Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.31 KB, 79 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
TÍNH THIẾT YẾU CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay khi hội nhập về kinh tế và xu thế quốc tế hoá đang là xu
hướng cơ bản của nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài
vòng xoáy của xu thế hội nhập kinh tế. Điều này được thể hiện thông qua
cải cách kinh tế từ năm 1986, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cùng với đó là sự
tham gia của nước ta vào các tổ chức kinh tế và đặt quan hệ thương mại với
nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt là năm 2006, nước
ta đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), điều
này đã mở ra rất nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các doanh nghiệp
trong nước.
Các doanh nghiệp của nước ta từ trước đến nay do vẫn được sự bảo
trợ của nhà nước nên chưa có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp.
Hiện nay, khi thực hiện chủ trương mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế
của Đảng và Nhà nước ta thì các doanh nghiệp trong nước đã gặp rất nhiều
khó khăn để duy trì sự tồn tại của mình trên thị trường. Lúc này, đã xuất
hiện rất nhiều các công ty nước ngoài có tiềm lực mạnh cũng tham gia vào
thị trường Việt Nam. Điều đó càng đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước
phải tìm ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh
của mình.
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia là một công ty tư nhân hình thành dưới
hình thức doanh nghiệp cổ phần, là một hình thức mới của nền kinh tế nước
ta hiện nay. Công ty cũng không nằm ngoài xu thế hội nhập hiện nay, Công
ty cũng đang rất nỗ lực tìm ra hướng đi vững chắc cho mình trong nền kinh
tế có nhiều sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Lĩnh vực kinh doanh vận
1
tải là một lĩnh vực có nhiều tiềm năng mà hiện nay Công ty mới chỉ là một
trong số ít các Công ty kinh doanh lĩnh vực này nên cũng có những thuận
lợi nhất định. Công ty đã có nhiều chú ý đến công tác quản lý nhằm đưa ra


hướng đi đúng đắn và vững mạnh cho công ty. Cùng với các kiến thức lý
luận được học ở trường và những kinh nghiệm thực tế tìm hiểu tại Công ty
cổ phần vận tải đa quốc gia, được sự giúp đỡ của cán bộ trong công ty và
đặc biệt là sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy giáo PST.TS Mai Văn Bưu, em
đã nghiên cứu và viết đề tài: “Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao
hiệu quả kinh doanh tại Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia”.
KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Chương I : Một số nội dung lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả kinh doanh tại Công ty cổ phần vận tải đa
quốc gia.
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả
Kinh doanh tại Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia.
2
Chương I: Một số nội dung lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp
I - Kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1. Kinh doanh của doanh nghiệp
1.1 Khái niệm về kinh doanh
Thuật ngữ kinh doanh có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau,
nhưng nói chung có thể định nghĩa như sau: Kinh doanh là các hoạt động
kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các chủ thể kinh doanh.
Từ định nghĩa trên có thể thấy hoạt động kinh doanh có các đặc điểm
chủ yếu như sau:
Hoạt động kinh doanh phải được thực hiện bởi một chủ thể nhất định
gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh có thể là cá nhân, hộ gia
đình hay một tổ chức.
Hoạt động kinh doanh phải diễn ra trên thị trường.Thị trường và kinh
doanh luôn đi đôi với nhau. Không có thị trường thì sẽ không có hoạt động
kinh doanh.

Kinh doanh còn gắn với sự vận động của nguồn vốn nhằm mang lại
các lợi ích kinh tế cho chủ thể kinh doanh. Như vậy chủ thể kinh doanh
không chỉ là người có vốn mà còn phải biết cách làm cho đồng vốn đó vận
động không ngừng và ngày càng tăng lên.
Ngoài ra còn cách hiểu khác về kinh doanh như sau: “ Kinh doanh là
việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”.
Theo định nghĩa này, một hành vi được coi là kinh doanh nếu nó đáp
ứng được các yêu cầu sau:
3
Hành vi đó phải mang tính chất nghề nghiệp nghĩa là chủ thể kinh
doanh khi thực hiện một hành vi kinh doanh là họ đã thực hiện nguyên tắc
phân công lao động xã hội. Họ sống bằng hành vi đó, được pháp luật thừa
nhận và bảo hộ.
Hoạt động kinh doanh phải diễn ra trên thị trường, theo quan điểm
marketing thì “ thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng
có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia
trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó”.
Mục đích của hoạt động kinh doanh là kiếm lời, dấu hiệu này cho
thấy hành vi kinh doanh chứa đựng khả năng và yêu cầu cần được thanh
toán mà người kinh doanh luôn theo đuổi mục đích tìm kiếm lợi nhuận
trong hoạt động của mình. Đây là dấu hiệu quan trọng để phân biệt hành vi
kinh doanh với các hoạt động khác như hoạt động quản lý nhà nước, hoạt
động từ thiện xã hội…
1.2 Vai trò của hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp
Kinh doanh là hoạt động cốt yếu của doanh nghiệp. Trong điều kiện
sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường thì để tồn tại và phát triển đòi
hỏi các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Để có kết quả cao nhất trong
sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định phương hướng

đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện sẵn có về các nguồn nhân tài và vật
lực. Muốn vậy các doanh nghiệp cần nắm được các nhân tố ảnh hưởng,
mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường thì phải dựa vào hoạt
động kinh doanh của mình và hơn thế nữa hoạt động kinh doanh đó phải có
lãi. Hoạt động kinh doanh có vai trò to lớn với không chỉ doanh nghiệp mà
cả người lao động và nhà nước. Khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và có
thể tồn tại trên thị trường thì trước tiên là bản thân doanh nghiệp sẽ có thể
4
tồn tại trên thị trường. Ngoài ra còn mang lại nguồn lợi cho các chủ sở hữu
doanh nghiệp, người lao động có việc làm và có thu nhập, nhà nước cũng
sẽ thu được các khoản thuế từ hoạt động của doanh nghiệp. Sự tồn tại của
doanh nghiệp góp phần tạo đà cho nền kinh tế phát triển hơn.
Do vậy hoạt động kinh doanh là nội dung cốt yếu đối với doanh
nghiệp và ngoài ra cũng tạo ra hiệu ứng tích cực với nền kinh tế.
2. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
2.1 Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
2.1.1 Khái niệm
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực
hiện các mục tiêu hoạt động mà chủ thể đưa ra và chi phí mà chủ thể phải
bỏ ra để có kết quả đó trong điều kiện nhất định.
Từ đó ta có công thức hiệu quả chung là:
Công thức hiệu quả tuyệt đối: E = K – C
Công thức hiệu quả tương đối: E = K / C
Trong đó: K là kết quả nhận được và được đo bằng các đơn vị khác nhau
C là chi phí bỏ ra và được đo bằng các đơn vị khác nhau
E là hiệu quả
Kết quả (K) mà chủ thể nhận được trong quá trình hoạt động của
mình càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Vì
vậy hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các

phương án hành động có lợi nhất.
Hiệu quả tài chính, còn gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu
quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp.
Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh
nghiệp nhận được với chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi
5
ích kinh tế đó. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh
nghiệp và các nhà đầu tư.
2.1.2 Các nguyên tắc xác định hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh được xác định dựa theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc 1: Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu với tiêu chuẩn
hiệu quả.
Theo nguyên tắc này thì tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở
các mục tiêu. Với những mục tiêu đặt ra khác nhau thì hiệu quả sẽ khác
nhau, khi mục tiêu thay đổi thì tiêu chuẩn hiệu quả cũng thay đổi. Tiêu
chuẩn hiệu quả được xem như là thước đo để thực hiện các mục tiêu.
+ Nguyên tắc 2: Nguyên tắc về sự thống nhất của lợi ích.
Một phương án được xem như là có hiệu quả khi nó kết hợp được
trong đó các loại lợi ích. Bao gồm trong đó là lợi ích của chủ doanh nghiệp,
lợi ích của xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
+ Nguyên tắc 3: Nguyên tắc về tính chính xác và tính khoa học.
Để đánh giá hiệu quả của các phương án thì cần phải dựa trên một hệ
thống các chỉ tiêu có thể lượng hoá đuợc và không lượng hoá được. Tức là
phải kết hợp được phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính.
Khi mà phân tích định lượng chưa đủ bảo đảm tính chính xác và chưa cho
phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm
thì ta không thể thay thế phân tích định lượng bằng phân tích định tính
được.
+ Nguyên tắc 4: Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế.

Theo như nguyên tắc này thì phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu
quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin đơn giản, thực tế
và dễ hiểu. Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi ta
6
chưa có được đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không
đảm bảo được độ chính xác.
2.2 Vai trò của hiệu quả kinh doanh
2.2.1 Hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu và công cụ của
quản trị doanh nghiệp
Để bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào được tiến hành thì con
người cần phải kết hợp yếu tố con người và yếu tố vật chất nhằm thực hiện
công việc phù hợp với ý đồ trong chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh
doanh của mình trên cơ sở những nguồn lực sẵn có. Để thực hiện được điều
này thì bộ phận quản trị doanh nghiệp sử dụng rất nhiều công cụ trong đó
có công cụ hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là
chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá
những điều mà doanh nghiệp đạt được sau khi bỏ ra một khoản chi phí để
thực hiện các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, hiệu quả
kinh doanh cao luôn là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp hiện nay.
Việc xem xét và tính toán hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không
chỉ cho biết việc sản xuất đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà
quản trị tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đạt được. Điều đó giúp
cho các nhà quản trị tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp
trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm
nâng cao hiệu quả.
Về bản chất, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực đầu vào. Do đó, xét trên phương diện lý luận và thực tiễn thì
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong
việc đánh giá, so sánh và phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối
ưu nhất để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Với vai trò là phương

tiện đánh giá và phân tích hiệu quả kinh tế, hiệu quả hoạt động sản xuất
7
kinh doanh không chỉ được sử dụng ở mức độ tổng hợp, đánh giá chung
trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào ở toàn bộ doanh nghiệp mà còn
đánh giá được trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn doanh
nghiệp cũng như đánh giá được từng bộ phận của doanh nghiệp.
2.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Các nguồn tài nguyên trên trái đất đều là hữu hạn và ngày càng cạn
kiệt, khan hiếm so hoạt động khai thác và sử dụng hầu như không có kế
hoạch của con người. Trong khi đó, mật độ dân số của từng vùng, từng
quốc gia ngày càng tăng và nhu cầu sử dụng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ
cũng ngày càng nhiều, càng đa dạng và đòi hỏi chất lượng càng cao. Sự
khan hiếm đó đòi hỏi con người phải có sự lựa chọn kinh tế nhất. Trước
đây khi trình độ phát triển còn thấp, con người đã lựa chọn sự phát triển
kinh tế theo chiều rộng, tức là tăng trưởng kết quả sản xuất trên cơ sở gia
tăng các yếu tố sản xuất. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khi đời sống
con người được nâng cao về chất lượng, cùng với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật ngày càng có nhiều phương pháp khác nhau để tạo ra sản
phẩm dịch vụ, cho phép cùng những nguồn lực đầu vào nhất định, người ta
có thể tạo ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Đó là sự phát triển theo
chiều dọc nhường chỗ cho sự phát triển theo chiều sâu, sự tăng trưởng kết
quả kinh tế của sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất
về mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới, hoàn
thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh tế. Nói một cách khái quát đó là nhờ
vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường việc giải quyết ba vấn đề kinh tế: sản xuất
cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào được quyết định theo quan hệ
cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Doanh nghiệp phải tự
mình đưa ra chiến lược kinh doanh và chịu trách nhiệm với kết quả kinh
8

