Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận môm Triết học Vấn đề triết học về con người và xây dựng con người mới trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.92 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con người
phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý
thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học cơng
nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, hiện nay con người và nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan
trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế.
Đó là nhõn tố hết sức quan trọng, chúng ta khẳng định “con người vừa là mục tiêu vừa
là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội; đồng thời phải là những con người có tri
thức và đạo đức”. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo
ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã
hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải thực hiện chiến lược giáo dục đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, phát triển con người một cách tồn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ
của giáo dục đào tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn
hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi
mới của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới. Bài thu
hoạch này đề cập đến: “Vấn đề triết học về con người và xây dựng con người mới
trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay”


NỘI DUNG
Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi: Con người
là gì? Con người sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?
Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của tư duy triết học nhằm đạt tới sự
hiểu biết về con người "cụ thể" hiện thực đều không đem lại kết quả, rốt cuộc là chủ
nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người và về đời sống xã hội.
Chỉ đến triết học Mác, vấn đề con người mới được xem xét một cách nhất quán,
đầy đủ và sâu sắc hơn, trên cơ sở lập trường của duy vật triệt để.
1- Con người trong triết học Mác-Lênin
1.1- Bản chất con người


Bất cứ một học thuyết nào về con người đều không thể lẩn tránh một vấn đề đã
được đặt ra trong lịch sử; Con người là gì? Bản chất của con người là gì? Quan điểm
duy tâm quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, hoặc xem bản chất con người là cái gì đó được quy định sẵn từ những lực lượng
siêu tự nhiên.
Một số trào lưu triết học khác lại giải thích bản chất con người từ gốc độ những
điểm chung của mọi sinh vật trên trái đất. Bản chất đó là bản tính tự nhiên, là những nhu
cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển giống nòi; hoặc tìm kiếm bản
chất con người trong khn khổ cá nhân riêng lẻ, nghĩa là con người bị tách khỏi mối
quan hệ xã hội hiện thực của nó. Tính chất siêu hình của các quan điểm này về bản chất
của con người biểu hiện ở chỗ, con bản chất là cái vốn có trừu tượng và quy nó về bản
tính tự nhiên, tách khỏi xã hội và trở nên bất biến.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người. Các ông
xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải tạo thế giới và
thông qua hoạt động vật chất con người. Đó là một động vật có tính xã hội với tất cả
những nội dung văn hoá - lịch sử của nó. Như vậy, các ơng khơng xem xét bản chất con
người một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội
và con người. Con người sống dựa vào tự nhiên như hết thẩy mọi sinh vật khác. Nhưng
con người sở dĩ trở thành con người chính là ở chỗ nó khụng chỉ sống dựa vào tự nhiên,
Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành người là


nhờ có lao động. Q trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con người trở
thành con người. Ph.Ăngghen nói "lao động sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy".
Khác với tự nhiên, xã hội khơng thể có trước con người mà ra đời cùng với con
người, xã hội cũng khơng phải là cái gì trừu tượng, bất biến mà mỗi hình thái kinh tế xã hội chỉ thích hợp với mỗi phương thức sản xuất nhất định. Nhân tố quyết định
phương thức sản xuất phát triển lại là lực lượng sản xuất, bao gồm con người và công cụ
lao động. Như thế, không phải cái gì khác mà chính là con người, cùng với những công
cụ do họ chế tạo ra, đã quyết định sự thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy xã hội đã sản xuất ra

con người với tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội
như thế.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những cá thể cô
lập C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: "Bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội". Luận điểm trên thể hiện những
điểm cơ bản sau:
- Khi nói bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là
tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người, nhưng có ý nghĩa
quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc gián
tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan
hệ sản xuất nhất định giữ vai trị chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét
đến cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
- Các quan hệ xã hội khơng phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã hội riêng
biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại
riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại) vừa theo chiều dọc
(lịch sử). Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm cả quan hệ xã hội
hiện tại phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó. và quan hệ xã hội truyền thống,
bởi trong lịch sử của mình con người bắt buộc
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong chỉnh thể
cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con người có khác biệt.
Khơng hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả những gì của con người để chỉ
vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con người cụ thể là tổng hồ các quan hệ xã hội
"vốn có" của con người đó và quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của


