Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm lớp 7: Phân biệt thành ngữ và tục ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.89 KB, 28 trang )

1

Sáng kiến kinh nghiệm lớp 7
Phân biệt thành ngữ và tục ngữ

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Văn học dân gian là một kho tàng tri thức, kinh nghiệm của dân gian được sáng
tạo và chắt lọc qua một q trình lâu dài. Nó khơng chỉ mang giá trị văn học mà
còn mang giá trị thực tiễn cho cộng đồng. Có những sự vật, hiện tượng người ta
khơng thể giải thích bằng những từ ngữ miêu tả đơn thuần mà cần phải sử dụng
đến thành ngữ, tục ngữ. Thành ngữ, tục ngữ mang tính khái quát và biểu trưng cao.
Chính vì thế, nó cơ đọng, súc tích và diễn đạt trọn vẹn nội dung cần nói đến. Trải
qua từng thời kì lịch sử, thành ngữ và tục ngữ được sử dụng một cách thường
xuyên và tự nhiên. Như vậy, rõ ràng chúng trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống người Việt. Trong chương trình của bậc học cơ sở, thành ngữ và tục
ngữ cũng là một vấn đề được đưa ra giảng dạy. Tuy nhiên, trên thực tế có khơng ít
học sinh vẫn đang cịn tình trạng xác định chưa chính xác thành ngữ và tục ngữ dẫn
đến tình trạng hiểu sai và dùng sai . Chính vì vậy, chúng tơi quyết định đưa ra sáng
kiến kinh nghiệm “Phân biệt thành ngữ và tục ngữ trong chương trình ngữ văn
THCS” giúp học sinh khắc phục khuyết điểm của mình.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài giúp học sinh thấy được tầm quan trọng, những ảnh
hưởng của thành ngữ và tục ngữ trong đời sống người Việt.
Đề tài sẽ là cơ sở cho các cơng trình nghiên cứu khác nhau có liên quan đến
thành ngữ và tục ngữ.
Đề tài giúp học sinh xác định đúng và sử dụng thành ngữ và tục ngữ đúng bối
cảnh và đúng mục đích diễn đạt.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài “Phân biệt thành ngữ và tục ngữ trong chương trình ngữ văn THCS”. Là hệ
thống thành ngữ và tục ngữ Việt Nam được nhìn nhận dưới góc độ vai trị và ý


nghĩa.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Học sinh khối 7 trường THCS Nguyễn Trãi – huyện ....................Tỉnh.................... trong các năm học 20.....-20.....; 20.....-20..... và học sinh lớp 7A1,
7A4 năm học 20.....-20.....
Vấn đề chỉ tập trung vào hệ thống thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, dựa vào
một số công


trình các nhà nghiên cứu trước đây. Để2giải quyết vấn đề, chúng tơi dựa trên
cơng trình
“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của tác giả Nguyễn Lân.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Từ mục đích, yêu cầu và đối tượng nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê: nhằm tập hợp lại số liệu, thông tin liên quan đến nội
dung nghiên cứu làm cơ sở phân tích, đánh giá.
- Phương pháp phân tích: phân tích tài liệu, thơng tin nhằm chỉ ra được cơ sở lý
thuyết và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: nhằm thấy được sự giống và khác nhau giữa hai
vấn đề đưa ra.
- Phương pháp tổng hợp: trên cơ sở tham khảo các ý kiến, thống kê, phân tích,
phương pháp này nhằm tổng hợp lại vấn đề, đưa ra những kết luận khái quát.
Nhưng phương pháp chủ đạo mà chúng tơi sử dụng là phương pháp phân tích.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận:
Thành ngữ, tục ngữ xuất hiện và được sử dụng như một phương tiện tất yếu
trong đời sống con người Việt Nam. Tính phổ biến của hai loại đơn vị này thể hiện
ở chỗ chúng được người dân sử dụng rất nhiều và sử dụng ở mức độ khá thành
thạo.
Ngôn ngữ vừa là một bộ phận của văn hóa và đồng thời là sự phản ánh của

một nền văn hóa. Trong q trình sử dụng ngôn ngữ, chúng ta không chỉ sử dụng
các từ, các câu nói bình thường mà cịn sử dụng cả thành ngữ, tục ngữ. Thành ngữ,
tục ngữ vừa cô đọng, vừa sinh động và súc tích, giàu hình tượng nên thường được
sử dụng rộng rãi trong giao tiếp.
Ngơn ngữ được ví như một con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Trong
tiến trình hình thành và phát triển của ngơn ngữ, sự diễn đạt tư tưởng mỗi ngày một
đa dạng. Thành ngữ, tục ngữ góp phần làm nên cái hay, cái đẹp của ngơn ngữ Việt.
Đó là một hệ thống phong phú và phức tạp. Nếu trong lời nói của ta chỉ sử dụng
những từ ngữ miêu tả đơn thuần thì phát ngơn ấy sẽ kém phần tinh tế, thậm chí
khơng thuyết phục. Vì lẽ đó mà việc sử dụng thành ngữ tục ngữ trong giao tiếp
hàng ngày cũng như trong nghệ thuật trở thành một nhu cầu tất yếu. Song, sử dụng
thành ngữ và tục ngữ như thế nào cho đúng, cho hay? Đó là cả một vấn đề cần bàn
luận.


Dựa vào các tài liệu tham khảo có 3liên quan đến đề tài, tôi đã đưa ra một số
câu tục ngữ và thành ngữ rồi yêu cầu các em phân biệt. Từ thực tiễn đó, tơi đã phát
hiện được những hạn chế, những nguyên nhân dẫn đến các lỗi mà các em còn mắc
phải. Để mang lại hiệu quả cao cho q trình lình hội tri thức, tơi mạnh dạn đưa ra
một số kinh nghiệm mà tơi đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy để giúp các
em học sinh khối 7 biết phân biệt giữa tục ngữ và thành ngữ trong giao tiếp cũng
như trong các tác phẩm văn chương được tốt hơn.
II.2. Thực trạng:
Trong những năm vừa qua bản thân tôi luôn được lãnh đạo nhà trường tin tưởng
và đã trực tiếp phân công cho tôi giảng dạy các khối lớp và bồi dưỡng học sinh giỏi
khối 7. Đặc biệt trong năm học 20.....-20....., tôi được nhà trường giao nhiệm vụ
giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7. Chính vì vậy với kinh nghiệm tích lũy trong thời
gian giảng dạy của mình, tơi nhận thấy nhiều học sinh chưa có khả năng nhận diện,
phân biệt tục ngữ và thành ngữ nên mạnh dạn chỉ ra một số biện pháp, sáng kiến
giúp học sinh nắm vững hơn kiến thức cơ bản trên.

a. Những thuận lợi và khó khăn:
* Thuận lợi:
- Xã Eana là một xã có tiềm lực kinh tế khá cho nên chúng tôi đã nhận được sự
quan tâm của các ban ngành lãnh đạo ở địa phương, cũng như sự nhiệt tình của phụ
huynh học sinh nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình truyền tải kiến thức.
- Bên cạnh đó, chúng tơi cịn nhận được sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ mọi mặt
về chuyên môn, cơ sở vật chất của BGH nhà trường cũng như toàn thể giáo viên
trong trường đặc biệt là các đồng nghiệp trong tổ Ngữ Văn trường THCS Nguyễn
Trãi.
- Trong năm học này, tôi đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 7, tôi thấy
đa số học sinh có khả năng tiếp thu bài đồng đều, khả năng lĩnh hội tri thức tương
đương nhau, số học sinh chiếm tỉ lệ khá ở các môn chiếm tỉ lệ cao, học lực trung
bình khá trở lên chiếm 50 %. Đại đa số các em có tinh thần học tập, ham học hỏi,
hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ khi lên lớp.
- Hiện nay tài liệu tham khảo nhiều giúp ích rất nhiều trong công tác giảng dạy
của giáo
viên. Các lớp học nâng cao trình độ tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học tập để
nâng cao trình độ nghiệp vụ theo kịp với xu thế đổi mới hiện nay.
* Khó khăn:
- Về phía giáo viên : Trong giai đoạn hiện nay, mỗi trường đều có những phương
pháp dạy học riêng để đạt được hiệu quả trong công tác giảng dạy. Tuy nhiên,
chung quy lại thì vấn đề lớn nhất ở đây chính là phương pháp tiếp cận của giáo viên