doanh của mình, lúc này mục tiêu lợi nhuận trở thành mục tiêu quan trọng
mang tính chất quyết định. Trong điều kiện các nguồn lực khan hiếm thì
việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là yếu tố tất yếu đối
với mọi doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp còn luôn phải chịu sự cạnh
tranh khốc liệt trên thị trường, nên để tồn tại và phát triển được, phương
châm của các doanh nghiệp luôn phải là không ngừng nâng cao chất lượng
và năng suất lao động, dẫn đến việc tăng năng suất là tất yếu.
2.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
2.3.1 Thu nhập trên tài sản
Chỉ tiêu thu nhập trên tài sản được tính như sau:
Thu nhập trên tài sản Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT)
(ROA) Tổng giá trị tài sản bình quân
Trong đó: Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính(EBIT) lấy số liệu
từ báo cáo kết quả kinh doanh được xác định bằng lợi nhuận kế toán trước
thuế cộng với chi phí tài chính.
Tổng giá trị tài sản bình quân Tổng TS đầu kỳ + Tổng TS cuối kỳ
2
Tổng giá trị tài sản được lấy số liệu từ bảng cân đối kế toán.
Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đồng tài sản tham gia vào quá
trình hoạt động của doanh nghiệp thì sẽ tạo ra bao nhiêu lợi nhuận trước
thuế và chi phí tài chính. Chỉ tiêu thu nhập trên tài sản cho phép đánh giá
thực trạng hoạt động của doanh nghiệp từ số liệu của báo cáo tài chính.
Thu nhập trên tài sản là chỉ tiêu quan trọng cho biết vấn đề nằm ở
đâu thông qua nghiên cứu hai nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập trên tài sản
là lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT) và tổng giá trị tài sản
bình quân. Hai nhân tố này có quan hệ thương số nên có thể sử dụng
phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến thu nhập
9
trên tài sản, ta cũng có thể sử dụng kỹ thuật phân tích độ nhạy để kiểm tra
sự thay đổi của ROA khi một trong hai hoặc cả hai cùng biến động.

Có thể triển khai công thức thu nhập trên tài sản như sau:
Thu nhập trên EBIT EBIT Doanh thu thuần
TS Tổng TS bình quân Doanh thu thuần Tổng TS bình quân
Mà Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT)
Doanh thu thuần
Thể hiện mức lợi nhuận trên doanh số bán ra khi tiến hành kinh doanh,
thường được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tính bằng %.
Doanh thu thuần
Tổng giá trị TS bình quân
thể hiện mức doanh thu được tạo ra trên tổng tài sản của doanh nghiệp.
Nó còn cho biết vòng quay của tài sản mà doanh nghiệp sử dụng bình quân.
Từ việc triển khai chỉ tiêu thu nhập trên tài sản cho thấy thu nhập
trên tài sản phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận tính trên doanh thu và vòng
quay của tài sản. Để tăng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản thì về mặt lý thuyết
có thể tác động làm tăng một trong hai hoặc cả hai là tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu và vòng quay tài sản. Nếu như tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
nhỏ thì có thể gia tăng vòng quay tài sản và ngược lại. Tuy nhiên, trong cơ
chế thị trường có sự cạnh tranh thì việc gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu không phải là điều dễ thực hiện.
Trường hợp cả tỷ suất lợi nhuận lẫn vòng quay tài sản đều thấp thì
điều đó có nghĩa doanh nghiệp đang có vấn đề cần xử lý. Từ đó cần có
những biện pháp phù hợp để giúp doanh nghiệp có thể tăng trưởng ở các
thời kỳ sau đó.
2.3.2 Thu nhập trên vốn chủ (ROE)
10
Chỉ tiêu thu nhập trên vốn chủ được tính theo công thức sau:
Thu nhập trên vốn chủ Lợi nhuận sau thuế (LN
st
)
(ROE) Vốn chủ sở hữu bình quân (VC)

