nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 15
Ths. Phan Trung Hoài *
uật s là nghề có lịch sử hình thành,
phát triển từ lâu với những cách thức
tổ chức và hoạt động rất phong phú, đa
dạng. Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay,
xung quanh vấn đề nghề luật s cũng còn
có những quan niệm rất khác nhau, thậm
chí đối lập nhau ở nớc ta, trong những
năm đổi mới vừa qua, nghề luật s đ có
những bớc phát triển quan trọng và quan
niệm về nghề luật s cũng có sự đổi mới
đáng kể. Đội ngũ luật s đợc tăng cờng
về số lợng và chất lợng, phạm vi hoạt
động của luật s đợc mở rộng hơn, d luận
x hội ngày càng quan tâm nhiều hơn tới hoạt
động của luật s, coi hoạt động của luật s là
lĩnh vực hoạt động không thể thiếu trong quá
trình xây dựng nhà nớc pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân.
Mặc dù vậy, nghề luật s ở nớc ta vẫn
cha có bớc phát triển tơng xứng để đáp
ứng các yêu cầu. Còn nhiều vấn đề lí luận
và thực tiễn đang đặt ra đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu một cách toàn diện để xây dựng
luận cứ cho việc xây dựng mô hình luật s
phù hợp với điều kiện của nớc ta hiện nay.
Chẳng hạn, nghề luật s nói chung và
nghề luật s ở nớc ta nói riêng có tính chất
và đặc điểm gì? Luật s có vị trí và vai trò
nh thế nào trong đời sống x hội? Phạm
vi hoạt động của luật s gồm những vấn đề
gì? Mô hình tổ chức và hoạt động của luật
s? Tính định hớng XHCN trong tổ chức
và hoạt động của luật s cần đợc hiểu nh
thế nào?
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp
hành trung ơng Đảng cộng sản Việt Nam
khoá VIII chỉ rõ: Đào tạo, phát triển đội
ngũ luật s có phẩm chất đạo đức, có trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy vai trò
của họ trong t vấn pháp luật và trong tố
tụng. Đây là định hớng quan trọng cho
việc tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ sở
khoa học và thực tiễn của mô hình luật s
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Có quan niệm cho rằng luật s là ngời
phụ tá t pháp, với t cách ấy luật s tham
gia vào việc điều hành bộ máy t pháp
đồng thời và bình đẳng với các thành phần
khác của tòa án và viện kiểm sát nhân
dân.
(1)
Quan niệm này cha xác định đúng
vị trí của luật s khi quan niệm tính chất
phụ tá của luật s nhng đồng thời lại đi
quá xa khi nhấn mạnh vai trò tham gia
điều hành bộ máy t pháp. Quan niệm
khác lại cho rằng luật s là ngời trợ lí
pháp luật cho khách hàng, ngời đồng hành
L
* Đoàn luật s thành phố Hồ Chí Minh
nghiên cứu - trao đổi
16
-
Tạp chí luật học
pháp lí với tòa án, ngời trợ thủ pháp luật
với x hội nên bản thân ngời luật s cũng
vừa là bản thân nghề nghiệp, bản thân x
hội, tơng tự nh bản thân của vị thẩm
phán hay của công tố viên.
(2)
Có tác giả lại
quan niệm sứ mạng cao cả và thiêng liêng
của luật s là bênh vực và bảo vệ kẻ yếu. ở
đây, kẻ yếu đợc hiểu là ngời dân trong
quan hệ với cơ quan công quyền, ngời
kém hiểu biết hơn và nghèo hơn trong quan
hệ với ngời hiểu biết hơn và giàu hơn Kẻ
yếu, để làm tăng sức mạnh của mình thì có
một cách tốt là sử dụng luật s.
