo chủ nghĩa phát
xít (Đức, Ý, Nhật Bản) và phe Đồng minh (nhiều quốc gia, trong đó
các nước giữ vai trị chính yếu là Liên Xơ, Anh, Mỹ và Pháp) diễn ra


13
từ 1-9-1939 đến 2-9-1945, gồm nhiều mặt trận. Trong đó, ngoài mặt trận
chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới
thứ hai là mặt trận Xô-Đức, tác động đến số phận của Việt Nam, là mặt
trận Tây Âu (cụ thể là Pháp) và trực tiếp nhất là mặt trận châu Á-Thái
Bình Dương. Trong chiến tranh, năm 1943, Quốc tế cộng sản
- tổ chức lãnh đạo phong trào vô sản quốc tế đã tự giải tán, gây ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động của các Đảng Cộng sản trên thế giới.
3.1.2. Hoàn cảnh trong nước
Trong chiến tranh, Đơng Dương càng bị thực dân Pháp bóc lột
ghê gớm và từ tháng 9-1940 trở thành căn cứ quân sự cho Nhật.
Nhân dân phải chịu thêm một tầng áp bức, vô cùng khổ cực. Ngày 93-1945, Nhật đảo chính Pháp, trực tiếp cai trị ở Đơng Dương.
Cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cao trào kháng Nhật cứu nước
sục sôi, chỉ đợi thời cơ vùng dậy. Ngày 12-8-1945, được tin Nhật
hàng Đồng minh, Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương họp quyết
định lập tức phát động Tổng khởi nghĩa. Ngày 13-8, Trung ương

Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn
quốc, ra Lệnh khởi nghĩa. Nhân dân cả nước nổi dậy giành chính
quyền. Đến cuối tháng 8, cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi hoàn toàn.
3.2. SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC VÀ
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ THÁNG 9 NĂM
1939 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945
3.2.1. Chủ trương về đối ngoại của Đảng
Để ứng phó với tình hình thế giới và trong nước ln biến đổi
nhanh chóng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
sáu (ngày 6-11-1939) và thứ bảy (ngày 6 đến 9-11-1940). Nhìn
chung, đường lối đối ngoại của Đảng qua hai hội nghị đều thống nhất
ở hai nội dung: đấu tranh chống đế quốc xâm lược và liên hệ, ủng hộ
phong trào cách mạng thế giới.
3.2.1.1. Đấu tranh chống đế quốc xâm lược
Trước khi Nhật vào, Đảng xác định đế quốc Pháp là kẻ thù mà
cách mạng phải đánh bại để giành độc lập. Đảng cũng dự báo nguy
cơ Pháp và Nhật hợp tác với nhau.


14
Từ khi Nhật vào Đông Dương, Đảng nhận rõ bản chất của đế
quốc Pháp và Nhật khi chúng hợp tác với nhau cũng như chỉ ra mâu
thuẫn ngầm giữa hai đế quốc sẽ khiến chúng khơng thể mãi hịa hỗn.
Bất kỳ kẻ thù là Nhật hay Pháp, hay là cả hai, Đảng đều xác định chỉ
có dân tộc Đơng Dương mới giải thốt được Đơng Dương. Đảng cịn
thơng qua Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế vận động nhân dân
chống lại chính sách của Pháp và Nhật.
3.2.1.2. Liên hệ, ủng hộ phong trào cách mạng thế giới
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khẳng định tầm