Trong đó: Lợi nhuận sau thuế lấy số liệu từ báo cáo kết quả kinh doanh
chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế.
Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu đầu kỳ + Vốn chủ sở hữu cuối kỳ
bình quân 2
Vốn chủ sở hữu đầu kỳ và cuối kỳ được lấy số liệu từ bảng cân đối kế
toán.
Chỉ tiêu thu nhập trên vốn chủ phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở
hữu của doanh nghiệp, nó cho biết bình quân một đồng vốn chủ sở hữu bỏ
vào kinh doanh bình quân trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Phân tích chỉ tiêu vốn chủ có thể triển khai công thức trên trong mối
quan hệ với tỷ suất lợi nhuận sau thuế, vòng quay tài sản và cấu trúc tài
chính. Cách triển khai được công thức như sau:
ROE LN
st
LN
st
DT TS
VC DT TS VC
(1) (2) (3)
Trong công thức trên:
(1) : Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần
(2) : Hệ số quay vòng tài sản
(3) : Hệ số tài sản
Từ phương trình trên cho thấy công thức (1) thể hiện đòn bẩy tài chính
phản ánh chính sách tài chính, các hệ số còn lại phản ánh tình hình hoạt
động của doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn chủ phụ thuộc vào ba nhân tố trên, nếu một
hoặc ba hệ số trên thay đổi thì hiệu quả sử dụng vốn cũng sẽ thay đổi theo.
11
Điều đó cho thấy rằng muốn có hiệu quả sử dụng vốn cao thì tốt nhất là tác

động vào (1) và (2) tức là cải thiện tình hình hoạt động, nếu không thì phải
chuẩn bị phương án thay đổi chính sách tài chính.
2.3.3 Hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn được tính toán chủ yếu qua hệ số doanh lợi
của vốn kinh doanh, công thức tính như sau:
HSDLVKD = ∏ / V
Trong đó: HSDLVKD : hệ số doanh lợi vốn kinh doanh
∏ : lợi nhuận
V : vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết khi bỏ ra một đồng vốn kinh doanh thì sẽ mang
lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này so với các doanh nghiệp khác
hoặc so với các kỳ khác càng cao càng chứng tỏ khả năng sinh lợi của
doanh nghiệp ngày càng cao, hiệu quả kinh doanh càng lớn và ngược lại.
- Ngoài ra còn có công thức tính hệ số doanh lợi của doanh thu thuần như
sau:
HSDLDTT = ∏ / DTT
Trong đó: HSDLDTT : hệ số doanh lợi doanh thu thuần
∏ : lợi nhuận của doanh nghiệp
DTT : doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu thuần sẽ mang lại mấy
đồng lợi nhuận. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ khả năng sinh
lợi của vốn càng cao, hiệu quả kinh doanh càng lớn và ngược lại.
2.3.4 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định hay tài sản cố định
12
Giá trị bình quân của tài sản cố định trong kỳ là tổng giá trị còn lại
của tài sản cố định và được tính theo nguyên giá của tài sản cố định sau khi
trừ đi phần hao mòn luỹ tiến đến kỳ tính toán. Để phân tích hiệu quả sử
dụng tài sản cố định thì sử dụng hai công thức tính toán sau:
- Tính sức sản xuất của tài sản cố định:
SSXTSCĐ = DT / nguyên giá TSCĐ

Trong đó : SSXTSCĐ : sức sản xuất tài sản cố định
DT : doanh thu
Chỉ tiêu này cho ta biết cứ một đồng giá trị tài sản cố định trong kỳ
tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Sức sản xuất của tài sản cố định
càng lớn thì càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng tăng và
ngược lại.
- Tính sức sinh lợi của tài sản cố định:
SSLTSCĐ = LNST / nguyên giá bình quân TSCĐ
Trong đó: SSLTSCĐ : sức sinh lợi tài sản cố định
LNST : lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết đơn vị nguyên giá bình quân của tài sản cố định
đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng lớn thì chứng
tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng cao và ngược lại. Khi nghiên cứu
hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể thấy các nguyên nhân của việc sử
dụng vốn cố định không có hiệu quả thường là đầu tư tài sản cố định quá
mức cần thiết, tài sản cố định không sử dụng chiếm tỷ trọng lớn và sử dụng
tài sản cố định với công suất thấp hơn mức cho phép.
2.3.5 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Chỉ tiêu này được phản ánh qua hai chỉ tiêu:
- Sức sản xuất của tài sản tài sản lưu động:
SSXTSLĐ = tổng giá trị sản xuất / tài sản lưu động bình quân
13
Trong đó: SSXTSLĐ : sức sản xuất tài sản lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị tài sản lưu động bình quân sẽ đem lại
mấy đơn vị tổng giá trị sản xuất. Sức sản xuất của tài sản lưu động càng lớn
thì hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng cao và ngược lại.
- Sức sinh lợi của tài sản lưu động:
SSLTSLĐ = LNST / tài sản lưu động bình quân
Trong đó: LNST : lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị tài sản lưu động bình quân đem lại

bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng chứng tỏ
khả năng sử dụng tài sản lưu động càng cao và ngược lại.
II – Các nhân tố quản lý ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp
1. Các nhân tố quản lý theo quá trình
1.1 Chiến lược và sách lược kinh doanh
1.1.1 Lập chiến lược kinh doanh
Lập chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình quản trị
nhằm tạo ra và duy trì sự ăn khớp về chiến lược giữa các mục tiêu, khả năng
của doanh nghiệp với các cơ hội marketing đầy biến động.
Quá trình lập chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các
nội dung sau:
+ Xác định cương lĩnh của doanh nghiệp: Cương lĩnh của doanh nghiệp là
phương châm hành động mà doanh nghiệp luôn theo đuổi. Cương lĩnh định
hướng hoạt động và mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Đề ra nhiệm vụ của doanh nghiệp: Cương lĩnh của doanh nghiệp cần được
cụ thể hoá thành các nhiệm vụ rõ ràng.
+ Kế hoạch phát triển các lĩnh vực kinh doanh: Để lập chiến lược kinh
doanh chung của doanh nghiệp thì cần phải đánh giá hoạt động của từng bộ
14
phận, nhãn hiệu, chủng loại hàng hoá…Sau đó cần đánh giá nhằm phát hiện
khả năng sinh lời của từng bộ phận, từng chủng loại hàng hoá, từng nhãn
hiệu và từng mặt hàng…Từ đó sẽ có kế hoạch phát triển hay thu hẹp bộ
phận, hàng hoá nào đó để phân bổ nguồn lực cho hợp lý.
Để có được sự đánh giá chính xác cần dựa vào các chỉ tiêu
xem xét sau:
+ Qui mô, sự tăng trưởng của thị trường
+ Khả năng cạnh tranh về giá cả và sản lượng của doanh nghiệp
+ Chiến lược phát triển của doanh nghiệp
+ Mức độ am hiểu thị trường