(3)
Quan
niệm nh trên không phải là quan niệm
đúng cả về phơng diện lịch sử và bản chất
nghề nghiệp luật s. Với bản chất XHCN,
dân chủ và nhân đạo, Nhà nớc ta luôn coi
trọng quyền của con ngời và quyền công
dân. Những quyền này đợc Hiến pháp quy
định (Điều 70), đợc nêu thành nguyên tắc
cơ bản đầu tiên trong Bộ luật tố tụng hình
sự và nhiều văn bản pháp luật quan trọng
khác. Sự gắn bó của nghề nghiệp luật s với
số phận của con ngời, bất luận trong
trờng hợp nào, cũng đợc coi là sự kết nối
tự nhiên, mang tính bản chất. Đối tợng
của nghề nghiệp, vì thế không đơn thuần
mang tính dịch vụ và chỉ nghĩ đến việc
kiếm lời từ dịch vụ đó mà trớc hết chính là
nhu cầu chính đáng của ngời dân cần đợc
sự trợ giúp về mặt pháp lí.
Đáng chú ý, khi đề cập chức năng của
luật s không chỉ là nghề nghiệp mà còn là
sứ mệnh, có tác giả đ cho rằng: Ngời
luật s XHCN muốn làm tròn trách nhiệm
của mình trong tố tụng hình sự và dân sự
thì phải luôn hớng tới mục tiêu cao quý
góp phần bảo vệ công lí, công bằng x hội,
bảo vệ pháp chế XHCN, với tinh thần chí
công vô t của ngời tham gia cầm cán cân
công lí và tinh thần dũng cảm của ngời
chiến sĩ phục vụ lí tởng trên.
(4)
Theo quan điểm của chúng tôi, nền
tảng hoạt động của luật s không chỉ xuất
phát từ quyền hiến định mà ở phạm vi rộng
hơn, luật s đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong các thiết chế của nền dân chủ,
trở thành ngời đồng hành đắc lực thực
hiện quyền tự do và dân chủ - của quý báu
nhất của nhân dân nh cách nói của Bác
Hồ, mang lại các giá trị là đại lợng bảo
đảm sự công bằng trong x hội. Tuy nhiên,
việc xem xét vị trí và vai trò của luật s
không thể tách rời các điều kiện phát triển
kinh tế - x hội của đất nớc và cần đặt nó
trong tổng thể các mối quan hệ với các thiết
chế khác của thợng tầng kiến trúc, có sự
tác động trở lại đối với hạ tầng cơ sở. Bởi
vì, xét một cách tổng thể: Sự phát triển về
mặt chính trị, triết học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật là dựa vào sự phát triển kinh
tế. Nhng tất cả những sự phát triển đó đều
tác động lẫn nhau và cũng tác động đến cơ
sở kinh tế
(5)
. Theo đó, pháp luật luôn phản
ánh trình độ phát triển của kinh tế - x hội,
nó không bao giờ có thể cao hơn chế độ
kinh tế và cao hơn trình độ văn minh của x
hội do chế độ kinh tế ấy quy định
(6)
nhng
pháp luật có sự tác động mạnh mẽ tới sự
phát triển của kinh tế - x hội.
Nh vậy, cơ sở của nền kinh tế phát
triển theo định hớng XHCN là sự bảo đảm
cho các quyền tự do và dân chủ của công
dân (trong đó có quyền bào chữa và nhờ
ngời bào chữa) và đến lợt mình, các
quyền tự do và dân chủ ấy tác động tích cực
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 17
đến tâm trạng của x hội, đến nhận thức và
niềm tin của ngời dân đối với các thiết chế
dân chủ. Khi đặt vấn đề vai trò của luật s
nh là tiêu chí của sự phát triển nền dân
chủ, cũng không nên đánh đồng hoặc tuyệt
đối hóa tiêu chí này nh là tiền đề tạo lập
bình đẳng x hội. Giữa khái niệm bình
đẳng x hội và công bằng x hội có nội
hàm khác nhau, trong đó công bằng x hội
là một dạng, một biểu hiện của bình đẳng
x hội và thực hiện công bằng x hội chính
là thực hiện một phần của bình đẳng x hội,
một bớc tiến trên con đờng lâu dài nhằm
dần đạt tới bình đẳng x hội hoàn toàn.