đối với học sinh còn rất hạn chế, còn quá4cứng nhắc dẫn đến sự buồn chán trong
việc dạy và học tại các nhà trường.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm trong cơng tác nên trong q trình giảng dạy
chưa đưa ra các biện pháp tối ưu để giúp học sinh phân biệt thành ngữ và tục ngữ
Do sĩ số lớp còn đơng nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp
từng học sinh trong một tiết dạy. Bên cạnh đó, một số giáo viên chưa thực sự tâm

huyết với nghề.
- Về phía học sinh: Số lượng học sinh dân tộc tiểu số tương đối nhiều dẫn đến
tình trạng bỏ học, lười học bài vẫn còn thường xuyên xảy ra. Một số gia đình điều
kiện kinh tế cịn hạn hẹp, nhận thức có phần cịn hạn chế. Do vậy, các em chưa có
điều kiện mua thêm tài liệu tham khảo nhằm phục vụ cho việc học bộ môn Ngữ văn
được tốt hơn.
Một bộ phận học sinh trây lười trong q trình tiếp thu bài, học bài, chưa thực
sự có hứng thú với môn học nên không chuẩn bị tốt cho giờ học mơn Ngữ văn dẫn
đến tình trạng nắm bắt không đầy đủ lượng kiến thức mà giáo viên đã truyền tải.
Hầu như tất cả các em chưa có thói quen tìm hiểu, quan sát, học hỏi cách vận
dụng thành ngữ và tục ngữ trong đời sống của những người đi trước.
Học sinh hiện nay có xu thế xem nhẹ các mơn xã hội trong đó có mơn Ngữ Văn
dẫn đến chất lượng học tập không cao.
b. Thành công và hạn chế khi vận dụng đề tài:
- Khi vận dụng đề tài này vào thực tế, đã giúp học sinh phần nào hình thành
được các khái niệm về thành ngữ, tục ngữ, các đặc điểm riêng biệt từ đó có cơ sở
để phân biệt được thành ngữ và tục ngữ.
Thông qua đề tài giúp học sinh vận dụng được thành ngữ, tục ngữ vào trong đời
sống
tránh được tình trạng dùng lẫn lộn, khơng xác định được hồn cảnh sử dụng hai
loại tổ hợp
từ này trong giao tiếp cũng như trong học tập.
Giúp học sinh thấy được cái hay cái đẹp của văn học dân gian Việt Nam, từ
đó có thái độ hăng say với môn học và thêm yêu văn học dân tộc.
- Bên cạnh những thành công đã đạt được đề tài còn mắc phải một số hạn chế
như:
Một số học sinh chưa có tinh thần học tập, khả năng tiếp thu chậm nên vẫn chưa
nắm vững khái niệm của từng loại tổ hợp dẫn đến chưa phân biệt được hai tổ hợp
từ này.
Ngoài những câu tục ngữ, thành ngữ trong chương trình sách giáo khoa giáo viên

chưa cung


cấp thêm được nhiều các thành ngữ, tục5ngữ được sử dụng trong các văn bản
khác cho học
sinh tiếp cận nên chưa mở rộng được vốn kiến thức cho học sinh.
c. Mặt mạnh, mặt yếu khi vận dụng đề tài:
Với những kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc rút ra từ thực tiễn giảng dạy có
những mặt mạnh sau đây:
+ Mặc dù cơng tác giảng dạy cịn nhiều khó khăn, vì học sinh dân tộc tiểu số
chiếm tỉ lệ cao nhưng khi vận dụng đề tài vào thực tế đã giúp học sinh tích cực, chủ
động trong việc xây dựng nâng cao chất lượng học tập.
+ Học sinh hiểu bài và phân biệt được thành ngữ tục ngữ nên phần nào giúp học
sinh u thích bộ mơn hơn.
- Tuy nhiên, đề tài vẫn tồn tại một số hạn chế như: Một số em khơng chịu soạn bài,
khơng tìm hiểu thêm kiến thức nên dẫn đến tình trạng cịn trây lười, khó tiếp thu
kiến thức mới. Từ đó, dẫn đến tình trạng một số học sinh còn chưa phân định rõ
ràng đâu là tục ngữ và đâu là thành ngữ.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Có rất nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến sự thành công cũng như hạn chế
trong quá trình vận dụng đề tài vào thực tiễn của người giảng dạy. Cụ thể là:
Bản thân luôn nhận được sự quan tâm sâu sát của Ban giám hiệu nhà trường, sự
quan tâm chặt chẽ tổ chuyên môn cũng như các đồng nghiệp trong việc phối hợp để
giáo dục và hồn thành nhiệm vụ giảng dạy của mình.
Q nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống mà giáo
viên chú ý nhiều tới liên hệ thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ bản chưa
đầy đủ.
Vốn kiến thức của giáo viên còn hạn chế, thiếu sự mở rộng .
Giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biện
pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho học sinh.

+ Giờ dạy tẻ nhạt, không thực sự thu hút sự chú ý của học sinh.
+ Một số giáo viên còn lúng túng trong việc đưa ra những luận điểm, cách thức
phân biệt thành ngữ và tục ngữ nên dẫn đến tình trạng học sinh khơng khắc sâu
được kiến thức.
+ Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến q trình học tập của học sinh,
chưa đơn đốc
các em việc học bài cũ trước khi đến lớp.
+ Do học sinh chưa nắm vững các khái niệm về thành ngữ và tục ngữ dẫn đến tình
trạng


không phân biệt được rõ ràng đâu là6thành ngữ và đâu là tục ngữ nên hiểu sai
bản chất nên dùng sai khi giao tiếp.
+ Một số em học sinh không học bài, làm bài cũ nên dẫn đến tình trạng học trước
qn sau và khi có những tình huống giáo tiếp cụ thể hoặc bài tập xác định thành
ngữ và tục ngữ sẽ không biết cách giải quyết.
+ Đa số các em chưa trang bị thêm cho mình những tài liệu tham khảo (như từ điển
thành ngữ và tục ngữ Việt Nam) để làm tài liệu học tập.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
Sử dụng phân biệt thành ngữ và tục ngữ trong tiết dạy có vai trị quan trọng
giúp học sinh nắm vững, khắc sâu và hình thành kiến thức sâu sắc hơn tuy nhiên
với những khó khăn mà giáo viên đang gặp phải là những khó khăn cần và có thể
giải quyết được giúp ý tưởng có thể đi vào thực tiễn giảng dạy như:
- Trước hết, với việc đa dạng học sinh trong lớp dẫn đến sự khó khăn khi truyền
tải kiến thức cho nên giáo viên cần có những câu hỏi phù hợp với từng đối tượng
học sinh. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh dễ dàng nắm bắt kiến
thức, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu
bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh khác. Có lẽ đây là
vấn đề khơng chỉ của riêng ngành giáo dục mà hiện nay cả xã hội cũng đang quan
tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà

phát triển toàn diện thì người giáo viên khơng những chỉ biết dạy mà cịn phải biết
tìm tịi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, giúp giảm dần
khoảng cách về trình độ trong lớp học. Vấn đề nêu trên là khó khăn với khơng ít
giáo viên nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong
bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho
học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
- Thứ hai, với việc học sinh không học bài, làm bài trước khi đến lớp và không
khắc sâu được kiến thức đã học. Học sinh có lẽ sẽ rất thuộc bài, sẽ nói làu làu
nhưng khi được hỏi đến những vấn đề liên quan thì khơng trả lời được. Hoặc chỉ
cần quên một ý hay một câu trong bài là họ sẽ qn hết cả bài đó. Cách ghi nhớ này
hồn toàn thụ động và quá lệ thuộc vào từng câu từng chữ của bài. Tuy nhiên, với
đề tài này tôi muốn đề cập ở đây chính là một phương pháp học hiệu quả, với cách
phân biệt hai cụm tổ hợp từ này bắt buộc học sinh phải có sự hiểu sâu về vấn đề
được học đồng thời biết vận dụng nó một cách linh hoạt vào trong giao tiếp. Học
phải biết ghi nhớ các điểm chính, các từ chủ điểm rồi từ đó suy ra những vấn đề
nhỏ hơn và hiểu rằng mình đang học cái gì. Cách ghi nhớ này giúp cho những


thông tin cần thiết được lưu lại trong não7một cách hệ thống và được sử dụng có
hiệu quả trong những ngữ cảnh phù hợp.
- Thứ ba, đối với phần lớn học sinh thì việc học mơn Ngữ Văn là một điều gì đó
các em bị bắt buộc phải làm chứ các em không hề muốn. Học Ngữ Văn lúc này đối
với học sinh là một nghĩa vụ, và chính điều đó khiến cho các em cảm thấy khơng
thoải mái khi học. Đây chính là thử thách đầu tiên và cũng là lớn nhất mà một
người dạy lẫn người học môn Ngữ Văn phải đối mặt, bởi vì khi một người khơng
thích học Ngữ Văn thì chắc chắn sẽ khơng thể học nó tốt được. Chính vì vậy trách
nhiệm của người giáo viên dạy là phải tìm ra những phương pháp dạy học thích
hợp nhằm khơi gợi niềm đam mê của học sinh, để các em nhận ra rằng: Nếu muốn
trở thành một người cơng dân tốt, có cảm xúc và biết yêu thương, thì cần phải quan
tâm đến bản thân chính q trình học mơn Ngữ Văn của mình.