+ Mức lợi nhuận thu được từ thị phần đó
Từ những sự xem xét đánh giá trên thì doanh nghiệp có thể
phát triển theo ba hướng như sau:
+ Chiến lược phát triển hợp nhất
+ Chiến lược phát triển theo chiều sâu
+ Chiến lược phát triển theo chiều rộng
1.1.2 Quản lý chiến lược
Quản lý chiến lược được hiểu là quá trình nghiên cứu các môi trường
hiện tại cũng như tương lai, hoạch định các mục tiêu của tổ chức. Đề ra,
thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quyết định nhằm đạt được các mục
tiêu đó trong môi trường hiện tại cũng như tương lai.
Hay quản lý chiến lược còn được hiểu là một quá trình quản lý bao
gồm lập kế hoạch chiến lược và thực thi chiến lược đó.
Vậy quản lý chiến lược có thể phân thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Lập kế hoạch chiến lược gồm việc xác định mục tiêu và hình
thành chiến lược.
15
Giai đoạn 2: Thực hiện chiến lược gồm việc quản lý hành chính và kiểm tra
chiến lược.
Việc xác định mục tiêu nhằm mục đích chính là chuyển hoá sứ mệnh
và định hướng của tổ chức thành cái cụ thể để đo lường kết quả hoạt động
của tổ chức trong ngắn hạn và dài hạn. Ngoài ra để xác định được mục tiêu
còn cần căn cứ vào các nguồn lực hiện tại và nguồn lực tương lai có thể huy
động được. Việc xác định mục tiêu được đặt ra cho tất cả các nhà quản lý và
các bộ phận của tổ chức.
Mục tiêu chính và mục tiêu chiến lược là hai mục tiêu quan trọng
hàng đầu với tổ chức. Mục tiêu tài chính quan trọng vì kết quả của hoạt
động tài chính khả quan là điều cốt yếu đối với sự sống còn của tổ chức.
Mục tiêu của chiến lược là rất cần thiết vì nó chỉ ra định hướng phát triển
nhằm giúp cho tổ chức khẳng định được vị trí của mình trong môi trường

hoạt động.
Chiến lược hình thành chính là công cụ quản lý để có thể thực hiện
các mục tiêu chiến lược nhiệm vụ, hình thành chiến lược được bắt đầu với
việc phân tích thực trạng bên trong và bên ngoài tổ chức.
Việc thực hiện chiến lược liên quan trước tiên tới công tác quản lý
hành chính, công tác này bao gồm các công việc như sau:
+ Xây dựng một tổ chức có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện thành
công chiến lược.
+ Xây dựng ngân sách để phân chia các nguồn lực cho mọi hoạt động của tổ
chức.
+ Động viên, khuyến khích con người trong tổ chức nhằm thu hút họ hăng
hái theo đuổi các mục tiêu đề ra của tổ chức.
+ Ban hành một số chính sách và thủ tục nhằm hỗ trợ chiến lược.
16
+ Mục đích của quản lý hành chính là cố gắng tạo ra sự gắn kết giữa cách
thức sử dụng với phong cách làm việc để tạo hiệu quả cao.
+ Kiểm tra chiến lược nhằm theo dõi và đánh giá hướng đi hiện tại của tổ
chức, những biến động của môi trường và ảnh hưởng của biến động đó đối
với tổ chức.
Như vậy quản lý chiến lược là một quá trình liên tục. Sự biến đổi của
những yếu tố bên trong và bên ngoài của tổ chức là động lực cho những
điều chỉnh chiến lược.
1.2 Tổ chức quản lý kinh doanh
Việc tổ chức quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp được thể hiện là
cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức là tập hợp các vị trí công
tác, các bộ phận, phân hệ của tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
theo những tính quy luật nhất định nhằm thực hiện các hoạt động của tổ
chức để đạt được các mục tiêu và mục đích của tổ chức.
Cơ cấu tổ chức có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp lựa chọn được một cơ cấu tổ