(7)
Mặt khác, cũng không thể có khái niệm dân
chủ, quyền và tự do cá nhân chung chung,
thoát li khỏi các điều kiện kinh tế - chính trị
và x hội của quốc gia, cùng với nó là truyền
thống văn hoá, phong tục tập quán và cả thói
quen ứng xử các hành vi thông qua các
chuẩn mực, khuôn mẫu về mặt pháp lí.
Về phơng diện lí luận, Đảng ta đ
khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nớc Việt Nam theo con
đờng x hội chủ nghĩa trên nền tảng của
chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí
Minh. Xây dựng chủ nghĩa x hội bỏ qua
chế độ t bản chủ nghĩa, tạo sự biến đổi về
chất của x hội trên tất cả các lĩnh vực là
sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên
phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với
nhiều chặng đờng, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, x hội có tính chất quá độ.
(8)
Sự
lựa chọn con đờng chủ nghĩa x hội là sự
lựa chọn đúng đắn, khoa học và hợp quy
luật. Mặc dù việc xác định nội hàm của
khái niệm định hớng x hội chủ nghĩa
còn đang đợc các nhà lí luận tiếp tục
nghiên cứu để làm sâu sắc hơn nhng
những nội dung cơ bản của nó đ đợc làm
rõ trong Nghị quyết Đại hội đảng IX. Vấn
đề đang đặt ra là phải cụ thể hóa những nội
dung đó vào các lĩnh vực khác nhau, trong
đó có lĩnh vực hoạt động luật s.
Có thể nói, khi xem xét tính định hớng
XHCN trong hoạt động của luật s bao
gồm không chỉ gắn liền với điều kiện cụ
thể của đất nớc và nhận thức về thực trạng
hoạt động luật s thời gian qua mà còn phải
phân biệt cho đợc những đặc điểm then
chốt giữa hoạt động luật s trong x hội
XHCN và x hội TBCN, xác định đợc
những mục tiêu phải đạt tới cho sự phát
triển của dân chủ và bảo đảm công bằng x
hội. Xét trên bình diện này, hoạt động luật
s trong điều kiện đất nớc ta hiện nay
không chỉ coi việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức là nhiệm vụ
hàng đầu mà còn phải thực hiện nhiệm vụ
đó trên cơ sở pháp luật, bảo đảm sự thật
khách quan và công lí. Điều này cũng có
nghĩa là không nên quan niệm nghề luật s
là hoạt động dịch vụ pháp lí đơn thuần,
không thấy hết các giá trị và ý nghĩa mà
hoạt động luật s mang lại cho x hội nói
chung, cho cá nhân, tổ chức cần sự trợ giúp
về mặt pháp lí nói riêng. Luật s hành nghề
không chỉ quan tâm đến thù lao của khách
hàng và những lợi ích vật chất khác mà còn
phải quan tâm đến yếu tố phi vật chất, phi
dịch vụ trong hoạt động trợ giúp pháp lí cho
ngời nghèo, bào chữa theo chỉ định của
tòa án hoặc tham gia với t cách là luật s
công của Nhà nớc Hoạt động luật s vì
thế không chỉ diễn ra trong lĩnh vực tranh
tụng và t vấn pháp luật mà còn mở rộng ra
nghiên cứu - trao đổi
18
-
Tạp chí luật học
các hoạt động, lĩnh vực của x hội, góp
phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật, xây
dựng nếp sống và ý thức tuân thủ pháp luật
trong cộng đồng dân c.