- Thứ tư, học sinh khơng thích phát biểu trong giờ học. Theo quan điểm của một
nhà giáo cho rằng: Khơng có trị dốt mà chỉ có trị chưa giỏi và nhiệm vụ là của
người thầy. Đối với những người thầy giỏi luôn biết cách tạo ra sự sôi nổi cho lớp
học, còn những thầy chưa giỏi và kiến thức chưa sâu thì dạy sẽ nhàm chán ngay.
Giảng dạy giống như hoạt động nghệ thuật của một nghệ sĩ đòi hỏi người thầy phải
tìm tịi và sáng tạo. Đặc biệt với thời đại Internet, nghĩa là kiến thức toàn cầu cho
nên giáo viên đừng có nghĩ chỉ cần một số quyển sách là đáp ứng được giảng dạy.
Người thầy cần phải luôn tìm hiểu cập nhật những kiến thức mới để tạo ra sự hứng
thú đối với học sinh. Chính vì vậy để một tiết học sơi nổi thì phương pháp và khả
năng xây dựng bài giảng của giáo viên đóng vai trị rất quan trọng, một mơn học
khơng làm các em hứng thú thì đương nhiên là các em sẽ khơng muốn phát biểu.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Thông qua sáng kiến này, chúng tôi cố gắng giúp học sinh phân biệt thành ngữ và
tục ngữ:
nắm vững cấu tạo, phân loại đặc điểm của từng loại để tránh tình trạng dùng sai,
dùng khơng đúng văn cảnh. Từ đó giúp học sinh vận dụng thành ngữ và tục ngữ
nhuần nhuyễn, thích hợp trong bài viết cũng như trong giao tiếp hàng ngày.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
b1. Thành ngữ:
 Định nghĩa:
Ngơn ngữ vừa là một bộ phận của văn hóa và đồng thời là sự phản ánh của một
nền văn hóa. Khi sử dụng ngơn ngữ, chúng ta khơng những sử dụng các từ mà còn


sử dụng cả thành ngữ. Bàn về thành ngữ, 8các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau. Mỗi khái niệm đều được dựa trên những cơ sở và quan niệm riêng.
Trong cuốn “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ” [8] do Hoàng Văn Hành chủ
biên, thành ngữ được định nghĩa như sau: “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định,
bền vững về hình thái – cấu trúc; hồn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa; được sử dụng

rộng rãi trong giao tiếp thường ngày”. Ở đây, thành ngữ được định nghĩa trên cơ sở
đặc điểm về hình thái – cấu trúc, đặc trưng ngữ nghĩa và tính phổ biến trong đời
sống.
Ví dụ: “Chọc gậy bánh xe”
“Chọn mặt gửi vàng”
“Cá lớn nuốt cá bé” …
Trong “Từ vựng tiếng Việt”, Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Thành ngữ là
những đơn vị định danh, biểu thị khái niệm nào đó dựa trên những hình ảnh, những
biểu tượng cụ thể.”. Ở định nghĩa này, Nguyễn Thiện Giáp đã dựa vào chức năng
và phương thức tạo nghĩa để nêu lên quan điểm của mình.
Ví dụ: “Gà trống ni con”
“Dãi nắng dầm mưa”
“Mơi hở răng lạnh” …
Ngồi những định nghĩa trên, cịn nhiều định nghĩa khác nhau về thành ngữ.
Mỗi người có cách định nghĩa riêng nhưng lại khá giống nhau về mặt
bản chất.
 Phân loại thành ngữ:
Có nhiều cách phân loại thành ngữ dựa vào những tiêu chí khác nhau như:
nguồn gốc, kết cấu, ý nghĩa...Ở đây, chúng ta có thể chia thành ngữ thành các tiểu
loại sau:
a. Thành ngữ so sánh:
Thành ngữ so sánh chiếm tỉ lệ đáng kể trong kho thành ngữ tiếng Việt. Tỉ lệ này
trong danh sách thành ngữ của Hoàng Văn Hành là 15,31% (494 thành ngữ so sánh
trong tổng số 3225 thành ngữ). Thành ngữ so sánh là một dạng thành ngữ được tạo
lập trên cơ sở phép so sánh.
Thành ngữ so sánh gồm có các dạng chính với cơng thức như sau:
 Dạng A so sánh B
Đây là dạng đầy đủ của thành ngữ so sánh. Trong đó: A là vế được so sánh, B là
vế đưa ra để so sánh.
Từ so sánh: như, bằng, tựa, hệt…

Ví dụ: “Đắt như tơm tươi”
“Đẹp như tiên”


9
“Lạnh như tiền” …
 Có một số trường hợp, thành phần A (vế được so sánh) có thể có mặt hoặc
không nhưng người ta vẫn hiểu ý nghĩa của thành ngữ ở dạng tồn vẹn.
Ví dụ: (Chắc) như đinh đóng cột
(Chậm) như rùa
(Vui) như mở cờ trong bụng
 Dạng “như B”
Ở trường hợp này A không phải là bộ phận của thành ngữ nhưng khi sử dụng,
A sẽ được nối với thành ngữ sao cho phù hợp với ngữ cảnh.
Ví dụ: “Như diều gặp gió”
“Như vịt nghe sấm”
“Như mẹ chồng với nàng dâu” …
Trên thực tế, không phải bất cứ kết cấu nào có dạng “A như B” cũng được coi là
thành ngữ. Sự so sánh nào đó có phải là thành ngữ hay khơng cịn tuỳ thuộc vào
nhiều ngun nhân như: đặc điểm tâm lí, truyền thống văn hố, thực tế xã hội…
Cấu trúc so sánh thông thường rất đa dạng. Trong khi đó, thành ngữ so sánh ít
biến dạng hơn vì thành ngữ so sánh là cụm từ cố định. Chúng phải bền vững và
chặt chẽ về mặt cấu trúc và ý nghĩa.
b. Thành ngữ ẩn dụ:
Là thành ngữ được xây dựng trên cơ sở miêu tả một sự kiện, hiện tượng bằng
cụm từ nhưng biểu hiện một ẩn ý.
Xét về bản chất, ẩn dụ cũng là so sánh nhưng đây là so sánh ngầm, từ so sánh
không hề hiện diện. Cấu trúc bề mặt của thành ngữ loại này khơng phản ánh nghĩa
đích thực của chúng mà từ ý nghĩa hiện diện trên câu chữ, người ta rút ra ý nghĩa
đích thực của thành ngữ.

Căn cứ vào nội dung và cấu trúc của thành ngữ ẩn dụ, ta có thể phân loại thành
ngữ ẩn dụ gồm thành ngữ ẩn dụ đơn và thành ngữ ẩn dụ kép.
 Đặc điểm của thành ngữ:
a. Tính cố định, bền vững về hình thái, cấu trúc:
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu các loại thành ngữ và khảo sát các công thức cấu
trúc hình thái của các loại thành ngữ đó. Đó là những cơng thức chặt chẽ, ổn định.
Trong q trình sử dụng, vị trí và số lượng của các yếu tố trong thành ngữ ít bị thay
đổi.
Ví dụ: “Ngựa quen đường cũ” là một thành ngữ có bốn âm tiết. Qua thời gian
sử dụng, nó vẫn giữ nguyên số lượng các yếu tố và các yếu tố đó vẫn giữ nguyên
trật tự, không bị tráo hay thay đổi vị trí. Vì vậy, khơng ai nói “Ngựa vẫn quen
đường cũ” hay “Ngựa đường cũ quen”.