người đó. Cịn tất cả những hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngồi là những hiện
tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo
con đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn
giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt

và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức giữa di truyền tự nhiên và văn
hố xã hội. Trong diễn biến đầy mâu thaũan đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng
chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng đó.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không
phải là tự nhiên mà là lịch sử, khơng phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là
tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản
chất con người.
Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người với tư cách
là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con
người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với tự nhiên. Sự tác
động qua lại giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất người.
1.2- Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một chỉnh thể
đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác biệt với những
cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ.
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt
động trong những nhóm cộng đồng, tập đồn xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử quy
định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân
biểu hiện ra với tư cách sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống lồi "người". Khơng có con người nói
chung, lồi người nói chung tồn tại cảm tính.
- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một
chỉnh thể tồn vẹn có nhân cách.
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng xã hội
thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi thời kỳ
lịch sử có một "kiểu xã hội của cá nhân" mang tính định hướng về thế giới quan,
phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.


Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với giống loài,

sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác thì nhân cách là
khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong riêng biệt với tồn bộ hoạt động
sống của nó, của cá nhân này với cá nhân khác. Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính
chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của "cái tơi" do tác
động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân "dấn
thân" vào cuọc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hố của xã hội vào bên trong
mình, thực hiện quá trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng của mình.
Đâylà quá trình kép, xã hội hoá cá nhân và cá nhân hoá xã hội, cá nhân xã họi và cá
nhân nhân cách là thống nhất. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng ý thức về
mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui và trách nhiệm
hoạt động cụ thể trong xã hội.
Vấn đề cá nhân, nhân cách không giải quyết một cách khoa học nếu khơng có
phương hướng triết học rõ ràng giải quyết mối quan hệ cá nhân và xã hội. Mối quan hệ
này được giải quyết liên tiếp thông qua tập thể cơ sở. Nó tạo thành một bộ phận hết sức
quan trọng của một cơ thể xã hội hoàn chỉnh. Cá nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể
như là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện bản sắc của mình thơng qua hoạt động tập thể,
nhưng khơng "hồ tan" vào tập thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mẫu thuẫn
cá nhân và tập thể. Tuỳ theo tính chất và khả năng giải quyết những mâu thuẫn đó mà
mối quan hệ này có thể duy trì phát triển hoặc tan rã.
Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động nhau, trong
đó xã hội giữ vai trị quyết định. Nền tảng của quan hệ này là quan hệ lợi ích. Thực chất
của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho khách thác được
cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào các quá trình kinh tế, xã hội và thúc đẩy quá
trình phát triển lên trình độ cao hơn. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức
để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là
chủ thể của sự phát triển xã hội, của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với
tư cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng rẽ mà với tư cách là
một bộ phận của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân là cộng
đồng lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ thể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình
thành phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá nhân và xã hội mang hình

thức đặc thù tuỳ thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau.


Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh để giành tự do ngày càng
cao. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, tự do của người này được thực hiện bằng
cách tước đoạt tự do của người khác. Tự do cá nhân của giai cấp thống trị được đảm bảo
bằng cách tước đoạt tự do của giai cấp bị trị. Cho nên, quá trình đấu tranh của giai cấp
và quần chúng lao động là quá trình giành tự do của họ đã bị giai cấp thống trị cướp
đoạt. Tự do của con người không tách rời những điều kiện xã hội, khơng tách rời trình
độ của con người chinh phục thiên nhiên. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản con người mới thực sự có tự do. Ở đây, tất cả những vấn đề về lực lượng sản xuất,
quan hệ kinh tế, hệ thống chính trị, đấu tranh giai cấp đều được thực hiện theo mục đích
phát triển tối đa năng lực con người và vì con người. Trước đây C.Mác và Ph. Ănghen
đã chỉ ra rằng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm phát triển những quan hệ phổ biến,
sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc, và "sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất
tinh thần cũng không kém như thế". Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang đẩy mạnh quá trình
này, nhưng về thực chất đó vẫn là sự mở rộng quan hệ bóc lột và nô dịch con người
sang các dân tộc khác. Nó tạo ra một số nước tư bản phát triển cao, giàu có, thì đồng
thời cũng làm cho châu Phi đói, châu Á nghèo, châu Mỹ Latinh nợ nần chồng chất.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện quá trình quốc tế hố đời sống nhân loại để mỗi dân
tộc có điều kiện tiếp cận nhanh chóng những giá trị tiến bộ của nhân loại, làm cho con
người phát triển nhân cách phong phú, biết đấu tranh chống những quan hệ không có
tính người trong cuộc sống nhân loại. Đó là đặc trưng của chủ nghĩa nhân đạo xã hội
chủ nghĩa trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
1.3- Cá nhân và quần chúng nhân dân trong lịch sử
Lịch sử chẳng qua là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của mình.
Nhưng lịch sử khơng diễn ra qua hoạt động của từng cá nhân cô lập, tách rời mà phải
thông qua hoạt động của quần chúng đông đảo theo những mục đích nhất định. Khái
niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử, nghĩa là ở các chế độ xã hội khác nhau thì
kết cấu quần chúng nhân dân cũng khác nhau và luôn luôn biến đổi theo sự phát triển

của phương thức sản xuất. Nói chung, quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những lực
lượng, giai cấp, những tập đoàn, những cá nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong
đó chủ yếu là quần chúng lao động.


Trước Mác, triết học duy tâm và duy vật đều hiểu khơng đúng đắn vai trị của
quần chúng nhân dân và mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch
sử.
Tư tưởng tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của đấng tối
cao, là do "mặt trời", ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Triết học duy tâm cho rằng
lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc.
Còn quần chúng nhân dân chỉ là "lực lượng tiêu cực", là "phương tiện" mà các vĩ nhân
cần đến để đạt mục đích của mình.
Các nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng đế, thần linh, nhưng lại cho
rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là đạo đức, tư tưởng, là các vĩ nhân sớm
nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân là lực
lượng quyết định sự phát triển của lịch sử vì những lý do sau:
- Tư tưởng tự nó khơng dẫn đến biến đổi xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị khi nó
dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động làm
phát triển xã hội chỉ có thể xảy ra qua hoạt động của quần chúng nhân dân. Sức mạnh
quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử đều do quần
chúng trực tiếp tạo ra. Nói quần chúng nhân dân quyết định lịch sử là nói tới sức mạnh
này.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Cách
mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng. Cuộc đấu tranh của
quần chúng nhân dân lao động là động lực phát triển của xã hội.
- Quần chúng nhân dân là người đóng vai trị to lớn trong sự phát triển văn hố,
nghệ thuật và khoa học. Trong lịch sử, do sự phân công lao động dẫn đến tạo ra một lớp
người chuyên về sáng tạo tinh thần tư tưởng, những hoạt động này của họ cũng chỉ diễn

ra được trên cơ sở đời sống tinh thần và sáng tạo của quần chúng. Quần chúng nhân dân
là người trực tiếp sáng tạo ra văn học nghệ thuật. Hoạt động thực tiễn của quần chúng là
cái gốc, là nguồn vô tận cho văn học nghệ thuật sáng tạo, đồng thời quần chúng nhân
dân còn là người thưởng thức, phê phán, kiểm nghiệm các giá trị đó. Trong lịch sử phát
triển của xã hội, khơng có văn học dân gian thì cũng khơng thể có văn học bác học,
khơng có kinh nghiệm của đa số người lao động thì cũng khơng có các khoa học. Đây là
hai mặt không thể tách rời của đời sống tinh thần trong xã hội.


- Hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân là cái nơi, là cơ sở cho sự hình
thành các nhân vật ưu tú của xã hội. Sức mạnh và tài năng của lãnh tụ cũng chỉ được
phát huy trong phong trào quần chúng, gắn bó mật thiết với quần chúng. Một nhân dân
anh hùng, một đại chúng cách mạng năng động sẽ là cơ sở để sản sinh ra những anh
hùng, những lãnh tụ tiêu biểu của mình.
Như vậy, xét tất cả các mặt trong đời sống xã họi từ kinh tế đến chính trị, từ thực
tiễn đến tinh thần tư tưởng, khi quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định lịch sử.
Song, theo quan niệm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong
lịch sử không tách rời nhau. Cá nhân lãnh tụ là những người có năng lực và phẩm chất
tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng, được quần chúng tin u. Vai trị to lớn của
họ trong q trình phát triển lịch sử được thể hiện ở những điểm sau:
- Lãnh tụ là người đúc kết trí tuệ, nhu cầu nguyện vọng của quần chúng để định
hướng cho hoạt động của quần chúng. Cá nhân ưu tú là con đẻ của quần chúng và chỉ có
những cá nhân như thế mới "sống mãi" với lịch sử.
- Lãnh tụ do có trình độ nhận thức cao, họ nhìn xa trơng rộng, thấy được xu
hướng tất yếu khách quan của lịch sử, từ đó, họ đưa ra những dự đốn khoa học thiên tài
và chủ động tổ chức quần chúng hoạt động thống nhất tiếp nhận và thực hiện xu hướng
lịch sử đó.
- Lãnh tụ là người giáo dục, thức tỉnh, tổ chức, tập hợp quần chúng đấu tranh,
hướng phong trào qua những khó khăn, đưa phát triển phát triển nhanh chóng. Và, quần
chúng chuyển hoạt động từ tự phát sang tự giác, từ kinh nghiệm sang khoa học, từ phân

tán sang có tổ chức thống nhất, từ nhu cầu hàng ngày sang biến đổi lịch sử phải qua mất
khâu trung gian là hoạt động khái quát tư tưởng và tổ chức lãnh đạo của các cá nhân
lãnh tụ, đại diện cho lợi ích quần chúng. Họ khơng phải là người đứng bên ngoài, hay
bên trên quần chúng mà là sản phẩm, là một nhân tố tự nhiên của phong trào quần
chúng, sống và phát triển phụ thuộc vào sự chấp nhận tín nhiệm của quần chúng.
Chủ nghĩa Mác LêNin đánh giá cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự phát triển
của lịch sử, đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng bái cá nhân là thần
thánh hoá cá nhân, lãnh đạo, đi đến chỗ chỉ thấy vai trò của cá nhân quyết định tất cả mà
khơng thấy, hoặc coi nhẹ vai trị của quần chúng. Đây là biểu hiện của quan niệm duy
tâm về lịch sử, hoàn toàn trái ngược với thế giới quan của giai cấp vô sản.


Trong xã hội có đối kháng giai cấp, quần chúng nhân dân là những bị trị, sống
phụ thuộc vào lợi ích và quyền lực của thiểu số giai cấp bóc lột và cầm quyền lực của
thiểu số giai cấp bóc lột và cầm quyền thống trị. Trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng
nhân dân là người làm chủ xã hội. Tất cả những cá nhân và bộ máy lãnh đạo, quản lý
đều là công cụ thực hiện quyền làm chủ của quần chúng nhân dân.
Những người cầm đầu của giai cấp bóc lột có tác dụng tiến bộ trong thời kỳ mà
vai trị lịch sử của giai cấp đó cịn phù hợp với tiến trình lịch sử.Nhưng khi giai cấp đó
trở thành phản động, những người cầm đàu của nó trở thành lực lượng cản trở, kìm
hãm sự phát triển của lịch sử. Nói một cách khác là, trong những thời kỳ lịch sử nhất
định có những cánhân đại diện cho các lực lượng tiến bộ và những cá nhân cầm đầu các
lực lượng xã hội phản động.
Công lao to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin và lãnh tụ vô sản vĩ đại khác
là ở chỗ, các ông đã chỉ cho giai cấp vô sản và quần chúng bị áp bức hiểu được nhiệm
vụ lịch sử của họ, sức mạnh vĩ đại của họ và con đường đi đến tự giải phóng khỏi mọi
ách áp bức bóc lột. Giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam vô cùng tự hào có vị lãnh
tụ là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Người đã kết tinh những phẩm chất tiêu biểu nhất của
một lãnh tụ vô sản. Thắng lợi của "cách mạng Việt Nam, ngót lửa thế kỷ nay mãi mãi
gắn liền với tên tuổi của chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta,

