Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.57 KB, 24 trang )

PHẦN I: TRẮC NGHIỆM
1. C

2. D

3. C

4. B

5. D

6. B

7. C

8. B

9. D

10. C

11. C

12. A

13. D

14. D

15. B


16. C

17. B

18. A

19. D

20. A

21. C

22. D

23. A

24. B

25. D

26. B

27. B

28. B

29. B

30. B


31. B

32. B

33. B

34. C

35. C

36. B

37. B

38. B

39. C

40. A

41. C

42. C

43. B

44. B

45. D


46. C

47. C

48. A

49. B

50. C

51. B

52. D

53. A

54. C

55. B

56. B

57. B

58. B

59. B

60. B


61. B

62. B

63. B

64. B

65. B

66. B

67. B

68. B

69. B

70. B

71. B

72. B

73. B

74. B

75. B


76. B

77. C

78. D

79. B

80. A

81. B

82. B

83. C

84. B

85. D

86. C

87. B

88. A

89. C

90. C


91. B

92. C

93. C

94. B

95. C

96. A

97. D

98. A

99. D

100. B

101. B

102. B

103. B

104. C

105. A


106. B

107. C

108. D

109. D

110. B

111. A

112. B

113. A

114. C

115. A

116. A

117. C

118. A

119. B

120. A


121. C

122. C

123. D

124. C

125. C

126. B

127. B

128. B

129. C

130. A

131. D

132. C

133. D

134. D

135. B


136. A

137. B

138. C

139. D

140. B

141. B

142. B

143. B

144. B

145. B

146. B

147. A

148. B

149. B

150. B


151. B

152. A

153. A

154. A

155. A

156. A

157. A

158. A

159. B

160. B

161. B

162. A

163. A

164. B

165. A


166. B

167. A

168. B

169. B

170. B

171. A

172. A

173. A

174. B

175. B

176. A

177. A

178. B

179. A

180. B


181. B

182. A

183. A

184. B

185. B

186. A

187. B

188. B

189. A

190. A

191. B

192. A

193. A

194. B

195. B


196. A

197. B

198. A

199. A

200. B


PHẦN II: TỰ LUẬN
LOẠI CÂU 2 ĐIỂM
Câu 1:
* Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
Một là: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Trong quá trình dựng nước và giữ nước từ xa xưa đã hình thành trong mỗi con người Việt những
truyền thống tốt đẹp: truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo trong lao động, anh dũng trong chiến
đấu… Trong các giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu xuyên suốt bề dài lịch sử dân
tộc ta, đồng thời là tư tưởng, tình cảm cao quý và thiêng liêng nhất, là chuẩn mực đạo đức cơ bản
nhất của dân tộc, là cội nguồn trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của con người.
Hai là: Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Văn hóa Phương Đơng
- Nho giáo: Hồ Chí Minh được sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà Nho nghèo và có truyền thống
u nước cho nên từ sớm trong người đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo từ cha mình và nhiều nhà Nho
yêu nước khác. Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo như: triết lý hành động, nhân nghĩa,
ước vọng về một xã hội bình trị, thế giới đại đồng; triết lý nhân sinh, tu thân tề gia; đề cao văn hóa
trung hiếu, nhân, nghĩa, trí, dung, tín, liêm… nhất là vấn đề rèn luyện, tu dưỡng đạo đức.
- Phật giáo: Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư tưởng tốt đẹp của Phật giáo
như: vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân, nếp sống đạo đức,

trong sạch, giản dị, chăm lo việc thiện, ca ngợi lao động, phê phán lười biếng, chủ trương gắn với cứu
nước, cứu dân.
- Lão giáo: Phát triển tư tưởng khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hịa đồng với thiên
nhiên, biết bảo vệ môi trường sống...
- Chủ nghĩa Tam Dân của Tơn Trung Sơn: Hồ Chí Minh đã tìm thấy những điều phù hợp với nước ta
đó là: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
Văn hóa phương Tây
Bên cạnh sự ảnh hưởng văn hóa phương Đơng, Người tiếp thu và chịu ảnh hưởng văn hóa dân chủ
và cách mạng của phương Tây. Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên


ngôn độc lập của nước Mĩ năm 1776 và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1789.
Ba là: Chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và là phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên nền tảng những tri thức văn hóa tinh túy của nhân loại
cùng với sự hiểu biết phong phú về mặt chính trị đã được người đúc kết qua các hoạt động thực tiễn
đấu tranh vì mục tiêu cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc mình.
- Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Người đi vào nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Người
tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp Mác xít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất và Người
đã vận dụng những lập trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, để từ đó tìm ra cịn đường cứu nước đúng đắn và giải phóng cho dân
tộc ta.
Trong các cơ sở lý luận trên chủ nghĩa Mác- Lênin là tiền đề quan trọng nhất, có vai trị quyết
định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là vì: Chủ nghĩa Mác- Lênin là thế giới quan và
phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mạng nhất, đã chỉ ra con đường giải phóng dân tộc: cách mạng vô sản và phát triển cho dân tộc ta.
Câu 2:
Luận điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
1. Cách mạng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản:

- Trước sự thất bại của những phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, Đầu thế kỷ XX đã
chứng tỏ con đường giải phóng dân tộc theo lập trường phong kiến hoặc dân chủ tư sản khơng cịn
đáp ứng được u cầu khách quan của lịch sử dân tộc, nó địi hỏi cần có một con đường cứu nước
mới. Hồ Chí Minh là người đi sau, kế thừa những truyền thống yêu nước cao cả đó đồng thời khâm
phục tinh thần cứu nước của cha ông đi trước; song Người không tán thành con đường cứu nước đó
mà quyết tâm đi theo con đường cứu nước mới.
- Sau những năm bôn ba qua nhiều nước Người đã rút ra hai kết luận: “Chủ nghĩa đế quốc ở đâu
cũng là thù và giai cấp vô sản ở đâu cũng là bạn”. Trên đường Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp,
Cách mạng tháng Mười Nga thành cơng (1917) Người khẳng định: “chỉ có Cách mạng Tháng Mười
Nga đáp ứng được đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam, nên Cách mạng Việt Nam chỉ có thể
đi theo cách mạng vơ sản Nga”. Từ đây tư tưởng của Người dần biến đổi để rồi khi Người đọc “Sơ
thảo đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin (Tháng 7/1920) – Người hoàn toàn tin theo


Lênin. Với việc tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc: Cách mạng Vô sản – đây là công lao
đầu tiên của Người đối với Cách mạng Việt Nam đã mở ra con đường để giải quyết sự khủng hoảng
về đường lối cứu nước cho dân tộc.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Đảng ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, từ đây cách mạng giải phóng
dân tộc được đặt dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam – là nhân
tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Đảng ra đời đã đưa giai cấp công nhân trở thành
giai cấp lãnh đạo cách mạng; đánh dấu công nhân Việt Nam hoàn toàn đấu tranh tự giác và hơn cả
thế Đảng ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước cho dân tộc. Bởi vậy, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Muốn giải phóng dân tộc thành cơng “trước hết phải có đảng cách mệnh””.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đồn kết tồn dân tộc, lấy
liên minh cơng – nơng làm nịng cốt.
- Hồ Chí Minh từng khẳng định: “cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc
một hai người”. Người đánh giá cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang,
Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng là then chốt đảm bảo mọi thắng lợi.
Chính vì vậy mà quan điểm “lấy dân làm gốc” ln được người áp dụng xuyên suốt quá trình chỉ

đạo chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược bởi lẽ với Hồ Chí Minh: “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu,
khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
- Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) Người đã xác định rõ lực lượng cách mạng
bao gồm toàn thể dân tộc Việt Nam, và Đảng Cộng sản có nhiệm vụ tập hợp đại bộ phận công nhân,
nông dân, lôi kéo tầng lớp tiểu tư sản trí thức, trung nơng…; bên cạnh đó đối với phú nơng, trung,
tiểu địa chủ và tư bản có thể lợi dụng hoặc trung lập.
- Nhấn mạnh vai trị vơ cùng quan trọng của cơng nhân và nông dân Việt Nam. Bên cạnh việc xác
định lực lượng cách mạng có sự tham gia của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội cho thấy cái
nhìn sáng suốt, thấu đáo của Người về khả năng chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng cùng với đó là mong
muốn đến cháy bỏng là cả dân tộc cùng đoàn kết chống kẻ thù chung. Và sự thực chúng ta đã giành
thắng lợi trước hai đế quốc hùng mạnh và làm nên những thắng lợi vĩ đại mang tính thời đại sâu sắc,
tất cả đều nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vơ sản ở chính quốc.


Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc
có mối quan hệ mật thiết gắn bó và có tác động qua lại với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
chung là chủ nghĩa đế quốc. Và mối quan hệ này là một mối quan hệ bình đẳng, Người cho rằng:
“Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể
giành thắng lợi trước”. Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn tó lớn, cũng là
một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, và
thực tiễn đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã chứng minh đó là điều hồn
tồn đúng đắn. Người cũng áp dụng luận điểm đó với cách mạng ở Việt Nam trong cuộc Cách mạng
tháng Tám khi thời cơ “ngàn năm có một” đã đến Người kêu gọi tồn thể nhân dân đứng dậy, tự giải
phóng chính mình, bên cạnh đó một mặt khẳng định muốn giành thắng lợi phải dựa vào sức mình là
chính mặt khác cũng cần tranh thủ sự ủng hộ của các nhân tố khách quan.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
- “Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng” – với quan điểm như vậy, Người
chủ trương phát động quần chúng đấu tranh sử dụng vũ trang tự vệ. Quán triệt sự nghiệp cách mạng

là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực của cách mạng là bạo lực của quần
chúng. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang nhưng
cũng phải tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử
dụng đúng và tài tình kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng
lợi cho các cách mạng.
- Cũng xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh ln
tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền sao cho ít đổ máu nhất, Người ln tìm mọi cách ngăn
chặn mọi xung đột bằng vũ trang, tìm cách giải quyết bằng biện pháp hịa bình, chủ động đàm phán
thương lượng, nhưng luôn cứng rắn về nguyên tắc và mềm dẻo về sách lược. Điều này thể hiện qua
việc Người chấp nhận kí với Pháp hiệp ước Sơ bộ (6/3/1946). Tư tưởng sáng suốt của Người còn
được Đảng ta vận dụng trong vấn đề biển Đông với Trung Quốc hiện nay, kiên quyết giải quyết bằng
biện pháp hịa bình trên cơ sở không vi phạm chủ quyền Quốc gia.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hịa bình thống
nhất biện chứng với nhau. Người chủ trương yêu nước, thương dân, yêu chuộng hịa bình, tự do…
nhưng khi khơng thể tiếp tục đấu tranh hịa bình thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh bằng bạo
lực để bảo vệ, giành và giữ độc lập chủ quyền quốc gia.
Luận điểm: “Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc” đã thể hiện rõ nhất, sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh Vì:


+ Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lênin.
+ Giá trị thực tiễn: Đây là một quan điểm có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng to lớn nó giúp cho cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động chờ sự giúp đỡ từ bên ngồi mà ln phát huy được
tính độc lập và tự chủ, chính việc tự lực, tự cường đó đã làm cho cách mạng Việt Nam giành được
những thắng lợi vĩ đại. Bên cạnh đó tạo sự ảnh hưởng to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới. Và thực tiễn cách mạng ở một số nước thuộc địa cũng như cách mạng Việt Nam đã
chứng minh đây là một tư tưởng hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo và linh hoạt.
Câu 3:
Một vài tổ chức, cá nhân có hoạt động chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam: Việt Tân, Khối 8406, Quỹ người Thượng, Ủy ban Cứu người vượt biển... Các tổ chức