Tính ổn định về thành phần từ vựng10và cấu trúc của thành ngữ được hình
thành do thói quen sử dụng của người bản ngữ. Vì thế, dạng ổn định của nó là dạng
chuẩn, mang tính xã hội cao. Tuy nhiên dạng chuẩn đó khơng phải là “cái chết
cứng” mà trong khi sử dụng, nó vẫn rất uyển chuyển. Nói ổn định khơng có nghĩa
là bất biến. Khi được vận dụng vào tác phẩm văn học với tư cách là một ngữ liệu,
thành ngữ có biến thể dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào mục
đích cũng như dụng ý nghệ thuật của tác giả. Vấn đề này sẽ được khảo sát và phân
tích sâu hơn ở chương 2.
b. Tính hồn chỉnh và hàm súc, bóng bẩy về nghĩa:
Tính cố định, bền vững của thành ngữ thuộc về đặc trưng cấu trúc. Ở đây chúng
ta nói đến đặc trưng ngữ nghĩa của thành ngữ.
 Tính hồn chỉnh về nghĩa:
Theo định nghĩa của Nguyễn Thiện Giáp thì “thành ngữ ln biểu thị một khái
niệm nào đó”. Nghĩa là mỗi thành ngữ sẽ tương đương với một từ về mặt hình thức
và một khái niệm về mặt nội dung. Nó diễn đạt một thuộc tính, một trạng thái nào
đó của sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: Thành ngữ “Tham vàng bỏ ngãi” chỉ kẻ vì tham lợi mà khơng giữ trọn
tình nghĩa.
Thành ngữ “Qua cầu rút ván” chỉ người vong ơn bạc nghĩa. Thành ngữ
này tương đương với từ ghép “vô ơn” nhưng hàm súc và giàu hình tượng hơn.
 Tính hàm súc, bóng bẩy:
Nếu như tính hồn chỉnh của thành ngữ chỉ cho ta thấy rằng thành ngữ tương
đương với một từ, thể hiện một khái niệm thì tính hàm súc của nó cần được ta làm
rõ và đi sâu hơn.
Khác với các đơn vị từ vựng bình thường, thành ngữ là đơn vị định danh bậc
hai. Nghĩa là nội dung của thành ngữ không hướng đến điều được nhắc đến trong
nghĩa đen của từ ngữ tạo nên thành ngữ mà ngụ ý điều gì đó suy ra từ các từ ngữ
đó.
Được xây dựng trên cơ sở các phương thức: so sánh, ẩn dụ, hốn dụ nên thành
ngữ có tính hình tượng hay bóng bẩy, hàm súc về nghĩa.
Ví dụ: Thành ngữ “Nước chảy đá mịn” khơng phải chỉ miêu tả việc nước chảy
làm cho đá mịn mà có ngụ ý: kiên nhẫn thì dù gặp khó khăn đến đâu cũng đạt
được kết quả như mong muốn.
Như vậy, sự hàm súc và bóng bẩy về nghĩa của thành ngữ là kết quả của hai
hình thái biểu trưng hố: hình thái tỷ dụ (so sánh) và hình thái ẩn dụ (so sánh
ngầm).
b2. Tục ngữ:


11
 Định nghĩa:
Tục ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ, hiện tượng của tư duy và hiện tượng văn
học dân gian. Nó là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và
nhân văn: Folklore học, văn học, ngơn ngữ học, dân tộc học, tâm lí học…
Về khái niệm tục ngữ, có khá nhiều khái niệm được các nhà nghiên cứu ngôn
ngữ đưa ra.

Trong cuốn “Từ điển văn học”, Chu Xuân Diên đã định nghĩa tục ngữ như sau:
“Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, có nhịp điệu, có hình thức bền vững, được
dùng trong lời nói hàng ngày, thường có nhiều nghĩa, hình thành bằng cách liên
tưởng loại suy.”.
Một định nghĩa khác trong giáo trình “Lịch sử văn học Việt Nam” (Tập 1): “Tục
ngữ là câu nói thường ngắn gọn có vần hoặc khơng có vần, có nhịp điệu hoặc
khơng có nhịp điệu, đúc kết kinh nghiệm sản xuất hay đấu tranh xã hội, rút ra một
chân lí phổ biến, ghi lại một nhận xét về tâm lí, phong tục tập quán của nhân dân,
tục ngữ do nhân dân sáng tác và được toàn thể xã hội công nhận.”.
Những định nghĩa về tục ngữ càng về sau càng đầy đủ, nêu lên được những tính
chất vốn có của thể loại. Điều đó cho thấy các nhà nghiên cứu đã khám phá ra
nhiều đặc trưng mang tính khu biệt, từ đó cho chúng ta cái nhìn tồn diện hơn về
tục ngữ.
 Phân loại tục ngữ:
Dựa vào những tiêu chí khác nhau như: nội dung, ngữ nghĩa, cấu trúc mà
người ta phân chia tục ngữ thành nhiều loại khác nhau. Nếu dựa vào nội dung, tục
ngữ được chia thành:
+ Tục ngữ về giới tự nhiên, về quan hệ của con người với giới tự nhiên
+ Tục ngữ về con người, về đời sống vật chất
+ Tục ngữ về con người và đời sống xã hội
+ Tục ngữ về con người, về đời sống tinh thần, những quan niệm đa dạng về nhân
sinh, vũ trụ
Nếu dựa vào ngữ nghĩa, ta có thể chia thành ngữ thành các loại sau:
 Những câu tục ngữ chỉ có một loại nghĩa
 Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa đen
 Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa bóng
 Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa khái quát
 Những câu tục ngữ có nhiều loại nghĩa
 Những câu tục ngữ có nghĩa đen và nghĩa khái quát
 Những câu tục ngữ có nghĩa đen và nghĩa bóng

 Những câu tục ngữ có nghĩa khái quát và nghĩa bóng


Ở đây, chúng ta sẽ dựa vào cấu12trúc đề - thuyết để phân loại tục ngữ.
Cấu trúc đề - thuyết là cấu trúc cú pháp của câu, đơn vị cú pháp có chức năng cơ bản là
truyền đạt một thơng báo, gắn liền với chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Dựa vào cơ sở
lý thuyết và đặc điểm thể loại, tục ngữ có thể được phân loại như sau:
a. Những câu đơn:
Những câu tục ngữ có một đề và một thuyết, đề và thuyết cùng là vị ngữ,
có thể dùng “thì” hay “là” để xác định ranh giới giữa đề và thuyết.
Ví dụ: Có cơng mài sắt (thì) có ngày nên kim
Một con ngựa đau (thì ) cả tàu bỏ cỏ
Khơng thầy (thì) đố mày làm nên
Có thể phân tích các câu ngữ trên như sau:
C
đ
Có cơng mài sắt

thì
C

t
có ngày nên kim

thì

đ
Một con ngựa đau

đ

Khơng thầy

C

t
cả tàu bỏ cỏ

thì

t
đố mày làm nên

b. Những câu ghép:
Gồm hai câu đơn sóng đôi cân xứng với nhau (đối nhau), mỗi câu đơn có
một đề và
một thuyết. Trong mỗi câu có thể dùng “thì” hay “là” hai lần.
Ví dụ: Ăn (thì) trơng nồi, ngồi (thì) trơng hướng
Đi (thì) đến nơi, về (thì) đến chốn


13

C

đ
Ăn

thì

t


đ

trơng nồi

ngồi

thì

t
trơng hướng

C

đ
Đi

thì

t
đến nơi

đ
về

thì

t
đến chốn


 Đặc điểm của tục ngữ:
a. Cấu trúc câu tục ngữ:
Mỗi tục ngữ là một câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, diễn đạt một ý trọn vẹn.
Về mặt cấu trúc, tục ngữ có hai nét đặc sắc, trong đó có hai đặc điểm nổi bật sau:
 Tính chất chắc gọn của câu tục ngữ:
Câu tục ngữ bao giờ cũng rất ngắn gọn, câu ngắn nhất chỉ có ba âm tiết.
Ví dụ: “May hơn khơn”
“Túng thì tính”
Ví dụ: “Gieo gió gặt bão”
“Chớp đơng nhay nháy, gà gáy thì mưa”
“Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”
Như vậy ta thấy tục ngữ khơng chỉ ngắn gọn mà cịn chặt chẽ. Đó là lí do ta
khẳng định đặc điểm của tục ngữ là gọn chắc. Mỗi tiếng, mỗi từ trong câu đều có
vai trị, ý nghĩa quan trọng và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn với câu
“Gieo gió gặt bão”, câu chỉ có bốn âm tiết nhưng rõ ràng mỗi âm tiết đều giữ một
vai trò trong câu. Nếu bỏ đi một từ nào đó thì ý nghĩa cũng như giá trị của câu tục
ngữ sẽ không còn nguyên vẹn. Từ “gieo” và “gặt” đều là những động từ với hàm ý
là những gì đã làm và hậu quả nhận được; tương tự từ “gió” và “bão” cũng có ý
nghĩa như vậy.
 Tính chất đối xứng của câu tục ngữ:


Hình thức cấu trúc đặc trưng của câu14tục ngữ là cấu trúc đối xứng. Câu đối
xứng là câu có sự tương ứng đều đặn của các thành phần trong câu. Ta thấy đó
là những câu có đặc điểm sau:
+ Cấu tạo thành những vế (thường là hai vế) đối ứng nhau, có quan hệ logic
chặt chẽ với nhau.
+ Giữa các vế có sự cân bằng (đơi khi chỉ là cân bằng tương đối) về số lượng
từ và sự đối ứng về từ loại.
Muốn giải thích đúng nghĩa và ý của câu tục ngữ, trước hết cần nắm chắc cấu

trúc đối xứng của nó.
b. Từ ngữ, nhịp và vần của câu tục ngữ:
Cấu trúc câu tục ngữ có tính chất bền vững, được xây dựng bởi ba loại vật liệu
chính là: từ ngữ, nhịp và vần. Những vật liệu này được kết hợp chặt chẽ, hài hoà
với nhau
để tạo ra sức biểu đạt, hình tượng của câu.
 Từ ngữ của câu tục ngữ
Đặc điểm thứ nhất của từ ngữ trong tục ngữ là ở chỗ nó rất sắc sảo mà vẫn
rất giản dị bởi nó là hình thức tinh luyện của khẩu ngữ dân gian. Chẳng hạn như
câu tục ngữ “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” dù sử dụng những từ ngữ
rất quen thuộc, gần gũi, bình dân nhưng vẫn sắc sảo, ý nghĩa, chuyển tải đầy đủ
thông tin lẫn sắc thái tình cảm.
Đặc điểm thứ hai của từ ngữ sử dụng trong tục ngữ là tính hình ảnh của
những khái niệm, những ý tưởng trừu tượng. Ở đây, biện pháp được sử dụng
rộng rãi hơn cả là biện pháp so sánh.
Ví dụ: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”
Ta thấy trong câu tục ngữ, khái niệm “họ hàng” được biểu đạt bằng hình ảnh
“giọt máu
đào”, khái niệm “người dưng” được biểu đạt bằng hình ảnh “nước lã”. Đó là
những hình ảnh ẩn dụ. Vế (1) được so sánh với vế (2) bằng từ so sánh “hơn”.
Trong cuộc sống, câu tục ngữ này trở thành một ẩn dụ hoặc tỷ dụ khi người sử
dụng muốn nhấn mạnh, đề cao quan hệ huyết thống.
 Nhịp của câu tục ngữ:
Câu tục ngữ có cấu trúc đối xứng nằm ở giữa hai vế (nếu ba vế thì có hai
trục). Trường hợp câu tục ngữ dùng kiểu hô ứng (bao nhiêu…bấy nhiêu;
nào…ấy), ta có thể hình dung nó có trục đối xứng xoay. Dấu hiệu hình thức của
đối xứng là liên từ, trợ từ. Nhưng vì tục ngữ ít dùng loại từ này nên trục đối
xứng thường ẩn trong nhịp và vần làm cho câu tục ngữ trở nên gọn, súc tích,
mềm dẻo và thêm tinh tế.



Ví dụ: “Khơng thầy đố mày15làm nên”
“Đói cho sạch, rách cho thơm”
“Chớp đơng nhay nháy gà gáy thì mưa”
Như vậy tính chất nhịp nhàng, có vần điệu của câu tục ngữ làm cho câu tục
ngữ xuôi tai, thuận miệng, dễ nhớ, dễ truyền. Đó là một cơng trình ngơn ngữ
tinh xảo khó có thể thay đổi, thêm bớt. Ở tục ngữ, yếu tố nhịp có nhiều tác dụng.
Nó làm cho câu tục ngữ có tính nhịp nhàng, cân đối. Qua đó biểu đạt sắc thái
quan hệ logic giữa các vế của câu tục
ngữ.
 Vần của câu tục ngữ:
Cũng như trong ca dao, vần trong tục ngữ là yếu tố giữ nhịp, tạo ra sự hài hoà
âm thanh cho câu, đồng thời góp phần làm nổi bật và nhấn mạnh những từ có ý
nghĩa quan trọng trong câu.Trong tục ngữ, vần hết sức phong phú, linh hoạt tạo
sự vần vè, xuôi tai.
Ví dụ: “Ăn cây nào rào cây ấy”
“Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão”
“Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”
Tóm lại, vần là một đặc điểm nổi bật của câu tục ngữ. Nó tạo cho câu tính
biểu cảm, nhịp nhàng, cân đối về cấu trúc. Từ đó làm cho nội dung câu tục ngữ
sắc sảo, tinh tế và đạt hiệu quả cao trong mục đích truyền đạt.
b3. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ:
Một trong những vấn đề nan giải nhất từ trước đến nay đối với các nhà
nghiên cứu là vấn đề phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ. Đây là hai loại đơn vị
có những đặc điểm rất gần gũi với nhau khiến ta thường bị nhầm lẫn. Trong
thực tế, hầu như bất kì cuốn Từ điển thành ngữ tiếng Việt nào cũng pha tạp vào
đó khơng ít tục ngữ.
Trong “Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học
đã đưa ra các đơn vị sau đây là thành ngữ:
- “Có mới nới cũ”

- “Giậu đổ bìm leo”
- “Trâu chậm uống nước đục”
- “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”…
Còn Từ điển thành ngữ Việt Nam đưa các đơn vị sau đây vào danh sách
thành ngữ:
- “Mềm nắn rắn buông”
- “Sống lâu lên lão làng”
- “Được tiếng khen ho hen chẳng còn”…


Trong cuốn “Từ điển tục ngữ16tiếng Việt”, các đơn vị sau đây được
đưa vào danh sách tục ngữ:
- “Cá nước chim trời”
- “Chó ngáp phải ruồi”
- “Lịng chim dạ cá”…
Vậy đâu là thành ngữ, đâu là tục ngữ? Đó là câu hỏi cần bàn luận.
Chính vì việc phân biệt thành ngữ, tục ngữ không đơn giản nên từ trước đến nay,
khi nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt, nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến việc phân
biệt hai loại đơn vị này. Nguyễn Thiện Giáp cho rằng “Một tổ hợp được coi là mang tính
thành ngữ khi ý nghĩa chung của nó hồn tồn mới, khác với tổng số ý nghĩa của các từ
thành phần tạo thành” [9]. Từ đó ông phát biểu: “Những cụm từ mà trong cơ cấu
cú pháp và ngữ nghĩa của chúng có những thuộc tính đặc biệt, chỉ có ở cụm từ
đó. Nói cách khác, thành ngữ là một cụm từ mà ý nghĩa của nó khơng được tạo thành
từ các ý nghĩa của các từ tạo nên nó. Ngay cả khi biết ý nghĩa của tất cả các từ trong
đó vẫn chưa thể đốn chắc nghĩa thành ngữ của cả cụm từ đó” [9].
Sự phân biệt này cũng chưa thật rõ ràng. Bởi trong thực tế, có nhiều câu tục
ngữ cũng có những đặc điểm như thế. Chẳng hạn, “Trèo cao ngã đau” có tác
giả xếp vào thành ngữ nhưng cũng có tác giả xếp vào tục ngữ. Sở dĩ như thế vì
cụm từ này vừa mang ý nghĩa cộng lại của các thành tố nhưng lại vừa mang ý
nghĩa bóng bẩy. Mặt khác, ta thấy nó vừa có ý nghĩa hình tượng nhưng đồng

thời cũng là kinh nghiệm đúc kết được từ trong cuộc sống.
Việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ luôn là một vấn đề đặt ra đối với các
nhà nghiên cứu. Hồng Văn Hành nhận xét: “Thành ngữ tuy có nét tương đồng
với tục ngữ như: tính bền vững về mặt cấu tạo, tính bóng bẩy về nghĩa… nhưng
lại khác tục ngữ về bản chất. Sự khác biệt ấy ở chỗ: thành ngữ là những tổ hợp
từ đặc biệt biểu thị những khái niệm một cách bóng bẩy, cịn tục ngữ là những
câu ngôn bản đặc biệt biểu thị những phán đốn nghệ thuật”. Ơng kết luận:
“Xem vậy, tuy thành ngữ và tục ngữ có một số nét tương đồng có thể chuyển
hố lẫn nhau nhưng về bản chất là khác nhau, xét cả về hình thái cấu trúc lẫn
cũng như về mặt ngữ nghĩa, nội dung biểu đạt và chức năng của chúng trong
giao tiếp xã hội [9; tr.42]. Những nét dị biệt và đồng nhất được Hoàng Văn
Hành đưa vào xét trong bốn tiêu chí sau:
- Đặc trưng về hình thái cấu trúc
- Chức năng biểu hiện nghĩa định danh
- Chức năng biểu hiện hình thái nhận thức
- Đặc trưng ngữ nghĩa


Trong cơng trình “Tục ngữ Việt17Nam”, tác giả Chu Xn Diên nêu ra
những nhận xét về sự khác nhau về thành ngữ và tục ngữ như sau: “Cần phải
xem xét thành ngữ và tục ngữ không phải chỉ như hai hiện tượng ngôn ngữ khác
nhau mà chủ yếu như là một hiện tượng ngôn ngữ và một hiện tượng ý thức xã
hội. Cho nên tiêu chí gốc mà chúng tơi thấy cần phải đưa vào để phân biệt thành
ngữ và tục ngữ là tiêu chí nhận thức luận. Với tiêu chí đó, chúng tơi xem xét tục
ngữ chủ yếu như là một hiện tượng ý thức xã hội còn thành ngữ chủ yếu như
một hiện tượng ngôn ngữ” [6]. Từ đó, ơng nêu ra những đặc điểm khác nhau
giữa hai loại đơn vị này như sau:
- Nội dung của thành ngữ là nội dung của những khái niệm. Còn nội dung của
tục ngữ là
nội dung của những phán đoán.

