Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận thực trạng bình đẳng giới trong lãnh đạo và quản lý trên địa bàn huyện LP tỉnh ST hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.47 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Bình đẳng giới hiện nay là vấn đề quan trọng được nhiều nước, nhiều quốc
gia quan tâm ký kết nhiều hiệp ước và cam kết thực hiện Nhà nước ta đã ký kết,
tham gia “Công ước Liên hiệp quốc về xố bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ” và ký kết tham gia, thực hiện tám mục tiêu thiên niên kỷ trong đó có mục
tiêu: thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới. Trong hoạt động cơng vụ, cơng chức nam
và nữ đều có cơ hội, nghĩa vụ, quyền lợi ngang nhau theo những nguyên tắc nhất
định. Tuy nhiên, để đánh giá xác thực mức độ bình đẳng giới trong quản lý cán bộ,
cơng chức cần có những tiêu chí cụ thể.
Do đó , sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm
ngay từ những buổi đầu của cách mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được
khẳng định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa năm 1946. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói: “Nếu khơng giải
phóng phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải phóng phụ
nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước
ta ln coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, trong đó
nhấn mạnh thực hiện bình đẳng nam nữ.
Nhằm giảm khoảng cách giới và nâng cao vị thế của phụ nữ trong một số
lĩnh vực, ngành, vùng, địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình
đẳng giới cao, góp phần thực hiện thành cơng Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011 - 2020, ngày 02-10-2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1696/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020.
Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung
và tỉnh ST nói riêng đã đạt được một số kết quả tích cực. Điều này thể hiện rõ
trong việc nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động
xã hội, tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc


quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức. Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử
và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân; tự ứng


cử và được giới thiệu ứng cử vào vị trí lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp; bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt,
bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
Xuất phát từ thực tiễn đặt ra về vấn đề bình đẳng giới, nên trong bài thu
hoạch hết mơn lần này tơi đã chọn “Tìm hiểu thực trạng bình đẳng giới trong
lãnh đạo và quản lý trên địa bàn huyện Lp tỉnh ST hiện nay”.


NỘI DUNG
1. Tổng quan về bình đẳng giới
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm giới
Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ
xã hội.
Khái niệm giới tính
Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ.
Khái niệm giới và giới tính giúp chúng ta phân biệt đặc điểm của phụ nữ và
nam giới để hiểu rõ thực chất và cơ chế hình thành các đặc điểm đó. Sự khác nhau
giữa “giới” và “giới tính” được thể hiện qua các nội dung sau:
Giới là khái niệm chỉ sự khác biệt giauwx nam và nữ về phương diện sinh
học, có sẵn từ khi sinh ra, đồng nhất và khơng biến đổi (trừ trường hợp có sự can
thiệp của y học).
Khác với giới tính, giới khơng mang tính bẩm sinh mà được hình thành
trong quá trình sống, học tập của con người từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành.
Khái niệm vai trò của giới
Vai trò giới là tập hợp những hoạt động và hành vi ứng xử mà nam giới và
phụ nữ học được và thể hiện trong thực tế, dựa trên mong đợi từ phía xã hội đối
với họ. Các vai trò giới là đa dạng (tùy thuộc vào vị trí và bối cảnh), thay đổi theo
thời gian (tương ứng với sự thay đổi của các điều kiện và hoàn cảnh) và thay đổi

theo sự thay đổi của quan niệm xã hội (tương ứng với việc chấp nhận hoặc khơng
chấp nhận một hành vi ứng xử vai trị nào đó).
Vai trị giới thường được xem xét ở ba lĩnh vực: sản xuất, tái sản xuất, cộng
đồng.
+ Vai trò sản xuất là các hoạt dộng làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc địch vụ
đé tiêu dùng và trao đổi thương mại.


+ Vai trò tái sản xuất là các hoạt động chăm sóc, ni dưỡng, dạy dồ... giúp
tái sản xuất dân số và sức lao động, bao gồm việc sinh con, các cơng việc chăm sóc
gia đình, ni dạy và chăm sóc trẻ em, nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc sức
khoẻ của các thành viên trong gia đình...
+ Vai trò cộng đồng bao gồm những hoạt động nhằm đảm bảo sự cung cấp
và bảo vệ các nguồn lực đáp ứng nhu cầu chung của cộng đồng như vệ sinh mơi
trường, nước sạch, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục...
Khái niệm bình đẳng giới (BĐG)
Bình đẳng giới là khái niệm nhằm phản ánh một sự chia sẻ bình đẳng về
quyền lợi giữa nam và nữ giới, trong sự tiếp cận bình đẳng của họ về giáo dục, sức
khoẻ, quản lý và lãnh đạo, bình đẳng về tiền lương, về số đại biểu quốc hội và về
những cái khác (Luật Bình đẳng giới, 2006). Bình đẳng giới khơng mang ý nghĩa
đơn giản là sự cân bằng về số lượng giữa phụ nữ và nam giới, hoặc trẻ em trai và
trẻ em gái trong mọi hoạt động của xã hội. Bình đẳng giới ở đây được hiểu là
những đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới cùng được thừa nhận
và coi trọng như nhau. Phụ nữ và nam giới cùng có cơ hội ngang nhau để thực hiện
các quyền cũng như cơ hội đóng góp và thụ hưởng vào quá trình phát triển của đất
nước. Điều này cũng khơng có nghĩa là phụ nữ và nam giới là hoàn toàn như nhau
hay giống hệt nhau, song những điểm tương đồng và khác biệt của họ được xã hội
thừa nhận và được coi trọng ngang nhau.
1.2. Khái niệm về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
Theo Luật Bình đẳng giới 2007 của Việt Nam thì bình đẳng giới “... là việc

nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy
năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển đó.”
Có nhiều cách hiểu khác nhau về lãnh đạo, quản lý, tuy nhiên trong bài này,
lãnh đạo và quản lý được hỉểu theo nghĩa là những vị trí lãnh đạo, những vị trí


quản lý chính thức hay chức vụ chính thức trong hệ thống chính trị ở Việt Nam.
Những vị trí chức vụ lãnh đạo, quản lý và hệ số phụ cấp lãnh đạo được quy định cụ
thể trong các văn bản cùa nhà nước. Theo hệ thống dọc thì hệ thống chức vụ có các
chức vụ lãnh đạo đạo trong Đảng, Nhà nước, và Mặt trận tổ quốc. Các chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong Nhà nước gồm các chức vụ lãnh đạo, quản lý ở Quốc hội,
Chính phủ, Tồ án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Theo cấp thì chúng ta có
các chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Như
vậy, hệ thống chức vụ lãnh đạo, quản lý tương đương với cơ cấu tổ chức của hệ
thống chính trị và hệ thống chính quyền trung ương và địa phương. Chức vụ lãnh
đạo, quản lý cao thì có hệ số và phụ cấp lành đạo càng cao từ 13.00 (đối với các
chức vụ Tổng Bí thư và Chủ tịch nước) cho đến 0.4 (đối với cấp phó phịng và
tương đương).
Chúng ta quan tâm đến BĐG trong các vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức
trong hệ thống chính trị vì hai lý đo cơ bản. Thứ nhất, theo cách tiếp cận lãnh đạo
là sự đại diện mô tả cho những người mà người lãnh đạo được bầu lên, người lãnh
đạo là người đại diện cho những người có chung những đặc điểm, những lợi ích,
nhu cầu và thay mặt họ nói lên nhu cầu, lợi ích, các mối quan tâm của họ trong q
trình chính sách cơng. Người lãnh đạo nữ được coi là người đại điện cho nữ giới vì
người lãnh đạo nữ mang nhiều đặc điểm về sinh học - xã hội, có những nhu cầu,
lợi ích, kinh nghiệm tương đối tương đồng với những người phụ nữ khác và sẽ
thay mặt những người phụ nữ trong xã hội nói lên tiếng nói, nhu cầu, lợi ích của nữ
giới trong q trình hoạch định chính sách cơng. Cách tiếp cận đại điện mô tả này
đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình thúc đẩy BĐG trong lĩnh

vực chính trị trên tồn thế giới. Thứ hai, hiện nay những hệ thống đánh giá công
tác thực hiện BĐG trên tồn thế giới trong lĩnh vực chính trị hàng năm vẫn lấy tỷ
lệ phần trăm nữ giới và nam giới giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức trong
hệ thống chính trị là tiêu chí đánh giá. Ví đụ, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World


Economic Forum) xuất bản hàng năm Báo cáo Khoảng cách giới Tồn cầu (Global
Gender Gap Report). Theo đó, các quốc gia trên thế giới được đánh giá về khoảng
cách giới trên bốn trục nội dung: kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế và chăm sóc sức
khoẻ. Khoảng cách giới càng cao chứng tỏ quốc gia đó có sự bất BĐG càng cao và
ngược lại, khoảng cách giới càng thấp cho thấy quốc gia đó có sự bất BĐG càng
thấp. Khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị được Báo cáo này đo lường thông
qua khoảng cách giữa nam nữ trong các vị trí ra quyết sách chính trị cao nhất thông
qua tỷ lệ nữ và nam giữ các chức vụ lãnh đạo cấp Bộ, tỷ lệ nữ và nam trong Quốc
hội và tỷ lệ nữ và nam theo số năm làm việc trong các văn phòng thủ tướng và văn
phòng chủ tịch nước trong 50 năm qua. Hạn chế của Báo cáo này là chưa đo được
tỷ lệ nam và nữ tham gia lãnh đạo ở cấp chính quyền địa phương. Do đó, để đo
mức độ bất BĐG trong lĩnh vực chính trị, việc có một hệ thống số liệu về tỷ lệ nam
và nữ giới nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức trong hệ thống chính trị
từ cấp trung ương đến cấp địa phương là yếu tố quan trọng.
Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đưa ra các chi tiêu về tỷ lệ cán bộ nữ
trong các cấp ủy Đảng, trong Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, tỷ lệ cán bộ
nữ chủ chốt trong các tổ chức của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
để đo tình hình thực hiện BĐG trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam.
Như vậy, BĐG trong lãnh đạo, quản lý trong chuyên đề này được giới hạn
trong việc xem xét BĐG trong các vị trí, chức vụ lãnh đạo, quản lý chính thức
trong hệ thống chính trị. Theo phạm vị này thì BĐG trong lãnh đạo. quản lý có
nghĩa là nam giới, nữ giới có vị trị vai trị ngang nhau trong công tác lãnh đạo,
quản lý, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình để được bổ
nhiệm vào những vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức trong hệ thống chính trị

ngang nhau và được thụ hưởng như nhau về thành quả của hoạt động lãnh đạo,
quản lý.