phản động này thường dùng luận điệu “phản biện xã hội”, đấu tranh vì “dân chủ”, “nhân quyền”, xây
dựng “xã hội dân sự”… để tuyên truyền những điều sai, xuyên tạc về đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đề ra với hy vọng kích động tư tưởng, tạo thái độ thù địch trong chính
người dân trong nước nhằm lật đổ Đảng và Nhà nước.
Nếu trong tình huống tôi là đối tượng bị các thế lực phản động tìm cách lơi kéo, dụ dỗ thì:
- Trước tiên, cần phải bình tĩnh nhận định vấn đề mà đối tượng đang đề cập tới là mang tính phản
động nhằm chống phá Đảng và Nhà nước, không nên vội vàng hấp tấp sẽ gây ảnh hưởng tới bản thân
và người xung quanh tránh “bứt dây động rừng”.
- Thứ hai, khi phát hiện bản thân bị các thế lực phản động lôi kéo cần phải báo ngay cho cơ quan
chức năng sớm nhất có thể để nhận được sự giúp đỡ xử trí đối với tình huống; bên cạnh đó cịn là
việc giúp Nhà nước giải quyết những cá nhân, tổ chức có ý thức chống đối với đường lối của Đảng
và Nhà nước.
- Thứ ba, cũng cần nâng cao nhận thức, học thức về tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chỉ đạo, lãnh
đạo đất nước phát triển của Đảng và Nhà nước. Vì chỉ khi tư tưởng thống nhất, quyết tin theo Đảng,
Chính phủ thì khơng có một thế lực thù địch nào có thể câu kéo và lợi dụng bản thân chúng ta.
Câu 4:
Vai trò của Đảng Cộng sản qua đoạn trích thuộc tác phẩm “Đường kách mệnh”:
- “…Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng…”: Ở đây Đảng
có nhiệm vụ vận động quần chúng tham gia đứng dưới hàng ngũ của Đảng hoặc sẽ tập hợp họ trở
thành lực lượng cách mạng to lớn tham gia vào quá trình đấu tranh giải phóng của dân tộc; đồng thời


Đảng còn là tổ chức sẽ lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh, đưa ra đường lối kịp thời, sáng tạo
và phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của dân tộc.
- “…ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi…”: Bên cạnh việc tập hợp,
lãnh đạo và tổ chức quần chúng đấu tranh; Đảng cịn có vai trị gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới, đứng về phía các nước thuộc địa bị áp bức bóc lột dã man. Cũng như áp dụng những
phong trào đấu tranh theo con đường vô sản vào thực tế cách mạng Việt Nam để có thể đưa cách
mạng nước nhà đến thành cơng nhanh chóng.
- “…Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cấm lái có vững thuyền mới chạy…”:

Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn vai trị quan trọng nhất của Đảng đó là cần có một đường lối lãnh
đạo đúng đắn, phù hợp, và đặc biệt cần phải thống nhất một con đường giải phóng dân tộc: cách mạng
vô sản. Chỉ khi đường lối chỉ đạo “vững” thì cách mạng mới giành được thắng lợi và thành cơng cũng
giống như việc cần có người cầm lái chắc, vững thì thuyền mới có thể chạy.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam có vai trị lãnh đạo của Đảng:
Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước hoàn thành sứ
mệnh lịch sử cao cả của mình. Ngay khi vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên một phong
trào cách mạng giai đoạn 1930 – 1931; tuy phong trào sau đó đã thất bại nhưng đã để lại bài học về
công tác tư tưởng về xây dựng khối liên minh công – nông và mặt trận dân tộc thống nhất cũng là
cuộc tập dượt đầu tiên cho Cách mạng tháng Tám sau này, tạo ra những nhân tố đầu tiên đảm bảo
cho thắng lợi của cách mạng. Để rồi 15 năm sau đó, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công, mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp và
Nhật; lật nhào ngai vàng phong kiến; lập ra nhà nước công – nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á
đưa nhân dân lao động lên nắm Chính quyền. Sau khi giành được Chính quyền chúng ta tiếp tục bị
các thế lực chống phá Chính quyền còn non trẻ kia và khi đế quốc Pháp xâm lược chúng ta một lần
nữa, dưới lời kêu gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân trên dưới một lòng nhất tề đứng
lên kháng Pháp; cuối cùng chúng ta giành được thắng lợi vang dội, giáng địn nặng nề vào ý chí xâm
lược của thực dân Pháp cũng như lập lại hịa bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước
tạm thời bị chia cắt, Đảng đã lãnh đạo nhân dân lao động thực hiện đồng thời hai cuộc cách mạng:
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi
đế quốc Mĩ tiến hành xâm lược miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược miền Bắc, Đảng chủ
trương phát động nhiệm vụ: “Đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giúp giải phóng hồn tồn
miền Nam Việt Nam, đất nước thống nhất thu về một nhà (1975) cùng nhau đi lên chủ nghĩa xã hội.
Và hiện nay, dưới đường lối chỉ đạo sáng tạo của Đảng và Nhà nước chúng ta tiếp tục tiến nhanh,
tiến mạnh lên Chủ nghĩa xã hội đất nước ngày càng phồn vinh, phát triển.