- Quan hệ giữa thành ngữ và tục ngữ phản ánh quan hệ giữa các hình thức
khái niệm và phán đốn.
Theo Vũ Ngọc Phan thì “Thành ngữ có ý nghĩa khơng những về một chiều,
về một mặt, nói lên một tình trạng nhưng khơng kết thúc” cịn tục ngữ là “những
câu thơng tục thiên về diễn ý, đúc kết một số ý kiến dựa theo kinh nghiệm, dựa
theo ln lí và cơng lí để nhận xét về con người và xã hội, hay dựa theo tri thức
để nhận xét về con người và vũ trụ. Trong tục ngữ có cả thành ngữ” [15; tr.22].
Ở đề tài này, chúng tôi dựa vào các tiêu chí sau đây để phân biệt thành ngữ
và tục ngữ:
a. Về cấu trúc ngữ pháp:
Dựa vào cấu trúc ngữ pháp là cách đơn giản để phân biệt thành ngữ và tục ngữ.

phân tích vấn đề một cách cụ thể, ở mức cơ sở với hi vọng sẽ giải quyết được
sự
nhập nhằng giữa hai hiện tượng được coi là khác nhau về bản chất ấy.
Theo Vũ Ngọc Phan, “Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một
nhóm từ, chưa phải là một câu hồn chỉnh; cịn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là
một câu hoàn chỉnh”. Sự nhìn nhận này tuy chưa thật chính xác nhưng cũng là
một gợi ý quan trọng. Nói chưa thật chính xác bởi gần đây, Nguyễn Thái Hoà
trong “Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp” [10; tr.23] khi xem xét điều
này đã viết: “vẫn cịn một băn khoăn lớn: có những thành ngữ có cấu tạo ngữ
pháp là một câu, ngược lại có những đơn vị được gọi là tục ngữ nhưng chỉ có
cấu tạo nhóm từ. Thật vậy, có khơng ít những thành ngữ về hình thức ngữ pháp
là một câu hồn chỉnh, ví dụ như: “Cá nằm trong chậu”, “Hồn vía lên mây”,
“Rồng đến nhà tơm”…; và cũng khơng ít tục ngữ khó có thể cho là câu đúng


cách, ví dụ như: “Ăn cá bỏ xương, ăn18quả bỏ hột”, “Chớ thấy sóng cả mà
rã tay chèo”, “Đừng khinh khó, chớ cậy giàu”…
Nhìn chung, xét về mặt cấu trúc ngữ pháp, thành ngữ chỉ là một cụm từ

hay ngữ cố định chứ chưa phải là một câu hoàn chỉnh với đủ thành phần chủ
ngữ - vị ngữ. Xét thành ngữ “Nhanh như cắt”, ta thấy đây không thể gọi là một
câu vì nó khơng cung cấp đủ thơng tin để người nghe hiểu tồn vẹn nội dung
truyền đạt. Nói đúng hơn, ta mới chỉ biết được tính chất của hành động chứ
không biết được chủ thể của hành động; ta chỉ biết nó “như thế nào?” chứ khơng
biết “là ai? là cái gì?”. Cịn ở câu tục ngữ “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa” hay
“Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân” lại là một câu hồn chỉnh vì nó chứa đầy đủ
thành phần câu vì nó đủ điều kiện trả lời các câu hỏi: “cái gì? ra sao? như thế
nào?”. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản của thành ngữ và tục ngữ.
Mặc dù khơng có sự so sánh nào là tuyệt đối nhưng cấu trúc ngữ pháp vẫn
là cơ sở nổi trội để phân biệt thành ngữ với tục ngữ. Tiêu chí này có ưu điểm là
rõ ràng, dề hiểu. Nhưng khi xem xét đòi hỏi phải có sự miêu tả, phân định rạch
rịi, chi li đến từng nhóm, từng kiểu dạng mơ hình ngữ pháp trên tổng thể kho
tàng thành ngữ, tục ngữ thì mới có thể tránh được thiếu sót, sai lầm.
b. Về chức năng biểu hiện:
Dựa vào định nghĩa thành ngữ và tục ngữ, ta thấy rằng nghĩa của thành ngữ
có thể xem
là tương đương với một từ khi ta chỉ xét nó ở mức độ trung bình, khách quan. Song,
đa phần thành ngữ lại thể hiện sắc thái cảm xúc và thái độ của chủ thể phát ngôn.
Chúng ta vẫn thường nhận định rằng thành ngữ biểu thị một khái niệm, còn tục
ngữ lại là một phán đoán. Vậy cốt lõi của vấn đề này khi nhìn nhận ở tiêu chí chức
năng biểu hiện là gì?
Cù Đình Tú ở bài viết “Góp ý về phân biệt tục ngữ với thành ngữ” (1973) đã
nhận định
“Thành ngữ là những đơn vị có sẵn, mang chức năng định danh, nói khác đi là
dùng để
gọi tên sự vật, tính chất, hành động…”, và “Tục ngữ đứng về mặt ngơn ngữ học có
chức năng khác hẳn với thành ngữ. Tục ngữ cũng như các sáng tác khác của văn
học dân gian như ca dao, truyện cổ tích đều là các thơng báo. Nó thơng báo một
nhận định, một kết luận về một phương diện nào đó của thế giới khách quan. Do

vậy mỗi tục ngữ đọc lên là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng. Đó
cũng là lí do giải thích tục ngữ có cấu tạo là các kết cấu hai trung tâm.”.
Quả thực khi đọc một thành ngữ, ta thấy nó chỉ có chức năng định danh sự
vật, hiện tượng, tính chất. Chẳng hạn thành ngữ “Ăn cháo đá bát” chỉ nêu lên


được hiện tượng vô ơn bạc nghĩa đới với19người đã giúp đỡ mình, tính chất của
hiện tượng đó là xấu. Muốn biết sự kiện đó thế nào thì ta phải thiết lập ngữ cảnh
cho nó. Nhưng khi đọc câu tục ngữ “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” lại
biểu đạt đầy đủ nội dung, sự kiện: người siêng năng, chăm chỉ mới làm ra của cải
và có cái ăn, cịn kẻ lười nhác thì ngược lại. Tương tự, ở thành ngữ “Mèo mù vớ
được cá rán” hay một loạt các thành ngữ khác như “Buồn ngủ gặp chiếu manh”,
“Chó ngáp phải ruồi”… chỉ đơn thuần chỉ ra được hiện tượng “gặp may” chứ
không biểu hiện rõ ràng như câu tục ngữ “Trâu chết để da, người chết để tiếng”.
Điều đó cho thấy cùng mang chức năng định danh nhưng thành ngữ chỉ định danh
cho tính chất của sự vật, hiện tượng, còn tục ngữ lại định danh cho sự vật, hiện
tượng, sự việc trong cảnh huống cụ thể.
Như vậy, căn cứ vào chức năng biểu hiện, ta có thể phần nào phân biệt được
đâu là thành ngữ và đâu là tục ngữ. Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn vẹn một
ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một ln lí, có khi là một sự phê phán. Cịn
thành ngữ là một phần câu sẵn. Nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen
dùng, nhưng tự bản thân nó khơng diễn đạt được một ý trọn vẹn. Nhờ vào chức
năng biểu hiện của hai đơn vị này mà người ta sử dụng vào từng trường hợp, từng
mục đích sao cho phù hợp.
c. Về chức năng cú pháp:
Chức năng cú pháp là một trong những tiêu chí để phân biệt thành ngữ và
tục ngữ. Như đã nói ở trên, thành ngữ dù dài hay ngắn cũng khơng thể coi là một
câu hồn chỉnh mà chỉ có vai trị tương đương với từ. Chính vì vậy, để người nghe
nắm bắt được nội dung thì bắt buộc thành ngữ phải đi kèm với ngữ cảnh cũng như
gắn với một đối tượng nào đó. Tục ngữ thì khơng. Nó có thể đứng độc lập mà vẫn