Phân biệt rõ BĐG hình thức và bình đẳng thực chất trong lãnh đạo, lý là rất
quan trọng. BĐG hình thức trong lãnh đạo, quản lý có nghĩa là nam giới và nữ giới
được đối xử như nhau trong toàn bộ quá trình cán bộ bởi vì cách tiếp cận này nhìn
nhận nam giới và nữ giới là giống nhau nên họ được đối xử như nhau trong công
tác cán bộ. BĐG hình thức trong lãnh đạo, quản lý khơng giải thích cho sự khác
biệt về đặc điểm và hồn cảnh của những người khác nhau (ở đây là nam giới và
nữ giới) và làm thế nào mà sự khác nhau này có thể ảnh hưởng đến cơ hội làm lãnh
đạo, quản lý của họ. Kết quả là, BĐG hình thức thường khơng tạo ra được kết quả
bình đẳng do những khác biệt đáng kể về đặc điểm và hoàn cảnh của phụ nữ, nam
giới, và người thuộc giới thứ ba trong quá trình cán bộ.
Bình đẳng thực chất được ủy ban CEDAW giải thích là bình đẳng trên thực
tế (bình đẳng trên thực tế hoặc bình đẳng thực chất) hay bình đẳng về kết quả. Tuy
nhiên, thực hiện bình đẳng thực chất là phụ nữ được tạo cơ hội bình đẳng, bình
đẳng trong tiếp cận các cơ hội và có mơi trường thuận lợi để đạt được các kết quả
bình đẳng. Như vậy, BĐG thực chất trong lãnh đạo, quản lý là phụ nữ được tạo cơ
hội bình đẳng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và có mơi trường thuận lợi để
đạt được các kết quả bình đẳng trong lãnh đạo, quản lý.
1.3. Cơ sở chính trị của việc thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo,
quản lý
Thúc đẩy sự tham gia lãnh đạo, quản lý của nữ giới trong hệ thống chính trị
ở Việt Nam phù hợp với đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện cam kết chính trị mạnh mẽ đối với cơng tác
thúc đẩy BBG trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua việc phê duyệt
nhiều công ước quốc tế liên quan đến BĐG, Cam kết chính trị của Đảng và Nhà
nước về BĐG trong lãnh đạo, quản lý cũng được thể hiện trong các văn bản pháp
luật cao nhất như Hiến pháp Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm

2013, Luật Bình đẳng giới 2006, Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân


dân các cấp năm 2013. Đảng ta đã ban hành nhiều vàn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện BĐG và công tác phụ nữ như Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của
Bộ Chinh trị về Công tác phụ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước. Gần đây nhất, Ban Bí thư ban hành thơng báo Kết luận số 196-TB/TW ngày
16.03.2015 về Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BĐG và
sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới.”
Thể chế hoá đường lối của Đảng và cụ thề hoá pháp luật của Nhà nước
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện BĐG,
trong đó có BĐG trong chính trị, trên tồn quốc như Quyết định số 2351/QĐ-TTg
ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược quốc gia về BĐG
giai đoạn 2011 - 2020, Quyết định số 1241/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Phê
duyệt Chương trình quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 - 2015 ngày 22/7/2011,
Quyết định số 1696/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt
Chương trình quốc gia về BĐG giai đoạn 2016 - 2020 ngày 02/10/2015, Quyết
định của Chính phủ số 70/NĐ-CP - một số hướng dẫn về thực hiện Luật BĐG
04/6/2008, Nghị quyết Chính phủ số 57/NQ-CP - Ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghiêu quyết 11-NQ/TW
ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước, Nghị định số 48/009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Thủ
tướng Chính phủ về ban hành các giải pháp đảm bảo BĐG có hiệu lực ngày
19/5/2009, Quyết định số 56/ 01l/QĐ-TTg ngày 14/10/2011 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Bộ chi tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia (14/10/2011),
Quyết định 178-QĐ/Ttg ngày 28/01/2016 Quyết định ban hành Kế hoạch triển
Thông báo kết luận số 196-TB/TW ngày 16 tháng 3 năm 2015 của Ban Bí thư về
Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BĐG và vì & tiến bộ
của phụ nữ trong tình hình mới.”
Cụ thể, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khẳng định