quan trọng của việc liên lạc với các lực lượng cách mạng toàn thế
giới, coi phong trào cách mạng thế giới là chỗ dựa cũng như tuyên
truyền ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng. Với Lào và Campuchia,
Nghị quyết nêu ra việc thi hành quyền dân tộc tự quyết ở một Đơng
Dương hồn tồn độc lập.
Nghị quyết Trung ương lần thứ bảy, bên cạnh việc chủ trương
liên minh với Liên Xô và ủng hộ Liên Xơ, cịn đặc biệt nhấn mạnh
ủng hộ cách mạng Trung Quốc.
Đến Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD
xác định trong cuộc cách mạng Đông Dương, lực lượng phản cách
mạng là hai đối tượng: “1. Thống trị Pháp ở Đông Dương và bọn tay
sai của chúng; 2. Phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng nó” [42,
tr.118]. Xác định đúng kẻ thù có ý nghĩa lớn trong đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc và thể hiện cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của lực lượng dân chủ thế giới chống phát xít:
“Cuộc cách mạng Đơng Dương là một bộ phận cách mạng thế
giới và giai đoạn hiện tại là một bộ phận dân chủ chống phát xít. Bởi
vì Pháp – Nhật hiện nay là một bộ phận đế quốc xâm lược và là một
bộ phận phát xít thế giới.” [42, tr.114].
Về cơng tác đối ngoại (ngoại giao), chính phủ đó sẽ:
“1. Hủy bỏ tất cả mọi hiệp ước mà Pháp đã ký với bất kỳ nước nào;
...4. Mật thiết liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản
trên thế giới” [42, tr.150-151].
Để thực hiện nhiệm vụ đánh đuổi Pháp - Nhật, Việt Minh hiệu triệu
nhân dân với khẩu hiệu hành động là “phản Pháp - kháng Nhật - liên


15
Hoa - độc lập” [42, tr.123]. Xác định và phân biệt rõ nhân dân lao động
các nước và kẻ thù cần đánh đuổi (chỉ có phát xít). Từ việc Hội nghị lần

thứ tám xác định phát xít Nhật- Pháp là kẻ thù của phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc ở Đông Dương, Đảng và Mặt trận Việt Minh hiệu
triệu nhân dân “đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật”.
3.2.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 9 năm 1939 đến
tháng 3 năm 1945
3.2.2.1. Hoạt động đấu tranh chống đế quốc xâm lược
Thực hiện đường lối chống đế quốc xâm lược đề ra trong Nghị quyết
Trung ương sáu, bảy, đảng bộ các nơi tích cực lãnh đạo nhân dân chống
giặc, tiêu biểu là khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), khởi nghĩa Nam Kỳ
(23-11-1940). Ngày 22-9-1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, quân
Pháp trên đường thua chạy đã rút lui qua châu Bắc Sơn. Đảng bộ Bắc
Sơn lãnh đạo nhân dân nổi dậy tước khí giới của tàn quân Pháp để tự vũ
trang cho mình, giải tán chính quyền địch và thành lập chính quyền cách
mạng (27-9-1940). Đội du kích Bắc Sơn được thành lập và lớn dần. Sau
đó, Nhật thỏa hiệp để Pháp quay lại. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại,
nhưng để lại những bài học quý về khởi nghĩa vũ trang. Tháng 10-1940,
quân Xiêm, được phát xít Nhật xúi giục, gây xung đột dọc biên giới với
Lào và Cam-pu-chia. Chiến tranh với Xiêm nổ ra, thực dân Pháp bắt
binh lính Việt Nam ra trận làm bia đỡ đạn. Nhân dân Nam Kỳ bí mật liên
lạc với Đảng bộ Nam Kỳ. Trước tình thế cấp bách, Đảng bộ Nam Kỳ
quyết định khởi nghĩa dù chưa có sự đồng ý của Trung ương. Nhận thấy
thời cơ chưa chín muồi, Trung ương Đảng ra lệnh hoãn, nhưng cán bộ
truyền lệnh bị Pháp bắt nên Nam Kỳ vẫn tiến hành khởi nghĩa. Khởi
nghĩa thất bại dưới sự đàn áp khốc liệt của thực dân, nhưng đây là cuộc
khởi nghĩa rộng và mạnh mẽ nhất so với các cuộc khởi nghĩa chống thực
dân Pháp trước đó, để lại những bài học quý báu để thực hiện Cách
mạng Tháng Tám 1945.
3.2.2.2. Tranh thủ mối quan hệ với Trung Quốc
Trở lại Trung Quốc từ đầu tháng 10-1938, Nguyễn Ái Quốc vừa
hoạt động ở các tỉnh biên giới sát Việt Nam vửa tìm cách về nước.