làm người nghe hiểu đầy đủ nội dung và thơng điệp
của người nói. Chẳng hạn thành ngữ “Đen như cột nhà cháy” hay “Tối như mực”
chỉ có ý
nghĩa tương đương với một từ là “đen” và “tối”. Chính vì vậy chúng chưa phải là
một câu trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức. Để người nghe hiểu vấn
đề, ta cần phải thêm đối tượng (chủ ngữ). Ví dụ như: “Thằng Nam đen như cột
nhà cháy” hay “Trời tối như mực”.
Ở tục ngữ thì khác, nó vẫn có ý nghĩa khi đứng một mình. Cụ thể như:
“Chớp đơng nhay nháy, gà gáy thì mưa”
Khơng cần kết hợp với các từ khác, câu tục ngữ trên vẫn cho ta thấy được
một kinh nghiệm về thời tiết dựa vào những sự vật hiện tượng khách quan trong
cuộc sống.
Tương tự với câu tục ngữ:


“Đời cha ăn mặn đời con khát nước” 20
Dù đứng riêng lẻ thì câu trên vẫn nêu lên được một thông điệp là nếu cha mẹ
hay những người đi trước làm những điều khơng tốt thì sau này con cháu sẽ phải
chịu hậu quả cho những việc làm đó.
Như vậy, xét về chức năng cú pháp, thành ngữ chỉ có chức năng tương
đương với một từ, biểu thị một khái niệm, một đặc điểm, tính chất, cịn tục ngữ là
một câu trọn vẹn, mang ý nghĩa và thông điệp rõ ràng khi chỉ đứng một mình,
khơng cần sự hỗ trợ của các đơn vị ngôn từ khác.
Theo Vũ Ngọc Phan thì “Thành ngữ có ý nghĩa khơng những về một chiều, về
một mặt, nói lên tình trạng nhưng lại khơng kết thúc” cịn tục ngữ là “những câu
thơng tục thiên về diễn ý dựa theo kinh nghiệm, dựa theo luân lí và cơng lí để nhận
xét về con người và xã hội, hay dựa theo tri thức để nhận xét về con người và vũ
trụ. Trong tục ngữ có cả thành ngữ” [15; tr.22].
Nhận xét của Vũ Ngọc Phan phần nào đã phản ánh được tính phức tạp của việc
phân

định thành ngữ và tục ngữ. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài nghiên cứu, chúng
tôi sẽ không đi sâu vào việc tìm ra tiêu chí để phân định thành ngữ và tục ngữ mà
chỉ tập trung khai thác thành ngữ và tục ngữ ở góc độ ứng dụng, tức sự xuất hiện
của nó trong giao tiếp hàng ngày và trong văn chương.
Từ đó đã cho chúng ta thấy được một số nét khái quát về thành ngữ và tục ngữ.
Đó là những quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu về cách định nghĩa,
phân loại cũng như đặc điểm, tính chất của thành ngữ, tục ngữ.
Tổng hợp các quan điểm của các tác giả, ta có thể hiểu thành ngữ là một cụm
từ cố định mang chức năng định danh, biểu thị khái niệm nào đó một cách sinh
động, bóng bẩy dựa trên những hình ảnh, biểu tượng cụ thể. Thành ngữ được phân
chia thành hai dạng là thành ngữ so sánh và thành ngữ ẩn dụ. Mỗi loại thành ngữ
đều có đặc điểm cấu trúc riêng. Một số đặc điểm phân biệt giữa thành ngữ và các
thể loại khác như: tính cố định, bền vững về hình thái, cấu trúc; tính hồn chỉnh,
hàm súc, bóng bẩy về nghĩa.
Về tục ngữ, có thể hiểu đó là những câu nói ổn định, có cấu trúc bền vững
phản ánh những tri thức, kinh nghiệm đúc kết được của dân gian về thế giới tự
nhiên và xã hội. Ta có thể phân loại tục ngữ dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
Cách phân loại theo truyền thống tuy cụ thể và rõ ràng nhưng lại phân tục ngữ ra
khá nhiều tiểu loại nên có thể gây nhầm lẫn trong q trình sử dụng. Do đó, việc
phân loại tục ngữ theo cấu trúc đề - thuyết sẽ mang lại cái nhìn mới mẻ hơn. Dựa
trên phương pháp này, tục ngữ được phân chia thành hai loại: tục ngữ là những câu


đơn và tục ngữ là những câu ghép. Tục21ngữ có một số đặc điểm là: chắc gọn, từ
ngữ bình dị, sắc sảo, vần vè, xuôi tai.
Để phân biệt thành ngữ, ta có thể dựa vào ba tiêu chí: cấu trúc ngữ pháp, chức
năng biểu hiện, chức năng cú pháp. Về cấu trúc ngữ pháp, thành ngữ chỉ là cụm từ
có ý nghĩa tương đương với từ; còn tục ngữ là một câu hoàn chỉnh về cấu trúc và
đầy đủ về nội dung. Về chức năng biểu hiện, thành ngữ mang chức năng định danh
cho tính chất của sự vật, hiện tượng, nó chỉ là khái niệm. Cịn tục ngữ cũng định

danh cho sự vật, sự việc nhưng nó được đặt trong cảnh huống cụ thể, nó là những
phán đốn. Về chức năng cú pháp, thành ngữ cần phải kết hợp với các từ, cụm từ
khác để làm nên ý nghĩa cho câu, cịn tục ngữ có thể đứng độc lập mà vẫn làm
nghười nghe hiểu được nội dung và ý nghĩa.
Những nội dung trên đã mang lại cho chúng ta một cái nhìn tồn diện về thành
ngữ, tục ngữ cũng như biết cách sử dụng chúng sao cho phù hợp với nội dung, ngữ
cảnh và mục đích nói năng. Đó cũng là cơ sở để chúng ta biết cách phân biệt giữa
thành ngữ và tục ngữ.
- Thông qua các tiết dạy trong chương trình ngữ văn lớp 7 chúng tơi sẽ lồng ghép
cấu tạo, phân loại đặc điểm của từng loại để học sinh nắm rõ từng khái niệm, trên
cơ sở đó tiến hành phân biệt thành ngữ và tục ngữ, từ đó xây dựng một số tình
huống giao tiếp có thể sử dụng thành ngữ và tục ngữ để học sinh vận dụng và khắc
sâu kiến thức.
- Có thể xin ý kiến của tổ chuyên môn, BGH nhà trường mở chuyên đề “Phân
biệt thành ngữ và tục ngữ” để giúp học sinh một lần nữa khắc sâu hơn thế nào là
thành ngữ và tục ngữ.
- Trong quá trình dạy bài tục ngữ ở chương trình Ngữ văn lớp 7, giáo viên phối
hợp đưa thêm những câu thành ngữ từ đó giúp học sinh nhận diện và chỉ ra sự
giống và khác nhau:
* Giống nhau: đều chứa đựng và phản ánh tri thức của nhân dân về các sự vật
và hiện tượng của thế giới khách quan.
* Khác nhau:
+ Thành ngữ là tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường
khơng thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó.
Thí dụ:
Một nắng hai sương
Rán sành ra mỡ
Đâm ba chẻ củ
+ Tục ngữ là câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm
sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân.