chức phù hợp sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác một cách hiệu
quả các nguồn lực, tận dụng tối đa các ưu điểm và hạn chế đến mức thấp
nhất các nhược điểm của tổ chức để có được mức lợi nhuận cao nhất và
hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ đạt được mức tối đa. Do vậy, để hoàn thiện
cơ cấu tổ chức cần tuân theo các yêu cầu sau:
+ Tính tối ưu
+ Tính thống nhất trong mục tiêu
+ Tính linh hoạt
+ Tính tin cậy
+ Tính hợp lý
+ Tính hiệu quả
17
Mỗi một doanh nghiệp đều có một cơ cấu tổ chức riêng phù hợp với
đặc điểm của doanh nghiệp mình như về loại hình hoạt động, phạm vi hoạt
động, tính chất hoạt động…Như vậy, khi đã lựa chọn được một mô hình cơ
cấu tổ chức phù hợp với doanh nghiệp mình sẽ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp hoạt động tốt nhất, thông tin được truyền đạt nhanh chóng và hiệu
quả, mỗi người sẽ biết được quyền hạn, trách nhiệm của mình, điều đó sẽ
làm cho hiệu quả công việc tăng lên và hiệu quả sản xuất kinh doanh được
nâng lên. Để có được một cơ cấu tổ chức đáp ứng được tất cả các yêu cầu
trên là điều khó có thể thực hiện được. Vì vậy mà các doanh nghiệp cần
phải lựa chọn loại hình cơ cấu phù hợp nhất để có thể tận dụng được những
ưu điểm của loại hình đó và phải tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo
hướng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.3 Lãnh đạo, điều hành kinh doanh
Lãnh đạo là một thuật ngữ đa nghĩa, có thể hiểu về lãnh đạo theo các
khái niệm sau:
Lãnh đạo là quản lý mang tính định hướng, lãnh đạo thực hiện chức
năng cơ bản: Quyết định sứ mệnh, tầm nhìn và chiến lược cho tổ chức.
Quyết định mô hình cơ cấu tổ chức tổng quát, quyết định người đứng đầu

bộ máy quản trị( bộ máy hành chính) của tổ chức. Và giám sát hoạt động
của tổ chức.
Người lãnh đạo là người đứng đầu một hệ thống và chịu trách nhiệm
hoàn toàn về hoạt động của hệ thống trước môi trường và bản thân nó.
Công tác lãnh đạo, điều hành kinh doanh là việc mà người lãnh đạo
giữ vị trí vạch ra đường lối, mục đích của hệ thống, họ khống chế và chi
phối hệ thống, hướng hệ thống hoạt động theo hướng sao cho có hiệu quả
nhất. Công tác lãnh đạo đóng một vai trò quan trọng, công việc của người
lãnh đạo có thể đem lại sự thành công hay thất bại của cả một hệ thống bởi
18
nếu họ vạch ra được một đường lối hoạt động đúng đắn thì hệ thống sẽ hoạt
động nhịp nhàng, có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ phận từ đó tạo ra một
hiệu quả hoạt động cao. Ngược lại, nếu họ không vạch ra được một đường
lối đúng đắn thì cả hệ thống sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng, sẽ dẫn đến
nội bộ hoang mang, thiếu lòng tin ở người lãnh đạo và tất yếu sẽ làm giảm
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Do vậy, khi thực hiện công tác lãnh đạo đòi hỏi phải có các cách thức
tác động phù hợp và có chủ đích của người lãnh đạo lên con người với các
biện pháp, nguồn lực thích hợp để đạt được mục tiêu cuối cùng đã đề ra. Có
như vậy thì mới có thể nâng cao được năng suất lao động và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Người lãnh đạo sẽ tác động lên con
người thông qua một số công cụ sau:
+ Tạo động lực về kinh tế: bằng việc dùng chính sách về tiền lương,
tiền thưởng và các khoản thu nhập khác nhằm thúc đẩy người lao động làm
việc có hiệu quả hơn, đồng thời tạo tâm lý ổn định và gắn bó với doanh
nghiệp. Đây là phương pháp rất quan trọng và gắn bó thiết thực đến quyền
lợi của người lao động. Do đó, nó cần được chú trọng và quan tâm hơn nữa
để phát huy cao độ tính tích cực, sự hăng say làm việc của người lao động.
+ Tạo động lực thông qua xây dựng văn hoá và môi trường làm việc
của doanh nghiệp: Ngoài động lực kinh tế, người lao động còn có nhu cầu

được làm việc trong một môi trường văn hoá, chuyên nghiệp, bầu không
khí làm việc cởi mở, thân thiện, dân chủ và tôn trọng con người. Trong thời
gian gần đây, phương pháp tạo động lực và tâm lý hăng say lao động của
nhân viên rất được các doanh nghiệp chú trọng.
+ Các chế độ chính sách: Thông qua các chính sách ngắn hạn và dài
hạn, doanh nghiệp thúc đẩy và khuyến khích người lao động cố gắng làm
việc đạt hiệu quả cao và ngày càng gắn bó với doanh nghiệp. Ví dụ như
19
chính sách thưởng thành tích và thưởng sáng kiến, các kế hoạch về tham
quan du lịch cuối năm, đặc biệt là công tác thi đua, khen thưởng cuối năm
đối với những đơn vị và cá nhân có thành tích cao trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Từ việc nghiên cứu các tác công cụ tác động tới tinh thần làm việc
của người lao động mà người lãnh đạo doanh nghiệp sẽ lựa chọn các cách
thức tác động tối ưu nhất. Thông qua các công cụ và phương pháp tạo động
lực của doanh nghiệp đã tạo tâm lý cho nhân viên an tâm làm việc, ngày
càng gắn bó với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra,
phương pháp tạo động lực của doanh nghiệp cũng làm cho hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên không ngừng và từ đó lợi nhuận
của doanh nghiệp cũng được tăng lên.
1.4 Kiểm soát, kiểm tra quá trình kinh doanh
Kiểm soát là quá trình giám sát, đo lường, đánh giá và điều chỉnh sự
thực hiện nhằm đạt được kế hoạch của tổ chức với hiệu lực và hiệu quả cao
trong điều kiện môi trường luôn luôn biến động.
Mục đích của quá trình kiểm tra, kiểm soát là làm cho các hoạt động
đạt kết quả tốt hơn, đồng thời kiểm tra giúp phát hiện ra những sai sót, lệch
lạc để có biện pháp khắc phục đảm bảo cho các hoạt động được thực hiện
đúng hướng. Khi thiết lập hệ thống kiểm tra, các nhà quản lý phải xác định
sự cân đối tốt nhất giữa kiểm tra và quyền tự do của cá nhân, giữa chi phí
để kiểm tra và lợi ích do hệ thống này đem lại cho tổ chức.