Tận dụng danh nghĩa hợp pháp của Việt Nam độc lập đồng minh hội
(Việt Minh) do chí sĩ yêu nước Hồ Học Lãm thành lập, Nguyễn Ái


16
Quốc bước đầu gây dựng quan hệ với chính quyền Tưởng Giới
Thạch. Người cũng xác định mục tiêu chủ yếu là để chúng tạo điều
kiện, không cản trở công việc của ta; về bản chất quân Quốc dân
Đảng vẫn là kẻ thù, dù có vào Việt Nam để đánh Nhật cũng chỉ là
đồng minh tạm thời. Cuối năm 1940, Người còn viết báo đăng trên
Cứu vong nhật báo (Trung Quốc) để tranh thủ sự ủng hộ của nhân
dân Trung Quốc với cách mạng Việt Nam. Nhờ các mối quan hệ với
Trung Quốc, ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc.
Sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị lần thứ tám
Trung ương Đảng tại Pắc Bó (Cao Bằng), từ ngày 10 đến 19-5-1941.
Hội nghị đề ra những phương hướng lớn về đường lối và hoạt động
đối ngoại. Sau đó, căn cứ tình hình thực tế, Đảng liên tục linh hoạt
ứng biến đề ra hoạt động đối ngoại đúng đắn, góp phần vào cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa phát xít, ủng hộ Liên bang Xơviết, và liên hiệp
có điều kiện với Trung Hoa dân quốc và Anh-Mỹ.
3.2.2.3. Đấu tranh chống phát xít Nhật – Pháp
Hội nghị lần thứ tám xác định phát xít Nhật- Pháp là kẻ thù của
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Đơng Dương. Đảng và Mặt
trận Việt Minh hiệu triệu nhân dân đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp,
Nhật. Đảng nhận ra xu hướng Đờ Gôn trong những người Pháp ở Đông
Dương và tinh thần chống Nhật trong Hoa kiều nên đề ra đường lối liên
minh với các đảng phái chống phát xít của người ngoại quốc ở Đơng
Dương, thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương.
3.2.2.4. Liên hệ, ủng hộ Liên bang Xôviết và phong trào cách
mạng thế giới

Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám và nhiều văn kiện sau đó,
Đảng ln khẳng định tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống lại
phát xít của Liên Xơ. Đảng đưa ra nhiều biện pháp thiết thực để ủng
hộ Liên Xơ như tun truyền giải thích cho nhân dân hiểu lý do cần
ủng hộ, phổ biến khẩu hiệu bằng nhiều hình thức, qun góp.
Tháng 6-1943, Quốc tế cộng sản tự giải thể. Nhất trí với chủ
trương của Quốc tế cộng sản, ngày 1-6-1943, Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương ra thơng cáo Đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống
phát xít xâm lược, vừa thơng báo chính thức với các đảng viên, vừa


17
thể hiện quan điểm của Đảng về sự kiện này. Sau khi chỉ ra sự đúng
đắn trong quyết định tự giải tán của Quốc tế cộng sản, Đảng khẳng
định mục đích, tơn chỉ của Đảng khơng thay đổi, Đảng vẫn đứng
vững, mọi đường lối đối ngoại của Đảng vẫn như cũ.
3.2.2.5. Liên hiệp có điều kiện với Trung Hoa dân quốc và Mỹ, Anh
Với vấn đề “Hoa quân nhập Việt”, Đảng xác định phương châm chiến
thuật là liên minh với quân Tưởng đánh Nhật - Pháp theo nguyên tắc
“bình đẳng tương trợ”. Chuẩn bị cho tình thế “Hoa quân nhập Việt”,
Đảng có những chỉ đạo cụ thể. Đối với quân Anh - Mỹ, Đảng xác định
cùng họ nhân nhượng liên hiệp có điều kiện. Nếu họ chịu giúp cách
mạng Đơng Dương, thì có thể để cho họ hưởng một phần quyền lợi ở
Đông Dương; nhưng nếu họ giúp đế quốc Pháp khơi phục lại chính
quyền ở Đơng Dương, Đảng phải cương quyết cự tuyệt
và tiếp tục chiến đấu giành quyền độc lập.
Ngày 13-8-1942, Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc liên hệ
với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Quốc dân Đảng Trung
Quốc, các lực lượng cách mạng người Việt Nam và Đồng minh, nhằm
tranh thủ sự viện trợ từ bên ngồi. Khơng may, đến phố Túc Vinh, Thiên