người khai sinh nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân
tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công
nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong
trào cộng sản quốc tế.
II- Vấn đề con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
2.1- Khái niệm nhân tố con người, chiến lược con người
Nhận thức đúng đắn về khái niệm nhân tố con người là sự phát triển sáng tạo
quan điểm Mác - Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo có ý thức, là chủ thể
của lịch sử. Trong thời gian gần đây, xuất hiện nhiều khái niệm: nhân tố con người,
nguồn nhân lực, nguồn lực con người, phát triển người… Khái niệm nhân tố con người
đã được nhiều tác giả trong và ngồi nước đề cập với những góc độ khác nhau, cách tiếp
cận khác nhau. Có tác giả đề cập dưới gốc độ quản lý, có tác giả đề cập dưới gốc độ
phân tích tâm lý - xã hội. Trong tài liệu triết học - xã hội về nhân tố con người cũng nổi
lên nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tựu trung lại, có hai cách tiếp cận chính:


- Thứ nhất, coi nhân tố con người như là hoạt động của những con người riêng
biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng như tiềm năng
trí lực và thể lực của mỗi người quyết định.
- Thứ hai, coi nhân tố con người như là một tổng hoà các phẩm chất thuộc tính,
đặc trưng, năng lực đa dạng của con người, biểu hiện trong các dạng thức hoạt động
khác nhau.
Như vậy, cái chung trong các quan niệm này là coi nhân tố con người về bản chất
là nhân tố xã hội, quy định vai trò chủ thể của con người. Nhưng sự khác nhau là quan
niệm thứ nhất lấy hoạt động làm đặc trưng cơ bản, còn phẩm chất, năng lực được thể
hiện trong hoạt động. Quan niệm thứ hai, lấy đặc trưng cơ bản là những phẩm chất
năng lực, còn hoạt động là sự thể hiện nó.
Từ đây, có thể đưa ra một quan niệm chung đầy đủ hơn về nhân tố con người là:
nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trị của chủ thể tích
cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với

tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình biến
đổi và phát triển xã hội nhất định.
Nhân tố con người là khái niệm không chỉ để phân biệt nhân tố "người" với các
yếu tố khác: kinh tế, chính trị, xã hội trong đời sống xã hội, mà quan trọng hơn là để
khẳng định vai trò của nhân tố "người" đối với các yếu tố đó. Tức là khơng có khái niệm
nhân tố con người tách khỏi hoạt động, dù đó là hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội.
Tịch cực hoá nhân tố con người là phát hiện, như bộc lộ, hình thành và sử dụng
tiềm năng sáng tạo của người lao động và phát huy nhân tố con người chính là chăm lo
tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi người, mỗi cộng đồng người thể hiện tối đa
năng lực của mình trong lao động, trong hoạt động sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát
triển kinh tế - xã hội vì hạnh phúc của mỗi con người. Đây cũng chính là q trình làm
cho mỗi con người trở thành chủ thể có ý thức trong sáng tạo lịch sử
Phát triển người tựu trung là gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh thần, giá
trị thể chất, vật chất. Con người ở đây được xem xét như một tài nguyên, một nguồn
lực. Vì thế, phát triển người hoặc phát triển nguồn lực con người trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu hết sức cần thiết trong hệ thống phát triển các loại nguồn lực như vật lực, tài
lực, nhân lực, trong đó phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò trung tâm. Lịch sử phát