“Cơng dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hố,
xã hội và gia đình”.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/04/2007 của Bộ Chính trị về Công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nêu rõ quan điểm
của Đảng ta về công tác phụ nữ: “Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng
cao địa vị phụ nữ, thực hiện BĐG trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ mới.” Đảng ta tiếp tục khẳng định “Xây dựng, phát triển vững chắc
đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan,
là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng.” Đảng luôn coi
“Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cà hệ thống chính trị, của tồn xã hội và từng
gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy Đảng, trách nhiệm trực tiếp và
chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt
là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.”
Nghi quyết số 11 của Đảng đã đặt ra những chỉ tiêu cụ thể về BĐG trong
lĩnh vực chính trị “Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các
cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35%
đến 40%, Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh
đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước,
Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu BĐG.” Nghị quyết lưu ý “Cần bảo
đảm tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị, quản lý
hành chính nhà nước từ 30% trở lên.”
Luật Bình đẳng giới khẳng định các quy định về BĐG trong lĩnh vực lãnh
đạo, quản lý tại Điều 11 nhu sau:
Nam nữ bình đảng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu
QH, đại biểu HĐND, tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo



của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị; hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
Nam nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chun mơn, độ tuổi khi được đề bạt bổ
nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
Thúc đẩy BĐG trong lãnh đạo, quản lý phù hợp với mục tiêu đầu tiên của
Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 - 2020 là “Tăng cường sự tham gia
của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách
giới trong lĩnh vực chính trị.” Chiến lược đã cụ thể hoá mục tiêu này thành các chỉ
tiêu cụ thể sau:
- Chi tiêu 1 : Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016
- 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồug nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%.
- Chi tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95%
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp có lãnh
đạo chủ chốt là nữ.
- Chi tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 có
100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội có lãnh đạo chủ chốt
là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức - viên chức,
người lao động.
Gần đây nhất, Thông báo 196 ngày 13/06/2015 của Ban Bí thư tiếp tục
khẳng định “Cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đồn thề nhân dân phải
xác định cơng tác BĐG và vì sự tiến bộ của phụ nữ là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài
và thường xuyên ở từng cấp, từng ngành. Tăng cường truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực BĐG cho cán bộ, đảng viên, các tầng
lớp nhân dân. Lên án và đề ra biện pháp khắc phục tư tưởng coi thường phụ nữ,
các hành vi phân biệt đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật



của Nhà nước liên quan đến phụ nữ và BĐG.”
Như vậy, cơng tác BĐG nói chung và cơng tác BĐG trong lĩnh vực chính trị
là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài của cả hệ thống chính trị Việt Nam. Trong hệ thống
chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí Minh có một vai trị to lớn trong cơng tác đào
tạo và nâng cao nhận thức về BĐG trong lĩnh vực chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý của cả hệ thống chính trị, từ đó tạo ra những hiệu ứng lan toả, nâng
cao nhận thức về BĐG và các giải pháp thực hiện BĐG trong lĩnh vực chính trị cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung cấp vào cao cấp của hệ thống chính trị Việt Nam.
Khi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong toàn bộ hệ thống chính trị Việt Nam
được nâng cao nhận thức về BĐG và BĐG trong lĩnh vực chính trị thì quá hoạch
định, thực thi, đánh giá và giám sát chính sách cơng sẽ có trách nhiệm giới.
1.4. Tầm quan trọng của việc thúc đẩy sự tham gia lãnh đạo, quản lý của
nữ giới
Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có nên coi vấn đề tăng số lượng phụ nữ vào
các vị trí lãnh đạo, quản lý là quantrọng khơng? cần làm như vậy cho “phải phép”
hay liệu việc nhiều phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị thực
sự mang lại lợi ích cho quá trình phát triển của đất nước? Thúc đẩy sự tham gia
lãnh đạo, quản lý của nữ giới trong hệ thống chính trị có tầm quan trọng to lớn bởi
vì một sổ lý do căn bản sau đây:
Thứ nhất, sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ có vai trị quan trọng vì
thúc đẩy BĐG trong lãnh đạo và quản lý là vấn đề của quyền bình đẳng và cơng
bằng về sự đại diện chính trị. Lãnh đạo cịn là sự đại diện cho lợi ích và tiếng nói
của mọi giai cấp, tầng lớp, và giới tính. Do phụ nữ chiếm 50% , dân số nên đại
diện của phụ nữ trong lãnh đạo cần phản ánh tỷ lệ tương đồng là vấn đề của quyền
đại diện.
Thứ hai, thúc đẩy nữ giới tham gia lãnh đạo, quản lý trong khu vực hành
chính cơng đảm bảo luật pháp, chính sách cơng có chất lượng tốt hơn, đảm bảo