Bảo, Quảng Tây thì Người bị quân Quốc dân Đảng bắt.
3.2.3. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 3 năm 1945 đến
tháng 8 năm 1945
3.2.3.1. Quan điểm của các nước Đồng minh về vấn đề Việt
Nam * Quan điểm của Pháp
“Chính phủ Pháp tự do” của Đờ Gơn khơng ngừng tuyên bố ý
định khôi phục chế độ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương.
* Quan điểm của các nước Đồng minh khác
Tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven chủ trương thiết lập chế độ thác quản
để trao dần nền độc lập cho các nước Đông Dương và được Xit-ta-lin
tán thành. Tổng thống Trung Hoa Dân quốc Tưởng Giới Thạch hưởng
ứng nhưng với âm mưu một mình chiếm Đơng Dương. Thủ tướng
Anh Sớc-Sin phản đối vì lo ngại nếu Việt Nam độc lập, thì các thuộc
địa của Anh ở châu Á cũng vùng lên đòi độc lập. Anh hứa giúp đỡ
Pháp khi quân đội Anh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật.
Ngày 12-4-1945, Tổng thống Ru-dơ-ven qua đời, Tổng thống


18
Tru-man không phản đối việc Pháp trở lại Đông Dương. Liên Xô sau
khi ký Hiệp ước Liên minh trong chiến tranh chống chủ nghĩa phát
xít và tương trợ sau chiến tranh giữa Liên Xô và Pháp (12-1944) giữ
thái độ im lặng. Sự thay đổi thái độ của các nước lớn đã để ngỏ cửa
cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương.
3.2.3.2. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ tháng 3 năm 1945
đến tháng 8 năm 1945
* Với Nhật
Phát xít Nhật dần trở thành đối tượng đấu tranh chính của Đảng
và Mặt trận Việt Minh. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trở
thành kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương.

Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng nhận thấy thời cơ đã đến,
phải tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Do chênh lệch lực
lượng, Đảng dùng lực lượng quần chúng cách mạng tạo ra khí thế
cách mạng áp đảo để giành chính quyền. Mặt khác, gửi tối hậu thư, ra
điều kiện buộc Nhật nằm yên và trao vũ khí để được an tồn tính
mạng. Cách làm vừa cương quyết, vừa mềm dẻo này đã giúp cách
mạng tránh được nhiều thương vong, thu được kết quả quan trọng là
giành được chính quyền trong thời gian ngắn.
* Với Pháp
Sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, vị trí của Pháp trong sách lược
đối ngoại của Đảng đã có thay đổi đáng kể. Đảng nêu ra cần sẵn sàng
liên minh với những người Pháp chống Nhật.
* Với lực lượng Đồng minh
Chủ trương của Đảng là cần sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng
minh bằng cách biểu tình, lập dân quân cùng chiến đấu, mở rộng
chiến tranh du kích; đồng thời, lợi dụng sự mâu thuẫn của Trung
Quốc - Mỹ và Anh - Pháp Đờ Gơn.
Hồ Chí Minh thơng qua những người Mỹ có mặt ở Tân Trào giao
thiệp với Pháp nhằm làm cho người Mỹ thấy thiện chí của Việt Minh
muốn tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề Đông Dương sau chiến
tranh, đồng thời, thăm dò thái độ của các nước đối với Việt Nam.
Nhận ra ý đồ của Pháp vẫn là khơng để Đơng Dương được độc lập,
phía Việt Nam tỏ thái độ cương quyết.