Câu 5:
Những lực lượng cần thực hiện đoàn kết theo Hồ Chí Minh:
- Lực lượng cần đồn kết là đại đa số nhân dân, và đa số nhân dân lao động của chúng ta là nông dân,

những nông dân vô sản bị cướp đoạt ruộng đất trở thành giai cấp công nhân và các tầng lớp khác
trong xã hội. Người chỉ ra rằng việc đoàn kết phải dựa trên đại đa số nhân dân, chủ yếu là giai cấp
công nhân, nông dân; sở dĩ công nhân được Người đề cao bởi lẽ ít nhiều họ cũng có ý thức chính trị,
ý thức thời cuộc; hơn thế nữa họ là những người xuất phát từ nông dân nhưng do bị cướp đoạt ruộng
đất, bần cùng hóa trở thành giai cấp cơng nhân làm việc cho các nhà máy, công xưởng; cho nên họ
dễ dàng thực hiện được liên kết, liên minh cơng – nơng cùng chống kẻ thù chung, Hồ Chí Minh coi
đó như là cái nền của nhà, cái gốc của cây.
- Khơng chỉ vậy, Người cịn xác định lực lượng cần đồn kết ở đây khơng chỉ là giai cấp công nhân
và nông dân như trong Luận cương của Tổng Bí thư Trần Phú, mà đó cịn là các tầng lớp nhân dân
khác trong xã hội. Chỉ cần là người thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập dân chủ; dẫu rằng
trước đó có đứng về phía trái chiến tuyến với chúng ta, khi họ muốn đoàn kết nhất lịng với ta thì ta
cũng nên thật thà đoàn kết với họ. Hoặc những giai cấp, tầng lớp khác một lịng vì Tổ quốc đều được
trọng dụng, đứng trong khối đại đoàn kết toàn dân.
- Và mối đoàn kết này, khơng chỉ dừng ở trong nước mà cịn đoàn kết với những kiều bào đang sinh
sống ở nước ngồi; miễn là những người có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc, hướng về
q hương thân u và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ.
Câu 6:
Hiện nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách và hoạt động nhằm tôn vinh
“người tốt, việc tốt”. Cụ thể: Ngày 8/12/2021, Thủ tướng Chính phủ đã khen thưởng 180 cá nhân, tập
thể xuất sắc trong phòng chống COVID – 19.
Các hoạt động tơn vinh đó có ý nghĩa:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ dạy rằng: “Một tấm gương sáng còn có giá trị hơn một trăm bài diễn
văn tuyên truyền”. Chính vì vậy, mà các tấm gương về người tốt việc tốt, cũng như những việc làm
ý nghĩa, mang tính nhân văn, cao thượng, và hết mình vì cộng đồng, xã hội của “những con người tử
tế” đã tạo sức lan tỏa lớn và mang một hiệu ứng tích cực trong cộng đồng cùng toàn xã hội. Việc
tuyên dương gương người tốt việc tốt không chỉ giúp nhân rộng những hành động đẹp, nhân ái, nhân
văn, mà còn hướng tới giá trị nhân văn và đạo đức cao đẹp cho xã hội.