được nhu cầu, và lợi ích của nữ giới. Nữ giới và nam giới có những nhu cầu, lợi

ích, sự trải nghiệm cuộc sống và cách nhìn nhận vấn đề khác nhau khi ra quyết
định khác nhau. Do đó, các nhu cầu, lợi ích và sự trải nghiệm cuộc sống khác nhau
này cần được phản ánh đầy đủ trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách
thơng qua các đại diện lãnh đạo của từng giới. Nhờ đó chính sách trở nên toàn diện
hơn, phù hợp hơn đặc biệt là với những chính sách có ảnh hưởng tới phụ nữ, nhờ
đó, chính sách có chất lượng tốt hơn.
Thứ ba, sự tham gia lãnh đạo, quản lý nhiều hơn của phụ nữ lĩnh vực chính
trị và hành chính cơng có đóng góp cho sự phát triển bền vững của các quốc gia vì
nữ lãnh đạo trong khu vực cơng có xu hướng ủng hộ các chính sách về giáo dục, y
tế, mơi trường hơn và đây là những chính sách quan ảnh hưởng đến sự phát triển
bền vững của một quốc gia. Có một mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa BĐG và sự trao
quyền cho phụ nữ với sự cơng bằng, bền vững, nghèo đói và suy thối mơi trường.
Thứ tư, thúc đẩy phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức
là sự huy động và sử đụng nguồn nhân lực chất lượng cao làm lãnh đạo hiệu quả.
Một quốc gia muốn phát triển thành cơng cần phải có lãnh đạo giỏi. Lãnh đạo cần
được lựa chọn từ tất cả các người tài trong nước - cả nam và nữ. Khoảng một nửa
dân số Việt Nam là nữ, vì vậy nếu chỉ giới hạn dành các vị trí lãnh đạo cho nam
giới thì Việt Nam đang hạn chế nguồn lãnh đạo tiềm năng của chính mình. Mở
rộng cơ hội cho phụ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo sẽ tăng cường được năng lực
lãnh đạo phục vụ sự phát triển của đất nước.
Thứ năm, nữ giới tham gia lãnh đạo, quản lý góp phần truyền cảm hứng, xây
dựng hình mẫu (role model) nữ lãnh đạo cho các phụ nữ trẻ và trẻ em gái trong xã
hội. Sự tham gia lãnh đạo, quản lý của nữ giới cịn có ý nghĩa về biểu tượng vì việc
này có ý nghĩa truyền khát vọng, hy vọng và sự tự tin cho nhiều phụ nữ và trẻ em
gái vươn lên trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý trong tương lai.


Thứ sáu, nữ giới tham gia lãnh đạo, quản lý góp phần từng bước xố bỏ định
kiến giới về vai trị giới trong gia đình và ngồi xã hội, dần dần xố bỏ định kiến
về nữ giới chỉ làm cơng việc gia đình, nội trợ và phục vụ. Nhiều phụ nữ tham gia

lãnh đạo, quản lý trên thực tế góp phần xây dựng nhận thức về vị trí và vai trị của
phụ nữ ngồi xã hội với tư cách là những nhà lãnh đạo, quản lý. Nhờ vậy, việc thúc
đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong xã hội thực chất góp phần nâng cao
nhận thức về BĐG trong xã hội, cộng đồng và trong gia đình.
Thứ bảy, thúc đẩy BĐG trong lãnh đạo, quản lý góp phần thực hiện tốt hơn
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BĐG và công tác cán bộ
nữ trong tình hình mới.
2. Thực trạng về bình đẳng giới trong lãnh đạo quản lý ở huyện Lp tỉnh
ST hiện nay
2.1. Đặc điểm tình hình
Lp là huyện thuần nơng của tỉnh ST. Tổng diện tích tự nhiên là: 26.372,14ha;
trong đó, đất nơng nghiệp là 21.397,43 ha, chiếm 82,19% diện tích. Huyện có 09 xã,
02 thị trấn với 61 ấp, có 04 tuyến đường chính vào địa phận huyện như: Quốc lộ 60,
tỉnh lộ 933, huyện lộ 27, đặc biệt là có tuyến Quốc lộ Nam Sơng Hậu đi qua 03 xã và
02 thị trấn. Dân số 113,701 người, gồm 28.143 hộ.
Trong những năm qua tình hình kinh tế của huyện nhà có chiều phát triển
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ...tạo thêm bước chuyển biến
tích cực mới. Tình hình cơng tác phụ nữ, bình đẳng giới thời gian qua được các cấp
Ủy Đảng, chính quyền địa phương ln quan tâm, xem đây là nhiệm vụ quan trọng
trong nhiệm vụ phát triển mọi mặt trên địa bàn huyện. Nhờ vậy, đời sống vật chất
và tinh thần của phụ nữ ngày càng cao, vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội
từng bước được khẳng định, đã tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia công
việc xã hội ngày càng nhiều, bình đẳng trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện cịn chậm so với u cầu, từ đó còn hạn chế về chất lượng nguồn nhân


lực nữ, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, Hội Đồng nhân dân ở một số cơ sở còn thấp, tình
trạng bạo lực gia đình vẫn cịn xảy ra ở một số nơi vùng sâu, vùng xa. Việc lồng ghép
giới vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của địa phương rất ít ....đã ảnh
hưởng đến việc thực hiện mục tiêu của Nghị quyết đề ra.