19
* Với chính quyền Tưởng Giới Thạch
Ngày 10-9-1943, Trương Phát Khuê mời Hồ Chí Minh tham gia
Ban trù bị của Đại hội toàn quốc của Việt Cách. Để được tự do, Hồ
Chí Minh đã nhận lời. Cuối tháng 3-1944, Hội nghị đại biểu hải

ngoại Việt Cách họp kín tại Liễu Châu do Trương Phát Khuê chủ trì.
Sau cuộc họp, Tưởng Giới Thạch chấp nhận để Đảng Cộng sản
Đông Dương và Việt Minh trong Mặt trận liên minh Trung-Việt
chống chủ nghĩa phát xít. Tướng Trương Phát Khuê ghi nhận uy tín
và những đóng góp của Hồ Chí Minh trong việc liên kết các lực
lượng quốc tế chống phát xít đang có mặt trên địa bàn của ông ta.
Tuy nhiên, trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh cũng khơng hề
ảo tưởng về “thiện chí” của chính phủ Tưởng với Việt Nam. Người
tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng Quốc dân Đảng, nhưng cũng biết
những âm mưu, nguy cơ của kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”.
* Với Mỹ
Cuối năm 1944, Việt Minh cứu một Trung úy phi cơng Mỹ thốt
khỏi vịng vây của Nhật-Pháp. Hồ Chí Minh đưa viên phi cơng về
Trung Quốc cho Mỹ. Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt
Minh là ủng hộ Đồng minh chống phát xít Nhật. Phía Mỹ cảm ơn
Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể. Người Mỹ cung cấp
cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống căn
cứ Việt Bắc hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để ta chuyển về.
Đội tình báo Con Nai của Mỹ nhảy dù xuống Tân Trào, huấn luyện
các kỹ năng quân sự cho 40 người trong đội quân du kích Việt Minh.
Việt Minh cung cấp cho Mỹ những tài liệu về quân đội Nhật,
giúp tìm những người Mỹ đang lẩn trốn và giúp thành lập một hệ
thống radio suốt từ Hà Nội vào Sài Gòn. Khi ta giành được chính
quyền ngày 19-8-1945, người Mỹ đã có đồn đến Hà Nội vào 22-8,
giúp ta tiếp xúc với Pháp nhưng khơng đạt kết quả.
* Với Anh
Để chống phát xít Nhật, Anh cũng đã xây dựng một đội tình báo
người Đơng Dương gồm 7 người được chọn trong những chính trị
phạm Đông Dương bị đi đày ở Ma-đa-gát-xca, đưa đến Ấn Độ để
huấn luyện sử dụng điện đài và nhảy dù. Đó đều là những chiến sĩ



20
cộng sản mong muốn tận dụng cơ hội để về nước tiếp tục phụng sự
Đảng. Các đồng chí tận dụng các kỹ năng đã được huấn luyện, vừa
tranh thủ sự giúp đỡ của Anh để có thêm hàng tiếp tế, vừa cung cấp
cho tình báo Anh những thơng tin đã được phía ta “kiểm duyệt”.
* Với phong trào cách mạng các nước xung quanh
Do gặp nhiều trở ngại, phải đến cuối năm 1944, Mặt trận Việt
Minh mới từng bước mở rộng liên lạc với phong trào dân tộc chống
phát xít Nhật ở một số nước như Miến Điện, Mã Lai, Philíppin, Thái
Lan, Inđơnêxia... Ở Thái Lan, Việt Minh cùng với các lực lượng yêu
nước chống Nhật lập khu căn cứ chung ở Phu Khan. Tại đây, Việt
Minh đã huấn luyện quân đội, lập kho vũ khí và tiếp nhận viện trợ vũ
khí từ lực lượng Đồng minh.
Ở Lào, từ năm 1943, “Ban vận động Việt kiều Lào - Thái” được
thành lập và tiến hành gây dựng cơ sở trên địa bàn Lào. Đầu 1945,
“Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái - Lào”, một chi nhánh của
Mặt trận Việt Minh, được thành lập. Cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi
ở Việt Nam đã đập tan bộ máy thống trị đầu não của phát xít Nhật và
thực dân Pháp ở Đơng Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền của nhân dân Lào. Ở Campuchia, trước khi
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cán bộ cộng sản Việt Nam bắt
đầu có những hoạt động nhỏ lẻ. Ban Vận động Việt kiều cũng được
thành lập trong cộng đồng Việt kiều Campuchia. Tuy vậy, hoạt động
của Đảng ở Campuchia không thu được nhiều kết quả như ở Lào.
Tiểu kết
Từ 1939, đặc biệt là từ 1941 đến 1945 là những năm hoạt động đối
ngoại của Đảng đạt những kết quả khá quan trọng. Với đường lối đối
ngoại tổng quát: đoàn kết các Đảng Cộng sản các nước, chống chủ nghĩa