triển nhân loại là lịch sử giải phóng từng bước con người cả vật chất và tinh thần. Và
không phải đến chủ nghĩa xã hội mới bàn đến chiến lược con người, khai thác yếu tố
người, vì trong lịch sử, không chế độ nào tồn tại lại không nhắc đến yếu tố người,
nhưng vấn đề là khai thác, phát huy theo lợi ích giai cấp nào và bằng phương thức nào.
Thực chất chiến lược con người là tạo ra môi trường xã hội kích thích con người hoạt
động sáng tạo và thoả mãn nhu cầu tối đa của con người trong những điều kiện lịch sử
cụ thể. Đó là mơi trường kinh tế xã hội, mơi trường chính trị xã hội, mơi trường văn hố
xã hội.
2.2- Quan điểm của Đảng ta về phát huy nhân tố con người
Xuất phỏt từ hiện thực khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ

khi đổi mới đến nay, Đảng ta ln đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi sự phát
triển và coi việc phát huy nhân tố con người là một trong những nhiệm vụ chiến lược.
Do đó, Đảng ta đó cú nhiều quan điểm, chủ trương đúng đắn về phát huy nhân tố con
người hướng ngày càng rừ nột và hoàn thiện hơn qua mỗi thời kỳ:
- Đại hội VII (năm 1991) trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xó hội”, Đảng ta khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở
bảo đảm công bằng, bỡnh đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xó hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp
ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cỏ nhõn với tập thể và cộng
đồng xó hội”.
- Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta khẳng định sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta là một quá trỡnh phỏt triển mang tớnh cỏch mạng sõu sắc trong tất cả
cỏc lĩnh vực của đời sống xó hội, nú khụng phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào
mang lại mà là sự nghiệp của quảng đại quần chúng với tư cách là nguồn lực quyết
định. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất
ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn
này: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam
là nhân tố quyết định thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
- Đại hội VIII, Đảng đó ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan
trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào
tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đó thể hiện


rừ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu rừ: “Lấy việc phỏt
huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phỏt triển nhanh và bền vững”. Mục
tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết tha gắn bú với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội.
- Đại hội X (2006), Đảng ta đó xỏc định cần phải tập trung đổi mới toàn diện giáo
dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất

lượng cao “Quản lý quỏ trỡnh phỏt triển dõn số và nguồn nhõn lực trong mối quan hệ
với phỏt triển kinh tế - xó hội; đổi mới phương thức đào tạo, phát triển nguồn nhân lực;
phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển
sản xuất, tập trung vào các sản phẩm cú giỏ trị kinh tế cao, xuất khẩu...”.
- Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, phỏt triển con người
với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất
nước; gắn vấn đề nhân tố con người với tinh thần nhân văn nhằm tạo điều kiện cho con
người phát triển tồn diện, sống trong một xó hội cụng bằng và nhõn ỏi với những quan
hệ xó hội lành mạnh. Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm
của chiến lược kinh tế - xó hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát
triển”5.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xó hội 2011-2015, Đảng ta xác định: tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao rừ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo
chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con
người.
- Đại hội XII (2016), Đảng ta khẳng định: “Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con
người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có
bước chuyển biến quan trọng: gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ
xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng mơi trường văn hóa với xây dựng con
người; bước đầu hỡnh thành những giỏ trị mới về con người với các phẩm chất về trách
nhiệm xó hội, ý thức cụng dõn, dõn chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên”. Đại
hội khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một
mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập


quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xó hội, nghĩa vụ cụng dõn, ý thức tuõn thủ
phỏp luật”10. Đảng ta cũng khẳng định cần đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo để