Thí dụ:
Đói cho sạch, rách cho thơm


Một giọt máu đào hơn22ao nuớc lã.
Thừa người nhà mới ra người ngồi.
Bình diện nghiên cứu
Kết cấu ngữ pháp

Thành ngữ
Tục ngữ
- Cụm từ cố định tương - Câu hoàn chỉnh
đương với một từ
Chức năng văn học
- Chức năng thẩm mỹ
- Chức năng thẩm mỹ
- Chức năng nhận thức
- Chức năng giáo dục
Hình thức tư duy lơgich - Diễn đạt khái niệm,
- Diễn đạt phán đoán, khẳng
khái quát những hiện
định một thuộc tính của hiện
tượng riêng rẽ.
tượng
Chức năng của các - Chức năng định danh
Chức
năng
thơng
hình thức ngơn ngữ
thực hiện bởi các từ ngữ. báo thuộc lĩnh vực hoạt

động nhận thức.
- Hiện tượng thuộc lĩnh
- Hiện tượng ý thức xã hội,
vực ngôn ngữ.
văn hóa, tinh thần của nhân
dân.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
- Để giải quyết được những thực trạng trên cần sự cố gắng, trau dồi kiến thức và
sự tận tụy với nghề của từng giáo viên để tìm ra những phương pháp tối ưu giúp
học sinh khơng còn nhầm lần giữa thành ngữ và tục ngữ.
- Cần sự quan tâm hơn nữa của nhà trường, các bậc phụ huynh học sinh trong việc
quan tâm,
động viên các em học bài và đi học chuyên cần.
- Ngoài ra cũng cần có sự cố gắng nỗ lực khơng nhỏ từ phía học sinh, cần đầu tư
nghiêm túc hơn cho mục tiêu giáo dục. Yêu cầu học sinh cần học bài, nắm vững
các khái niệm, phân loại, đặc điểm của thành ngữ và tục ngữ để làm cơ sở phân biệt
hai loại này.
- Yêu cầu học sinh sưu tầm, tìm hiểu những câu thành ngữ và tục ngữ được sử
dụng trong
giao tiếp, trong đời sống ở trong từng hoàn cảnh cụ thể.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Cần thống nhất trong cách thực thực hiện các biện pháp trên cơ sở của những
biện pháp đã


đề ra. Cần phối hợp nhịp nhàng giữa23giáo viên với tổ chuyên môn, nhà trường
và cha mẹ học
sinh.
Trên cơ sở mỗi giải pháp cần đưa ra những biện pháp cụ thể như:
+ Giáo viên cần tìm ra cách thức gây hứng thú cho học sinh trong q trình học:

Trị chơi tìm thành ngữ và tục ngữ, tìm những hình ảnh sinh động mà thơng qua đó
học sinh có thể nhận diện được đó là thành ngữ hay tục ngữ nào….
+ Cần có những hình thức răn đe, giáo dục song cũng cần có phương pháp
khuyến khích khi học sinh khơng học bài và làm bài khi đến lớp.
+ Trong các phần luyện tập cần có những bài tập nhanh, bài tập phù hợp với đối
tượng học sinh yếu, kém nhằm khuyến khích khả năng học tập của các em….
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Với việc áp dụng đề tài “Phân biệt thành ngữ và tục ngữ trong chương trình ngữ
văn THCS” qua q trình giảng dạy tơi nhận thấy có rất nhiều thuận lợi khi giảng
dạy. Kết quả cụ thể như sau:
+ Học sinh đã dần dần biết phân biệt thành ngữ và tục ngữ, đã hiểu được vai trò
và ý nghĩa của thành ngữ và tục ngữ trong cuộc sống.
+ Kết quả của các kỳ thi lên lớp 8 môn Ngữ Văn của các em trường THCS
Nguyễn Trãi trong ba năm gần đây đều đạt 70% bài làm từ điểm 5 trở lên. Đây là
một kết quả khá cao so với các lớp còn lại trong khối.
+ Năm học 20.....-20..... trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải nhất và hai giải
khuyến khích mơn ngữ văn khối 7 cấp huyện.
+ Năm học 20.....-20..... trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải khuyến khích
mơn ngữ văn khối 7 cấp huyện.
+ Năm học 20.....-20..... trường THCS Nguyễn Trãi đạt một giải nhì và một giải ba
môn ngữ văn khối 7 cấp huyện.
Đây cũng là kết quả đã đạt được trong ba năm gần nhất tôi đảm nhiệm công tác
giảng dạy
môn Ngữ văn khối 7 trường THCS Nguyễn Trãi.
Trong năm học 20.....-20..... khi nghiên cứu đề tài này qua khảo sát chúng tôi thu
được kết quả như sau:
Trước khi vận dụng đề tài nghiên cứu vào thực tế giảng dạy các em khối lớp 7
trường THCS Nguyễn Trãi tơi thấy kết quả cịn hạn chế. Cụ thể như sau:
STT


Lớp

Sĩ số

1

7A1

34

Giỏi

Khá

Trung bình

Kém

Yếu

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

2

6%

27

79 %

5

15 %

0

0

0

0



2

7A4

34

0

0

3

24
9%

TC

68

2

3%

30

44,1 %

21


62 %

10

29 %

0

0

26

38,2%

10

14,7 %

0

0

Sau khi vận dụng đề tài nghiên cứu vào thực tế giảng dạy các em khối 7 trường
THCS Nguyễn Trãi, chúng tôi thực hiện khảo sát, thống kê được kết quả cụ thể như
sau:
STT

Lớp

Sĩ số


1

7A1

2

Giỏi

Khá

Trung bình

Kém

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

34

6

17,7 %

26

76,5 %

2

5 ,8 %

0

0

0

0

7A4


34

1

3 %

5

14,7 %

25

73,5 %

3

8,8 %

0

0

TC

68

7

10,3 %


31

45,6 %

27

39,7 %

3

4,4 %

0

0

Qua kết quả khảo nghiệm tôi thấy về kiến thức đại đa số học sinh đã nắm được
khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như ý nghĩa của thành ngữ và tục ngữ. Từ đó, các
em có thể phân biệt, vận dụng thành ngữ và tục ngữ vào trong đời sống hàng ngày
cũng như trong quá trình học tập. Một số bài làm đạt điểm trung bình hoặc yếu là
rơi vào các em học sinh đồng bào Ê-đê vì năng lực tư duy ngơn ngữ của các em có
phần hạn chế.
Về thái độ đa số các em đã có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt từ đó
dùng thành ngữ, tục ngữ đúng với từng hồn cảnh giao tiếp.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. KẾT LUẬN
Dù là sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong giao tiếp hàng ngày hay trong các tác
phẩm văn chương thì thành ngữ, tục ngữ cũng đã phát huy hết vai trò và tác dụng
của mình. Nó mang lại một hơi thở mới cho ngôn ngữ, xây dựng nên nghệ thuật

ngôn từ độc đáo và làm nổi bật nội dung cần nói đến. Chính vì thế, bên cạnh việc
gìn giữ và phát huy thành ngữ, tục ngữ, ta còn
phải sử dụng chúng một cách linh động, sáng tạo, đúng với từng hoàn cảnh giáo
tiếp tránh
tình trạng xác định sai loại tổ hợp từ trên để không làm mất đi giá trị ban đầu.
- Trên đây là một số giải pháp mà bản thân tôi thấy tự nên làm để phân biệt thành
ngữ, tục ngữ cho học sinh bậc THCS năm học 20.....-20..... và tiếp tục tìm hiểu
nghiên cứu trong những năm tiếp theo.


- Với kết quả khảo sát trên cùng với sự25hứng thú của học sinh trong các tiết học
chúng tôi cho rằng đề tài có khả năng thực thi khi áp dụng vào thực tế dạy học môn
Ngữ văn ở bậc THCS. Nó đánh dấu q trình học hỏi đúc rút kinh nghiệm của
mình. Vì vậy chúng tơi mạnh dạn đề xuất đề tài này với hi vọng sẽ đóng góp tích
cực cho việc nâng cao chất lượng bộ mơn Ngữ văn THCS.
Khi thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tơi rất mong nhận
được sự góp ý, bổ sung chân tình của các cấp lãnh đạo cùng các bạn bè đồng
nghiệp để những năm sau đạt được kết quả dạy và học tốt hơn.
III.2. Kiến nghị:
Để nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn bậc THCS nói chung và chất lượng
giờ dạy mơn Ngữ văn khối lớp 7 nói riêng theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy
học hiện nay. Với kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy trong q trình giảng dạy trên
đây, trong phạm vi đề tài này tôi cũng mạnh đề xuất một vài ý kiến nhỏ về việc
giúp các em phân biệt được thành ngữ và tục ngữ trong chương trình Ngữ Văn
THCS như sau:
* Về phía nhà trường: Nhà trường có thể mua thêm các tài liệu tham khảo,
quyển từ điển liên quan đến các thành ngữ, tục ngữ Việt Nam.
* Về phiá giáo viên: Biết lắng nghe thông tin và ý kiến đánh giá từ phía học
sinh, có kỹ
năng sư phạm để có thể vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy vào bài

học cho
phù hợp và đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó giáo viên cần tìm tịi, mở rộng vốn kiến
thức của bản thân, cung cấp thêm cho học sinh kiến thức mới để phục vụ cho việc
tiếp thu kiến thức.
* Về phía học sinh: Cần học bài và làm bài trước khi đến lớp, tích cực xây
dựng bài và tiếp thu tri thức mới để tiết học đạt được hiệu quả cao nhất.
Người thực hiện


×