2.2. Thực trạng về bình đẳng giới trong lãnh đạo quản lý trên địa bàn
huyện Lp
Sau khi Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 274 -2007 và Chương trình hành động số 19- CTr/TU ngày 6-10-2008 của Tỉnh Ủy
về thực hiện Nghị quyết số 11- NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Huyện ủy Lp đã tổ chức quán triệt, phổ
biến, triển khai sâu rộng trong các cấp ủy cơ sở Đảng, cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ
huyện đến cơ sở; đồng thời chỉ đạo chính quyền, Mặt trận, đồn thể, ban ngành các
cấp của huyện tổ chức quán triệt, phổ biến đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội
viên và các tầng lớp nhân dân; xây dựng và ban hành Chương trình hành động số
….CTr/HU ngày ….. về thực hiện Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27- 4 -2007 của
Bộ Chính trị (khóa X); phân cơng các đồng chí trong Ban Thường vụ, Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện trực tiếp theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện
Nghị quyết; đồng thời chỉ đạo Ban Dân vận Huyện ủy phối hợp Hội LHPN huyện
tổ chức kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc triển khai thực hiện và sơ kết Nghị quyết
số 11- NQ/TW của Bộ Chính trị về “Cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ở cơ sở. Cụ thể:
Huyện ủy luôn quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí,
sắp xếp, đề bạt đối với cán bộ nữ. Tỉ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý từng
bước được nâng lên. 10 năm qua, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
nhận thức chính trị, chuyên môn nhất là cán bộ vùng Dân tộc, cán bộ trẻ. Từ đó tỷ
lệ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ huyện; Hội đồng nhân dân các cấp; số cán
bộ nữ giữ vị trí lãnh đạo các ban ngành, đồn thể, xã, thị trấn có sự tăng lên sau


mỗi nhiệm kỳ. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ nữ
được cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đồn thể, các cơ quan, đơn
vị đặc biệt quan tâm. Qua đó, vai trị, vị trí của phụ nữ trong gia đình và ngồi xã
hội được nâng lên. Đội ngũ cán bộ nữ chiếm tỷ lệ tương đối đơng và đóng góp một
phần quan trọng trong hoạt động của hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở.
10 năm qua, các cấp ủy Đảng đã đưa cán bộ nữ đi đào tạo cao cấp Chính trị

6 chị, trung cấp Chính trị …. đồng chí; đại học chun mơn 35 đồng chí. Tỉ lệ cán
bộ nữ tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Hội đồng nhân dân các cấp, tham
gia các cơ quan dân cử, cơ quan hành chính Nhà nước tăng so với các nhiệm kỳ
trước và đã đóng góp tích cực vào việc lãnh đạo, quản lý các cơ quan, ban, ngành,
địa phương. Đến nay, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy huyện đạt 19,51%; cấp xã, Thị trấn
đạt 22,15%. Tỷ lệ nữ là đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện là 30,30%; cấp xã,
Thị trấn 24,64%%.
Hàng năm công tác giới thiệu cán bộ nữ cho Đảng, xem xét đều đạt và
vượt chỉ tiêu, kết quả đã giới thiệu cho đảng 520 CB nữ, qua đó đã kết nạp được
350 cán bộ nữ. Tính đến nay đã có 22/22 CT và PCT Hội Liên hiệp phụ nữ xã, Thị
trấn là Đảng viên, có 57/61 chi hội trưởng phụ nữ là đảng viên và 12 chị là Chi hội
phó là đảng viên. Nâng tổng số đến nay toàn huyện có 712 nữ/2.764 đảng viên ,
chiếm tỷ lệ 25,75%.
Trình độ học vấn của cán bộ Hội chủ chốt các xã, TT đạt chuẩn quy định
tính đến nay có có 21/22 Chủ tịch và PCT PN xã đạt chuẩn chức danh CB. 100%
cán bộ Hội chủ chốt các xã, TT đều được tập huấn, bồi dưỡng và nắm vững chuyên
môn nghiệp vụ.
Chất lượng hoạt động của tổ chức ngày càng được nâng lên; có 100% cơ sở
Hội xây dựng được hội viên nồng cốt; số cơ sở hội được xếp loại vững mạnh hàng
năm đạt từ 90 - 100%, cấp huyện giữ vững đơn vị vững mạnh 10 năm liền.
2.3. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm


Ưu điểm
Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/Trung ương, ngày 24 tháng 7
năm 2007 của Bộ chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước” đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành
động trong cả hệ thống chính trị, xã hội, gia đình và bản thân người phụ nữ về vai
trị, vị trí của phụ nữ và công tác phụ nữ trong thời kỳ mới; cơng tác đào tạo, quy
hoạch, bố trí và sử dụng cán bộ nữ nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ người dân tộc được

quan tâm; đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, đơn vị có nhiều
triển vọng.
Bên cạnh đó, các cấp chính quyền ln quan tâm thực hiện xây dựng nhiều
chương trình hành động đạt hiệu quả, trong đó xác định những vấn đề cấp bách
trong công tác phụ nữ hiện nay là “Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trên các
lĩnh vực: lao động - việc làm; giáo dục đào tạo, xố đói giảm nghèo; chăm sóc sức
khoẻ, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập”. Đồng thời,
không ngừng quan tâm, củng cố, kiện toàn tổ chức Hội phụ nữ cơ sở, tạo điều kiện
cho Hội hoàn thành niệm vụ và phát huy tốt vai trị của mình, khơng ngừng đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả công tác Hội.
Hạn chế
Một số cấp uỷ đảng, chính quyền, các cơ quan, cán bộ đảng viên chưa nhận
thức sâu sắc về bình đẳng giới và cơng tác phụ nữ. Việc thực hiện Nghị quyết của
Bộ chính trị và Chương trình hành động của Huyện uỷ từng lúc, từng nơi chưa
được thường xuyên, liên tục. Bản thân cán bộ nữ chưa phát huy hết vị trí, vai trị
trong cơng tác, cịn mang tính thụ động; nhận thức về giới cịn hạn chế.
Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý, các cơ quan có tăng lên nhưng vẫn cịn
thấp; nhất là ở cơ sở, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng
lao động nữ trong các ngành.