Theo quan điểm của chúng tôi, muốn
xác định tính định hớng XHCN trong
hoạt động nghề nghiệp của luật s, phải dựa
trên các căn cứ: Thứ nhất, phải dựa trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, t
tởng Hồ Chí Minh và đờng lối của Đảng
ta trong việc xây dựng nhà nớc pháp
quyền của dân, do dân và vì dân; xây dựng
x hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong
đó có quan điểm coi quyền bào chữa và nhờ
ngời khác bào chữa là thành trì cần thiết
cho các quyền tự do khác; thứ hai, phải căn
cứ vào những đặc điểm và con ngời Việt
Nam trong lịch sử, ở thời điểm hiện nay và
xu thế phát triển trong tơng lai làm nền
tảng xây dựng hình mẫu luật s. Đó là xây
dựng con ngời Việt Nam phát triển toàn
diện về chính trị, t tởng, trí tuệ, đạo đức,
thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng
nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ
hài hòa trong gia đình, cộng đồng và x
hội phát huy dân chủ, giữ vững kỉ luật, kỉ
cơng, tăng cờng pháp chế Thực hiện tốt
quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp
ở cơ sở. Chăm lo cho con ngời, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
ngời;
(9)
thứ ba, phải từng bớc tiếp cận
và hoà nhập với trình độ của luật s trên
thế giới, tiếp thu những mặt, những thiết
chế và quan niệm tích cực, phù hợp với
điều kiện phát triển của Việt Nam, phục
vụ đắc lực cho sự hoà nhập của đất nớc
trong tiến trình toàn cầu hóa.
Hiện nay, việc xác định hoạt động luật
s là nghề không thể thiếu trong x hội và
cơ chế pháp lí điều chỉnh hoạt động nghề
nghiệp này nh thế nào vẫn đang là những
vấn đề lí luận và thực tiễn pháp lí cần
nghiên cứu thấu đáo nhằm đa ra các giải
pháp cho sự hoàn thiện pháp luật về luật s
ở nớc ta hiện nay. Trớc hết, về phơng
diện định danh, có quan niệm khá phổ biến
là coi hoạt động luật s chỉ là hoạt động
bổ trợ t pháp. Quan niệm này xuất phát
từ thực tiễn là hành nghề của luật s thờng
gắn rất chặt với hoạt động t pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử của tòa án. Vì thế,
tổ chức nghề nghiệp của luật s (đoàn luật
s, hội luật s) thờng đợc thành lập trong
phạm vi thẩm quyền tài phán của tòa án địa
phơng theo công thức: Toà án địa phơng/
đoàn luật s địa phơng/ luật s địa
phơng. Cũng vì lí do đó mà nhiều nớc
trên thế giới, trong đó có Việt Nam đ coi
luật s là hoạt động bổ trợ t pháp.
(10)
Trong hệ thống các quy định pháp luật về
tố tụng, luật s đợc xác định là ngời
tham gia tố tụng, có địa vị pháp lí hoàn
toàn khác so với những ngời tiến hành tố
tụng. Trong khi đó, xét về bản chất thì chức
năng bào chữa tồn tại độc lập với chức năng
công tố nh là tất yếu khách quan tự thân
của tố tụng hình sự. Xét ở bình diện khác,
quan điểm rất đáng chú ý là trong luật tố
tụng hình sự hiện hành, chức năng bào chữa
không chỉ thuộc về bên bào chữa mà còn
thuộc về cả bên buộc tội và cơ quan xét xử
nữa.
(11)
Thực tế cho thấy khi giải quyết
tranh chấp giữa cá nhân và cá nhân hay
giữa cá nhân với cơ quan nhà nớc, hầu hết
các nớc trên thế giới đều có thành lập 3
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 19
định chế: Một là, công tố nghiêng về buộc
tội; hai là, cơ quan xét xử và ba là định chế
luật s, độc lập với cơ quan buộc tội và cơ
quan xét xử, tạo thành ba chiếc cánh nâng
đỡ nền t pháp. Tính chất độc lập này
không chỉ giới hạn trong phạm vi tranh
tụng tại phiên tòa mà còn mở rộng đến các
lĩnh vực của đời sống x hội.