phát triển toàn diện con người: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và
đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
2.3- Chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Kinh tế thị
trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh
nhân loại, nó tồn tại khách quan trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà nước. Thực chất của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn chứng minh, những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong hơn 30
năm đổi mới vừa qua đã tạo nên động lực kinh tế giải phóng sức sản xuất, trực tiếp thúc
đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng con người Việt Nam
mới.
Hai là, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ: Bất kỳ một quốc gia dân tộc nào,
dù ở chế độ chính trị nào cũng cần có sự ổn định chính trị - xã hội. Bởi vì, đó là tiền đề
để phát triển và tiến bộ xã hội. Ổn định chính trị, trước hết thể hiện sự ổn định hệ thống
chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị hồn chỉnh. Ở Việt Nam, khi bước vào công
cuộc đổi mới, vấn đề quan trọng được đặt ra giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là
phải có sự kết hợp ngay từ đầu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, và từng bước đổi mới
chính trị, nhằm làm cho hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là q trình củng cố và phát triển hệ
thống chính trị từ nền tảng kinh tế của nó. Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị là nhằm
thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Ba là, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đào tạo: Ngày nay, cùng với việc
đổi mới công nghệ, phải chú ý đổi mới công tác giáo dục, với phương châm: "Giáo dục
cái mà đất nước cần, chứ không phải giáo dục cái mà ta có". Mặc khác, giáo dục tồn
diện: giáo dục chính trị, giáo dục lao động nghề nghiệp, giáo dục đạo đức, phải sử dụng



nhiều hình thức giáo dục đào tạo đa dạng phong phú, tạo điều kiện cho con người tự
giác, tự giáo dục, chủ động sáng tạo. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cơ bản, đầu
tư cho tái sản xuất sức lao động, đầu tư cho tương lai Không phải ngẫu nhiên mà ở
nhiều nước trên thế giới, trong kế hoạch phát triển đất nước, các quốc gia này đều đặt
giáo vào hệ thống ba chiến lược: giáo dục khoa học và mở cửa.
Có thể nói, ngày nay, sự lạc hậu về giáo dục sẽ phải trả giá đắt trong cuộc chạy
đua ở thế kỷ XXI mà thực chất là chạy đua về trí tuệ và phát triển giáo dục trong cách
mạng khoa học và công nghệ.
Bốn là, mở rộng giao lưu quốc tế: Để tạo điều kiện cho con người Việt Nam sáng
tạo tránh được những sai lầm quanh co, để đưa đất nước đi lên tiến kịp trên con đường
tiến hố của nhân loại địi hỏi phải kết hợp việc tổng kết kinh nghiệm trong nước và
kinh nghiệm của thế giới. Khơng chỉ tìm phương thức, hình thức xây dựng chủ nghĩa
xã hội nội bộ nước mình, dân tộc mình, các nước xã hội chủ nghĩa mà cịn tìm ngay
trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tiếp thu có phê phán chọn lọc những giá trị phong phú
của loài người sẽ tạo thành một động lực mạnh mẽ để hình thành từng bước một chủ
thể mới của lịch sử - con người Việt Nam mới vừa mang bản chất giai cấp công nhân,
vừa đại biểu cho sự phát triển của dân tộc. Và chắc chắn rằng "Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ
nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng với các nước phát triển trên
thế giới".


KẾT LUẬN
Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại (cụng nghiệp 4.0) đã
dần dần đi đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trị của trí tuệ và đi liền với
nó là vai trị của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là nhân tố
quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có đủ trí

tuệ và nghị lực, tay nghề và cơng nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm sâu bản sắc dân
tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội nơng nghiệp thành xã
hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng của dân đã đi
vào lịch sử suy cho cùng là thắng lợi của chính con người Việt Nam. Bài học đó cịn
ngun giá trị cho tới ngày nay. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học
của Đảng, với trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Với kiến thức được cập nhật và sự cố gắng, bản thõn cú cỏi nhỡn khỏi quỏt “Vấn
đề triết học về con người và xõy dựng con người mới trong q trình đổi mới ở nước
ta hiện nay” song khơng tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và
đánh giá của thầy, cụ để bản thõn rút kinh nghiệm và cú tầm nhỡn sõu sắc hơn nhằm
vận dụng tốt trong cụng việc và cuộc sống hàng ngày./.



×