Trình độ dân trí một bộ phận phụ nữ cịn thấp, chưa đồng đều, nhất là khu
vực nông thôn, vùng dân tộc. Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ nữ ở cơ sở cịn
hạn chế, nên cơng tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt, bổ nhiệm vào các
chức danh lãnh đạo, quản lý còn gặp nhiều khó khăn.
Vai trị của Hội LHPN nữ cơ sở một số nơi chưa thể hiện rõ nét, còn lúng
túng, thụ động trong việc tham mưu cho cấp uỷ về nhiệm công tác Hội và phong
trào phụ nữ đối với Hội hoạt động cịn chưa cụ thể hóa chỉ tiêu kế hoạch phù hợp
với địa bàn, chưa làm tham mưu, và đề xuất kịp thời với các cấp ủy Đảng về những
cơng việc trọng tâm của Hội. Cịn thiếu tính chủ động và sáng tạo trong việc xây

dựng và nhân rộng các mơ hình mới để thu hút hội viên. Công tác phát triển đảng
viên nữ ở một số địa phương còn hạn chế, nhất là cán bộ chi hội ấp. Năng lực, trình
độ của một phận cán bộ Hội cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Công tác chăm
lo đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên phụ nữ chưa được thường xuyên; tình
trạng thiếu việc làm tại địa phương nên phải đi làm xa trong cán bộ, hội viên còn
nhiều.
Bài học kinh nghiệm
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự quan tâm tạo điều kiện
của chính quyền, sự phối hợp giữa các ban ngành; đồng thời, nâng cao nhận thức
của cả hệ thống chính trị về vị trí, vai trị của phụ nữ và công tác phụ nữ trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
- Các cấp Hội LHPN và Ban “Vì sự tiến bộ phụ nữ” phải thật sự phát huy
vai trị, vị trí, chủ động thực hiện công tác tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền về
cơng tác phụ nữ thời kỳ mới.
- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động Hội, hướng các hoạt động Hội
về cơ sở; chủ động phát huy vai trị tham mưu, đề xuất với cấp uỷ đảng, chính
quyền về công tác Hội, về các chủ trương, giải pháp liên quan đến phụ nữ.
2.4. Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo và quản lý ở


huyện Lp hiện nay
Một là, nâng cao nhận thức về giới, cũng như quyền của phụ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý.
Đối tượng cần chú trọng nâng cao nhận thức về giới và quyền của phụ nữ là
cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội. Kết quả cần
đạt ở đây không chỉ là nâng cao nhận thức giới, mà còn là tạo trách nhiệm của lãnh
đạo đối với việc tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Để có một đội ngũ
cán bộ nữ ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ, trước hết các tổ chức Đảng, chính
quyền, đồn thể cần nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị của cán bộ và công tác cán
bộ trong điều kiện bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)

đất nước; phải xác định rõ công tác cán bộ là trách nhiệm của cấp ủy, người đứng
đầu cơ quan, đơn vị.
Hai là, hồn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích phụ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý, chú trọng phát hiện nguồn, tạo điều kiện để cán bộ nữ tiềm năng được
đào tạo, bồi dưỡng đủ năng lực và trình độ tham gia lãnh đạo, quản lý.
Vấn đề tạo nguồn và quy hoạch cán bộ nữ cần được quan tâm một cách thực
chất và đi vào chiều sâu. Rất khó có một đội ngũ cán bộ nữ tốt nếu phụ nữ không
được đưa vào danh sách quy hoạch và đào tạo. Điều này đòi hỏi những nỗ lực rất
lớn từ các cấp Đảng. Thực tế hiện nay ở các địa phương cịn thiếu nguồn cán bộ nữ
có năng lực, trình độ để có thể đảm nhiệm tốt được công việc được giao (đặc biệt ở
cấp huyện và xã). Nguồn cán bộ nữ sẽ tăng nếu cấp ủy các cấp có kế hoạch phát
hiện và bồi dưỡng; năng lực có thể được nâng cao nhờ vào việc thúc đẩy mơi
trường bên ngồi theo hướng thuận lợi cho phụ nữ và nâng cao năng lực cho họ
thông qua kế hoạch bồi dưỡng và quy hoạch. Cần có cách giải quyết mang tính chủ
động hơn là nhìn nhận những hạn chế của phụ nữ như rào cản “mang tính truyền
thống”.
Bên cạnh việc xây dựng kế hoạch, chiến lược cho công tác cán bộ nói chung,