Trong điều kiện phát triển của x hội
nớc ta hiện nay và yêu cầu của chiến lợc
cải cách t pháp, điều dễ nhận thấy là luật
s đ đợc nhìn nhận nh là chủ thể độc lập
và quan trọng trong quá trình tranh tụng, là
những ngời hành nghề chuyên nghiệp về
pháp luật. Theo các quy định của Pháp lệnh
luật s năm 2001, họ còn đợc đào tạo
nghề nghiệp và phải qua kì thi và thời gian
tập sự mới đợc cấp chứng chỉ hành nghề
luật s. Luật s còn có sứ mạng bảo vệ
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm việc thực
thi pháp luật đợc đúng đắn, bảo vệ công
bằng và chính nghĩa. Có thể khẳng định
rằng giá trị của hoạt động nghề nghiệp luật
s không khác gì với những ngời làm công
tác giám sát và thực thi pháp luật khác. Nếu
nh chúng ta đa ra các tiêu chí nh luật s
không đợc coi là công chức hay họ không
phải là ngời đợc Nhà nớc trả lơng và
các khoản bảo hiểm x hội khác, hoặc bản
chất nghề nghiệp không tạo ra cho họ
quyền lực mà các điều tra viên, kiểm
sát viên hay thẩm phán đ có để làm căn
cứ phân biệt tính chất nghề nghiệp luật s
thì cha đúng về phơng diện lí luận và
thực tiễn.
Theo chúng tôi, không nên giới hạn
hoạt động luật s trong khuôn khổ của các
hoạt động bổ trợ t pháp vì nh vậy cha
phản ánh đúng ý nghĩa sâu xa của hoạt
động luật s và các giá trị x hội mà hoạt
động này mang lại cho sự phát triển của
nền dân chủ nói chung và hoạt động t
pháp nói riêng. Việc xác định đúng vị trí
độc lập của hoạt động luật s trong tranh
tụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
phát huy vai trò của luật s trong hoạt động
nghề nghiệp của mình, góp phần thực hiện
chiến lợc cải cách t pháp mà Đảng ta đ
nêu tại Nghị quyết 08-NQ/TƯ ngày
2/1/2002 của Bộ chính trị.
Xây dựng mô hình luật s Việt Nam
theo định hớng x hội chủ nghĩa là vấn đề
lí luận mới mẻ và có ý nghĩa chính trị -
pháp lí sâu sắc. Để có thể xây dựng đợc
mô hình trên, cần phải dựa vào đớng lối
của Đảng và khung pháp luật của Nhà
nớc, trong đó phơng hớng quan trọng là
phải thay đổi các quy định trong hệ thống
pháp luật nội dung và tố tụng (hình sự, dân
sự, kinh tế, lao động, hành chính ) nhằm
xây dựng vị trí, vai trò của luật s trở thành
chủ thể độc lập trong hoạt động t pháp.
Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về luật
s và cách thức tổ chức quản lí hoạt động
luật s, cần sớm ban hành Quy chế trách
nhiệm nghề nghiệp, bao gồm các nguyên
tắc chung, các tiêu chuẩn đạo đức và tiêu
chuẩn kỉ luật làm khuôn mẫu ứng xử trong
hoạt động nghề nghiệp và trong cuộc sống
của luật s. Ngời dân hiện nay trông chờ
vào sự trợ giúp về mặt pháp lí của luật s vì
họ tin tởng không chỉ vào kiến thức pháp
lí, kĩ năng hành nghề mà cả về tính liêm
chính, chuẩn mực trong hành vi của cá
nghiên cứu - trao đổi
20
-
Tạp chí luật học
nhân luật s nói riêng, của tổ chức luật s
nh là một tầng lớp trí thức u tú, có văn
hóa và hoài bo, có ảnh hởng nhất định
đến quá trình phát triển của x hội. Vì thế,
vị thế của ngời luật s trong x hội chứa
đựng hàm lợng các giá trị tiêu biểu, đợc
soi xét trong nhiều chiều chuyển động của
các mối quan hệ x hội, không thể chỉ là
quan hệ giữa luật s và khách hàng mà còn
phải hng suy cùng với dân tộc, gắn với
mạch đập của thời đại, mu cầu chính
nghĩa và góp phần nhiều hơn nữa cho sự
phát triển của đất nớc. Hàm lợng các giá
trị tiêu biểu ấy không phải có đợc từ tiền
bạc hay sự quen biết rộng mà là sự kết
tinh của cả quá trình phấn đấu gian nan,
thậm chí thất bại, mới có đợc.