đế quốc, đối ngoại của Đảng dần đi vào cụ thể chính sách với từng quốc
gia, phân tích và có đối sách với các đối tượng khác nhau. Đảng đã thành
công trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống phát xít, ủng hộ Liên
Xơ, liên hiệp với Mỹ và Trung Quốc,... Thời kỳ này cũng đánh dấu hoạt
động đối ngoại năng động của Hồ Chí Minh. Những thành tựu đối ngoại
của Đảng trong thời kỳ này đã góp phần to lớn trong việc tạo nên điều
kiện thuận lợi để tổng khởi nghĩa nổ ra và


21
thắng lợi vào tháng 8-1945 và là tiền đề trực tiếp cho hoạt động ngoại
giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT
4.1.1. Thành tựu
4.1.1.1. Hình thành đường lối đối ngoại phù hợp với tình hình
thực tiễn phức tạp
Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 diễn
ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước hết sức phức tạp. Trong tình
hình đó, Đảng đã đưa ra được những đường lối đối ngoại sáng tạo,
hợp lý, hình thành do yêu cầu của thực tiễn đấu tranh cách mạng, dựa
trên kinh nghiệm hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và căn
cứ vào quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
4.1.1.2. Tạo dựng vị trí của Đảng Cộng sản Đông Dương trong
phong trào cộng sản quốc tế
Từ khi ra đời, Đảng đã nhận thức rõ rằng Đảng là một bộ phận
của phong trào cộng sản quốc tế và cách mạng thế giới. Với sự hoạt
động tích cực của Đảng viên, trong đó có vai trị lớn của Hồ Chí
Minh, Đảng dần trưởng thành và được cơng nhận là một chi bộ độc

lập của Quốc tế cộng sản, giành được sự đồng tình ủng hộ của nhân
dân thế giới đối với Việt Nam, cũng như đóng góp vào sự nghiệp
cách mạng chung của thế giới.
4.1.1.3. Ngày càng mở rộng đối tượng hợp tác và thu được hiệu
quả Khi mới thành lập, đối tượng hợp tác của Đảng hầu như chỉ có
Quốc tế cộng sản và các Đảng cộng sản khác. Sau đó, căn cứ vào
thực tiễn, Đảng dần mở rộng đối tượng, tìm cách thiết lập quan hệ
với Quốc dân Đảng Trung Hoa, với Đồng minh Mỹ và những người
Pháp, Anh chống phát xít. Đặc biệt với Pháp, Đảng đã rất linh hoạt,
có thái độ và hành động phù hợp với từng thời điểm, từng hoàn cảnh.
Đảng cũng thiết lập được quan hệ đối ngoại bước đầu với nhiều nước
trên thế giới, trong đó có các nước thuộc địa và phụ thuộc để cùng
đoàn kết chống ngoại xâm, tăng cường tình đồn kết với nhân dân
Lào và Campuchia và tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của nhân