Nếu nhà quản lý quá coi trọng kiểm tra mà không coi trọng quyền tự
do cá nhân thì việc kiểm tra sẽ trở thành áp lực đối với cá nhân. Và khi đó
các cá nhân trong doanh nghiệp sẽ làm việc một cách đối phó, không có
tinh thần sáng tạo, hăng say trong công việc. Hơn nữa, nếu người quản lý
quá coi trọng quyền cá nhân mà không chú ý tới việc kiểm tra dễ làm cho
20
công nhân viên trong doanh nghiệp làm việc ỷ lại, thiếu tinh thần làm việc
tập thể, không có trách nhiệm…Cả hai cách làm trên là không hợp lý và
đều làm cho năng suất lao động giảm, hiệu quả sản xuất kinh doanh không
cao.
Nhà quản lý cũng cần phải tính toán sao cho hợp lý giữa chi phí bỏ
ra cho quá trình kiểm tra và lợi ích do việc này đem lại. Nếu tính toán
không hợp lý sẽ dẫn đến việc làm suy giảm quỹ tài chính của tổ chức. Mặt
khác, nếu việc kiểm tra không hợp lý sẽ làm cho cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp bị áp lực, luôn lo sợ sẽ bị kiểm tra đột xuất, làm cho
hiệu quả sản xuất kinh doanh không được cao.
Vì vậy, đối với công tác kiểm tra, kiểm soát người quản lý phải có
những kế hoạch cụ thể để biến công tác kiểm tra thành cơ sở cho việc phát
hiện những hạn chế, những tồn tại để kịp thời tháo gỡ và sửa chữa. Có như
vậy mới làm cho công tác kiểm tra thật sự có ích, có hiệu quả và điều đó sẽ
góp phần nâng cao niềm tin nơi cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp
cũng như góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
2. Các nhân tố quản lý lĩnh vực
2.1 Quản lý marketing
2.1.1 Khái niệm
Trước khi tìm hiểu về hoạt động quản lý marketing trong doanh
nghiệp cần nắm được khái niệm về marketing. Cùng với sự phát triển của
sản xuất kinh và tiêu dùng xã hội đã có nhiều định nghĩa về marketing ra
đời. Khi mới ra đời tư tưởng của marketing truyền thống là các doanh

nghiệp dựa vào nguồn lực, thiết bị hiện có để tạo ra sản phẩm và sau đó cố
gắng bán chúng trên thị trường. Tức là doanh nghiệp cố gắng bán những gì
mình có mà chưa chú ý đến nhu cầu thị trường. Từ đó có quan niệm về
21
marketing truyền thống là: Marketing là hoạt động kinh tế trong đó người
bán cố gắng đưa hàng hoá của mình đến người tiêu dùng, hay nói cách
khác marketing là hoạt động kinh doanh liên quan trực tiếp đến dòng vận
động hàng hoá dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
Đến những năm 60 của thế kỷ XX, khi mà bối cảnh thị trường có
nhiều thay đổi cơ bản: lượng cung lớn hơn cầu dẫn đến khủng hoảng trên
thị trường và cùng với nó là sự bắt đầu diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa
các nhà sản xuất, kinh doanh. Khi đó quan niệm cũ bị phá bỏ, mở đường
cho quan niệm mới về marketing hiện đại ra đời.Tư tưởng cơ bản của
marketing hiện đại là xuất phát từ nhu cầu của khách hàng để định hướng
cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Marketing hiện đại cho
rằng “ Marketing là sự phân tích, tổ chức, kế hoạch hoá và kiểm tra những
khả năng câu khách của một công ty cũng như những chính sách và những
hoạt động với quan điểm thoả mãn nhu cầu về mong muốn của nhóm khách
hàng đã chọn”.(4)
Từ các khái niệm trên về marketing thì hoạt động quản lý marketing
có thể được hiểu là việc phân tích, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và
kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các biện pháp đồng bộ nhằm thiết lập, duy
trì, củng cố phát triển các mối quan hệ thương mại, mua bán hàng hoá dịch
vụ thoả mãn tối ưu các nhu cầu của khách hàng đồng thời đạt được hiệu
quả kinh doanh mong muốn.
2.1.2 Các nội dung cơ bản của quản lý marketing
Quá trình quản lý marketing được thực hiện như sau:
a) Phân tích khả năng của thị trường
Bất kỳ một công ty nào cũng đều phải biết cách phát hiện ra những
khả năng mới mở ra của thị trường. Bởi không một công ty nào có thể tồn