Xét trên quan niệm chung nh vậy, mới
thấy phẩm chất của ngời luật s XHCN
đợc đánh giá không chỉ là ngời tuân thủ
pháp luật, có kiến thức, kĩ năng và kỉ luật,
tận tâm với khách hàng mà còn phải là
ngời có tấm lòng yêu thơng đối với x
hội, có lối sống lành mạnh, lòng đầy tự tin
vào chính nghĩa, tin vào công bằng x hội.
Không thể xây dựng hình ảnh ngời luật s
trong chế độ XHCN chỉ là ngời làm
chính trị đơn thuần hoặc chỉ tính toán thu
nhập cá nhân, mu cầu lợi ích cho riêng
mình. Hình mẫu luật s phù hợp với điều
kiện phát triển hiện nay của Việt Nam phải
là ngời có văn hóa và nhận thức ngang
tầm với sự phát triển của x hội, dựa trên
một nền tảng lí luận và tinh thông nghề
nghiệp pháp lí sâu sắc, có kinh nghiệm thực
tiễn phong phú và phơng pháp làm việc
linh hoạt; vừa giữ đợc giới hạn các chuẩn
mực của pháp luật và trách nhiệm nghề
nghiệp, vừa biết vận dụng sáng tạo tinh
thần thợng tôn pháp luật vào việc xử lí các
sự kiện trong đời sống thực tiễn./.
(1).Xem: Luật s Nguyễn Mạnh Bách - Quyền và
nghĩa vụ của luật s, Nội san Đoàn luật s thành
phố Hồ Chí Minh, số xuân Kỉ Mo 1999, tr.16.
(2).Xem: Luật s Võ Hng Thanh - Đạo đức nghề
nghiệp của luật s , Nội san Đoàn luật s thành phố
Hồ Chí Minh, Sđd, tr.20.
(3).Xem: Nguyễn Tiến Lập - Tham luận tại Hội
thảo Đạo đức nghề nghiệp luật s, Bộ t pháp
thành phố Hồ Chí Minh 3/2001.
(4).Xem: Luật s Nguyễn Thành Vĩnh - Luật s với
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, Nxb. Pháp lí, Hà Nội 1990, tr.133.
(5).Xem: C.Mác-Ph.Ăngghen - Một số th về chủ
nghĩa duy vật lịch sử (in lần thứ hai), Nxb. Sự thật,
Hà Nội 1976, tr.128.
(6).Xem: V.I. Lênin - Nhà nớc và cách mạng
(Học thuyết của chủ nghĩa Mác về nhà nớc và
những nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách
mạng), Nxb. Tiến bộ - Matxcơva 1974 - Bản tiếng
Việt, in theo bản dịch của Nxb. Sự thật, Hà Nội,
tr.151.
(7).Xem: GS.TS. Lê Hữu Tầng - Về công bằng x
hội trong CNXH ở nớc ta hiện nay - về định hớng
XHCN và con đờng đi lên CNXH ở Việt Nam,
Sđd, tr 217-218.
(8).Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.21-22.
(9).Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Sđd. tr.38 và 49.
(10).Xem: TS. Hà Hùng Cờng - Pháp lệnh luật s
năm 2001với việc đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực
và thế giới, số chuyên đề về Pháp lệnh luật s năm
2001, Bộ t pháp và Tạp chí dân chủ và pháp luật,
Hà Nội 12/2001, tr. 23.
(11).Xem: TS. Phạm Hồng Hải - Về chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà nớc và pháp
luật, số 2/1994, tr. 27.