cần thiết phải có kế hoạch đào tạo cán bộ nữ.
Các cấp ủy đảng, đoàn thể cần quan tâm phát hiện, giới thiệu những cán bộ
nữ xuất sắc vào Đảng, thực hiện nghiêm túc chính sách cử tuyển. Về quy hoạch
cán bộ nữ cần quán triệt sâu sắc quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo của Đảng về quy
hoạch cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Đối với những địa phương mà
nguồn cán bộ nữ còn thiếu và yếu về năng lực, thì việc xây dựng riêng một kế
hoạch về công tác cán bộ nữ là việc làm thiết thực để tạo nguồn cán bộ nữ. Bên
cạnh đó, cần xem xét và điều chỉnh các quy định về tiêu chuẩn sao cho mềm dẻo,
linh hoạt và phù hợp hơn với điều kiện đặc thù của cán bộ nữ. Ngoài việc đưa ra
quy định chỉ tiêu cụ thể về số lượng và tỷ lệ phụ nữ tham chính, cần quy định rõ cơ
chế báo cáo để giám sát việc địa phương có hồn thành chỉ tiêu hay khơng. nếu

khơng thì nguyên nhân vì sao, và kế hoạch cần thực hiện đạt nhằm chỉ tiêu. Đồng
thời, cần có chính sách đãi ngộ cho phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý, nhất là đối
với cán bộ nữ cấp cơ sở.
Ba là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ
nữ, đặc biệt đổi với cán bộ nữ cấp cơ sở.
Rà soát, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ nữ làm cơ sở cho quy
hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ. Đánh giá đội ngũ
cán bộ nữ phải tiến hành một cách cụ thể, tỷ mỉ, tránh cách làm đại khái. Đó là
xem xét cán bộ theo cấp, từng vùng, từng lĩnh vực công tác, từng dân tộc. Tiến
hành đánh giá cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu và tiêu chuẩn, tài năng và đạo
đức. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Đổi mới căn bản nội dung, chương
trình, phương pháp dạy và học phù hợp với đối tượng đào tạo là cán bộ nữ. Đa
dạng hóa các loại hình đào tạo phù hợp với đặc điểm đối tượng. Đồng thời thực
hiện tốt chính sách khuyến khích, hỗ trợ đào tạo theo quy định của Trung ương và
của địa phương để kịp thời động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ tham
gia các lớp đào tạo bồi dưỡng. Cần bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ nữ một cách hợp


lý; xác định ngành, lĩnh vực phù hợp, phát huy thế mạnh của cán bộ nữ và những
chức danh lãnh đạo, quản lý cần có cán bộ nữ. Đối với những cán bộ nữ xuất sắc
thì có thể đề bạt vượt cấp. Phát huy vai trò của người đứng đầu trong việc định
hướng công tác cán bộ nữ. Việc tạo dựng lòng tự tin cho cán bộ nữ là điều hết sức
cần thiết. Điều này có thể đạt được nhờ vào vai trị của các nữ cán bộ có kinh
nghiệm. Các cán bộ nữ có kinh nghiệm khơng chỉ giúp cán bộ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý lần đầu có được những kỹ năng mà cịn là nguồn động viên, ủng hộ về
mặt tinh thần hết sức quan trọng.
KẾT LUẬN
Bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, cơng chức có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng nhằm phát huy vai trị của mỗi giới trong nền cơng vụ. Để hồn thiện hệ
thống thể chế, chính sách về bình đẳng giới, hiện trạng về bình đẳng giới cần được

được đánh giá bằng hệ thống tiêu chí và chỉ số phù hợp. Hệ thống tiêu chí và chỉ số
này cần được tiếp tục cụ thể hóa thành các cơng cụ đánh giá cụ thể áp dụng vào các
cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương, theo khu vực (đô thị và
nông thôn), theo ngành, lĩnh vực để từ đó có một bức tranh tổng thể về bình đẳng
giới của nền công vụ. Nền công vụ là điểm hội tụ, là biểu hiện tập trung nhất
những ưu việt của chế độ, vì vậy, bảo đảm bình đẳng giới trong quản cán bộ, cơng
chức khơng chỉ là bảo đảm tính hình mẫu của nền cơng vụ mà bình đẳng giới, sự
hợp lý về cơ cấu giới trong đội ngũ cán bộ, cơng chức cịn là động lực, là yếu tố
bảo hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ khi vai trò, trách nhiệm, năng lực của mỗi
giới được đánh giá đúng và tạo điều kiện phát huy trong quá trình thực thi công
vụ./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nam Giao, “Một vài suy nghĩ về bình đẳng giới”, www.

2. Lương Thu Hiền, Châu Mỹ Linh, (2014), “Sự tham gia lãnh đạo và quản
lý của phụ nữ Việt Nam: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Dân tộc và thời đại, số
166 và 167, tháng 5-6, trang 30-38.
3. TS. Hồng Mai, “Bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, cơng chức”, Tạp
chí Cộng sản, ngày 19/4/2017.
4. Ths. Nguyễn Khánh Linh, “Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay - thành
tựu và những thách thức”, .
5. Trương Văn Phúc, “Bình đẳng giới là mục tiêu lớn của Đảng và Nhà
nước ta”, .
6. Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Bình
đẳng giới, số 73/2006/QH11, ngày 29/11/2006 (Điều 5).
7. Lê Thị Quý, Phụ nữ trong đổi mới : Thành tựu và những thách thức, Tạp
chí Khoa học về Phụ nữ số 1/2006.



8. UBND huyện Lp, Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết 11NQ/T W, ngày 27/4/2007 của Bộ chính trị về cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
CNH- HĐH đất nước, năm 2017.
9. www. Luanvan.net.



×