22
dân tiến bộ trên thế giới.
4.1.1.4. Góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của
dân tộc Việt Nam
Hoạt động đối ngoại của Đảng thời kỳ này đã đóng góp nhất định
vào thành cơng của Cách mạng Tháng Tám:
Quốc tế cộng sản đã giúp Đảng đào tạo cán bộ, chỉ dẫn về đường
lối và giúp đỡ tài chính. Báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xơ và Pháp
đã nhiều lần đăng tin, bài ủng hộ cách mạng Đông Dương. Cơ sở
cách mạng ở các huyện vùng biên thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc) là nơi cán bộ và nhân dân ta tạm lánh khi bị khủng bố trắng.
Giao thiệp ban đầu với Mỹ mang lại những lợi ích thiết thực: Mỹ
cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men và huấn luyện các
kỹ năng quân sự cho lực lượng vũ trang Việt Minh.

Trong thời gian Nhật - Pháp cùng thống trị Đông Dương, đường
lối đối ngoại tập trung vào từng đối tượng cụ thể đã tận dụng mâu
thuẫn sẵn có để chia rẽ quan hệ Nhật và Pháp.
Trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng sử dụng phương
pháp điều đình, thương lượng giành chính quyền từ qn đội Nhật,
làm giảm đáng kể những tổn thất của ta.
4.1.2. Hạn chế
Hạn chế lớn nhất là thiếu hụt nguồn nhân lực hoạt động trong
lĩnh vực đối ngoại. Đảng mới thành lập, số lượng Đảng viên ít, số
Đảng viên có chất lượng có thể tham gia hoạt động đối ngoại càng ít
hơn. Thêm nữa, Đảng thường xuyên phải đối diện với sự khủng bố
của thực dân Pháp và tay sai, khiến các cơ quan lãnh đạo của Đảng,
liên tục bị truy lùng và đánh phá, hao hụt nhân lực.
Bên cạnh đó, Đảng chưa thành lập bất kỳ cơ quan chuyên trách
nào về đối ngoại của Đảng nên việc tiếp nhận các thông tin, tạo cơ
hội tiếp xúc trực tiếp từ bên ngoài cịn hạn chế.
Ngồi ra, việc tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam cũng còn hạn chế.
Về đối tượng quan hệ đối ngoại, Đảng hướng đến nhiều đối
tượng nhưng lại chưa xác định đối tượng nào cần đặc biệt ưu tiên.
Việc này phần nào hạn chế mong muốn hợp tác của các nước khác


23
với ta, cũng thể hiện sự thiếu kinh nghiệm đối ngoại của Đảng.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
- Nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác đối ngoại.
- Xác định đường lối đối ngoại phù hợp tình hình thời cuộc.
- Nhận thức rõ bạn thù, chủ động, sáng tạo để mở rộng quan hệ
đối ngoại.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách hoạt động đối ngoại.
- Nhận thức rõ động cơ và sự ứng xử của các nước lớn trước vận
mệnh của các nước nhỏ như Việt Nam.
- Nhận thức nội lực quyết định đối ngoại, đối ngoại phục vụ đối
nội.
Tiểu kết
Trong 15 năm đầu tiên lãnh đạo nhân dân đi đến Cách mạng
Tháng Tám thành công, thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Đảng đạt được những thành tựu đáng kể trên mặt trận đối ngoại,
nhưng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Kết quả hoạt động đối
ngoại thời kỳ 1930-1945 đã để lại nhiều bài học quý giá cho sau này.
Hiện nay, trong bối cảnh tồn cầu hóa, tình hình thế giới có nhiều
diễn biến phức tạp, những bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động
đối ngoại các thời kỳ , trong đó có thời kỳ 1930-1945, tiếp tục được
Đảng kế thừa, bổ sung, phát triển tồn diện, sâu sắc hơn. Báo cáo
chính trị tại Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) đã chỉ ra quan
điểm, chủ trương, định hướng hoạt động đối ngoại theo phương châm
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp hết sức đúng đắn, khoa học, phù hợp xu hướng quốc tế và điều
kiện thực tiễn của nước ta, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của tồn
Đảng và tồn thể nhân dân Việt Nam.


×