tại mãi khi chỉ sản xuất ra những loại hàng hoá nhất định và ở trên một thị
22
trường nhất định. Các công ty luôn phải tìm kiếm những khả năng thị
trường mới cho mình. Để có thể phát hiện và đánh giá những khả năng đó
thì các công ty phải làm được những công việc như:
- Phát hiện thị trường mới: Công ty có thể thỉnh thoảng hoặc thường xuyên
tìm kiếm những khả năng mới. Nhiều công ty chỉ tìm kiếm những ý tưởng
mới chỉ bằng cách chăm chú theo dõi những biến động trên thị trường, một
số công ty khác phát hiện thị trường mới bằng những phương pháp chính
thức. Dù bằng phương pháp này hay phương pháp khác, các công ty cố
gắng tìm kiếm những cơ hội thị trường mới để có thể phát huy những lợi
thế sẵn có và tồn tại lâu dài.
- Đánh giá khả năng của marketing: khả năng marketing của công ty là
phương hướng của ngôn ngữ marketing mà từ đó một công ty cụ thể có thể
giành được ưu thế cạnh tranh. Trong bước này, người quản lý marketing
cần phải biết cách đi đúng hướng để tìm ra được những thị trường mới phù
hợp với tính chất hoạt động và kinh doanh của công ty.
b) Lựa chọn thị trường mục tiêu
Quá trình phát hiện và đánh giá những khả năng của thị trường thường nảy
ra nhiều mục tiêu mới. Nhiều khi nhiệm vụ thực sự của công ty lại là lựa
chọn những ý tưởng tốt nhất, phù hợp nhất trong số những ý tưởng tốt.
Ngoài ra còn cần phải nghiên cứu từng khả năng từ khía cạnh qui mô và
tính chất của thị trường. Quá trình này gồm bốn giai đoạn:
+ Đo lường và dự báo mức cầu
+ Phân khúc thị trường
+ Lựa chọn những thị trường mục tiêu
+ Xác định vị trí của mặt hàng trên thị trường
c) Thiết kế hệ thống Marketing – Mix
23
Marketing – Mix là một tập hợp những yếu tố biến động kiểm soát

được của marketing mà công ty sử dụng để cố gắng gây được phản ứng
mong muốn từ phía thị trường mục tiêu. Marketing – Mix có thể được tóm
tắt dưới dạng sơ đồ sau:
Marketing - Mix
Hàng hoá phân phối
Giá cả Khuyến mãi
Với các nhân tố của quản lý:
+ Quản lý sản phẩm: sản phẩm muốn được người mua chấp nhận thì nó
phải có chất lượng và tính năng tốt, phù hợp với thị hiếu và được người
mua chấp nhận. Các công ty cần phải chú ý để tạo ra những sản phẩm mà
thị trường cần chứ không phải cố gắng bán những gì mình có. Người quản
lý marketing cũng cần phải hiếu được chu kì sống của sản phẩm để đưa ra
những chiến lược marketing phù hợp.
+ Quản lý về giá: gía cả có một vai trò rất lớn đối với hoạt động của doanh
nghiệp. Gía cả là một bộ phận cấu thành marketing hỗn hợp và là công cụ
cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp. Đối với người tiêu dùng thì giá cả
có ảnh hưởng lớn tới quyết định mua hàng hoá dịch vụ của họ. Vì thế, việc
định giá sản phẩm phải đảm bảo bù đắp đủ chi phí, doanh nghiệp có lãi và
người tiêu dùng chấp nhận trong điều kiện thị trường luôn biến động với
nhiều cạnh tranh gay gắt.
+ Quản lý chiêu thị: Chiêu thị là hoạt động xúc tiến bán hàng của doanh
nghiệp trên thị trường nói chung và thị trường mục tiêu nói riêng của doanh
nghiệp. Mục tiêu của doanh nghiệp là nhằm bán hết được số sản phẩm đã
sản xuất ra trong trường hợp có nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
24
Nội dung hoạt động chiêu thị của doanh nghiệp: Quảng cáo, xúc tiến bán
hàng là các hoạt động gây mối liên hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng,
hỗ trợ bán hàng để có thể bán hết sản phẩm trên thị trường.
+ Quản lý phân phối: phân phối là toàn bộ hoạt động nhằm đưa sản phẩm
từ nơi sản xuất đến khách hàng một cách tốt nhất.

d) Thực hiện các biện pháp marketing
Việc phân tích các khả năng của thị trường, lựa chọn thị trường mục
tiêu, xây dựng marketing – mix và thực hiện nó đòi hỏi phải có những hệ
thống quản trị marketing phụ trợ. Cụ thể công ty phải có những hệ thống
thông tin marketing, lập kế hoạch marketing, tổ chức phục vụ marketing và
kiểm tra marketing.
2.2 Quản lý hoạt động nghiên cứu và phát triển
2.2.1 Khái niệm
Hoạt động nghiên cứu và phát triển được chia ra làm ba loại:
Nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu được tiến hành nhằm phát
hiện ra những thuộc tính mô tả bản chất bên trong của các hiện tượng hay
sự kiện mà người ta quan sát được. Nghiên cứu cơ bản chưa được gắn với
một mục đích, một mục tiêu ứng dụng cụ thể nào cả.
Nghiên cứu ứng dụng cũng nhằm để phát hiện ra những tri thức mới,
hiểu biết mới nhưng nó lại gắn với một mục đích hoặc mục tiêu ứng dụng
nào đó trong sản xuất hoặc cuộc sống.
Triển khai thực nghiệm hay được gọi một cách đơn giản là triển
khai, đề cập tới các công việc được tiến hành một cách có hệ thống nhằm
vận dụng những thành quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn vào việc
sản xuất ra những vật liệu, sản phẩm, thiết bị mới hay là vào việc lắp đặt
các hệ thống, quy trình mới để nâng cấp hệ thống đang được sử dụng.
25

×