- Bên cạnh là tấm gương cho những người khác noi theo những việc làm tử tế của những người tử tế

sẽ giúp họ có động lực cố gắng và tiếp tục phát huy, cống hiến sức mình cho xã hội. Bởi lí do đó mà
Đảng và Nhà nước ln có những hoạt động nhằm động viên, khen thưởng những tấm gương tử tế
để họ có thể thấy được việc làm của mình có ích cho xã hội, được xã hội công nhận và nêu gương
cũng như là cố gắng vượt qua thành tích của bản thân, mong muốn cống hiến hơn nữa cho Đảng và
Nhà nước.
LOẠI CÂU 4 ĐIỂM
Câu 1:
Quan điểm của Hồ Chí minh về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực kinh tế ở Việt
Nam:
Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo đảm và đứng vững
trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế đó là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công – nông
nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời
sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát
triển toàn diện các ngành, trong đó những ngành chủ yếu là cơng nghiệp, nơng nghiệp, thương nghiệp,
trong đó “cơng nghiệp và nơng nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”. Kết hợp các loại lợi ích
kinh tế là vấn đề được Hồ Chí Minh rất quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh: chế độ khốn là một
trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh trong cơng cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Theo Người chế độ chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ được đảm bảo và đứng vững
khi chúng ta có một nền kinh tế vững mạnh và hùng hậu; bởi lẽ như vậy chỉ khi kinh tế thực sự phát
triển thì nó chính là thước đo về sức mạnh thực sự của quốc gia đó. Trong hiện nay, thực tế dựa trên
công cuộc cải cách và mở cửa năm 1978 của Trung Quốc, đã tập trung vào phát triển kinh tế và đạt
nhiều thành tựu. Sau đại thắng năm 1975, tình hình đất nước có nhiều thay đổi, đặc biệt do cơ chế
quan liêu bao cấp đã đang và sẽ đẩy nhân dân ta vào một nạn đói khủng khiếp; Đảng và Chính phủ
đã nhận định ra sai lầm và quyết định đổi mới đất nước vào năm 1986 dựa trên quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội; công cuộc đổi mới tập trung vào lĩnh vực
kinh tế và đạt được nhiều thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt của nước ta, đưa nước ta trở thành
nước có thu nhập khá… Về nhịp độ và bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Người đặc biệt căn dặn: “tiến
lên chủ nghĩa xã hội không thể một sớm một chiều” – Người nhận định đây là con đường phức tạp,



lâu dài, khó khăn yêu cầu sự bền bỉ của tồn Đảng tồn dân đồng lịng cùng góp sức để cơng cuộc
xây dựng đạt được nhiều thành tựu.
Trong q trình đổi mới, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã có những bước tiến mạnh mẽ trong tư duy, nhận thức lý luận và chỉ đạo chiến lược trong
thực tiễn. Điều này đã được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng với
8 đặc trưng nhưng trong đó mục tiêu bao trùm là: “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh”. Chính nhờ sự kiên định con đường chủ nghĩa xã hội, sự tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lênin
phù hợp với tình hình đất nước ta, cũng như tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, cùng với
đường lối lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Đảng đã đưa công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta đi đúng đường dẫu rằng sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đơng Âu có tác động
khơng nhỏ đến tình hình nước ta; tuy nhiên toàn Đảng, toàn dân ta vẫn kiên định và vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Câu 2:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước thượng tôn pháp luật:
Một là, thiết lập và thực hiện “chế độ pháp trị” thống nhất trong phạm vi cả nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện quản lý Nhà nước và xã hội bằng pháp luật là đặc trưng của
nhà nước kiểu mới; có thể thấy việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật là phương pháp hữu hiệu nhất
cũng như là biện pháp quan trọng hàng đầu để xây dựng một Chính quyền nhân dân mới còn non trẻ.
Người từng viết rằng: “thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế
độ dân chủ của ta. Đó là nhiệm vụ tích cực”. Chế độ pháp trị theo Hồ Chí Minh chính là chế độ mà
trong đó pháp luật được đề cao, được tôn trọng và triệt để tuân theo và chỉ khi ta thực hiện được chế
độ pháp trị đó thì Nhà nước dân chủ của chúng ta mới có thể tồn tại và phát triển bền vững. Bằng việc
soạn thảo Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ dân chủ Cộng hịa Việt Nam, Người đã góp phần quan
trọng trong việc thực hiện “chế độ pháp trị” ở Việt Nam, trong đó Người đặc biệt nhấn mạnh: “Tồn
thể nhân dân, khơng phân biệt giai cấp, tín ngưỡng, nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức
ủng hộ chính quyền nhân dân, tuân theo pháp luật của Chính phủ và mệnh lệnh của quân đội”.
Là một người đã hiểu rõ và thấm nhuần quan điểm cũng như tư tưởng của V.I.Lênin về tính thống

nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa; với Người chỉ khi pháp chế thống nhất thì uy quyền của Nhà
nước mới mạnh. Sức mạnh đó thể hiện ở sức mạnh thống nhất, ở hiệu lực hoạt động của toàn bộ bộ
máy Nhà nước, nó nằm ở sự kết hợp nhịp nhàng, ăn khớp trên nền tảng tập trung dân chủ, chống lại
mọi biểu hiện phân tán hay chia rẽ, thiếu đồng bộ trong việc áp dụng pháp luật. Nhận thấy nội bộ có


sự chia rẽ, phân tán Người đã thẳng thắn chỉ rõ: “Một khuyết điểm lớn hiện nay đang làm trở ngại
nhiều cho cơng tác chúng ta là tình trạng thiếu thống nhất từ cấp trên xuống cấp dưới, giữa các
ngành ở mỗi cấp… Đến mỗi cấp, sự thực hiện công tác càng phân tán, càng thiếu phối hợp. Phải
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây mà Người muốn
nói đến chính là việc chúng ta phải thực hiện, thực thi pháp luật một cách thống nhất. Bên cạnh đó
Người đã kịch liệt phản đối những cá nhân, tổ chức bị trói buộc trong chủ nghĩa cá nhân của bản thân
cũng như thiếu ý thức pháp luật, không tôn trọng pháp luật hoặc không triệt để tuân theo pháp luật.
Hai là, đề cao vai trò và đảm bảo hiệu lực tối cao của Hiến pháp và luật pháp
Bởi quan niệm Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa còn non trẻ muốn tiếp tục duy trì và phát triển
thì phải dựa trên một cơ sở pháp lý vững chắc. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu về việc
đề cao giá trị của Hiến pháp trong đời sống chính trị - xã hội không chỉ thể hiện ở khát vọng to lớn
của Người thơng qua những bài viết, lời nói mà còn thể hiện bằng cả hành động cách mạng của Người.
Bằng việc, ngay sau khi chúng ta giành được Chính quyền, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời Người đã đề ra nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng là việc cấp thiết của một Hiến
pháp – cơ sở pháp lý cao nhất giúp duy trì sự ổn định và phát triển của đất nước. Cũng tại đây, Người
được bầu vào Ban dự thảo Hiến pháp, trực tiếp chỉ đạo và soạn thảo Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo Hiến pháp năm 1946, cơ chế để bảo đảm tính tối cao của Hiến
pháp ở Việt Nam đã được biểu hiện rõ ở quy định về trình tự, thủ tục lập hiến và sửa đổi Hiến pháp.
Việc sửa đổi Hiến pháp phải tuân thủ những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt, thơng qua hình thức
phúc quyết của nhân dân. Chính vì vậy, hiện nay khi đã trải qua nhiều lần thay đổi Hiến pháp để phù
hợp với thực tiễn Đảng và Nhà nước luôn tổ chức những cuộc trưng cầu dân ý để thể hiện ý chí làm
chủ đất nước của nhân dân.
Ba là, mọi chủ thể phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, khơng có ngoại lệ
Đây chính là tư tưởng nhất quán của Hồ Chủ tịch đồng thời nó cịn là một trong những ngun tắc

quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vừa nêu ở trên, điều này cũng được Người khẳng định
trong Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ dân chủ cơng hịa Việt Nam: “Tồn thể nhân dân Việt
Nam, khơng phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự…, tn theo pháp
luật của Chính phủ và mệnh lệnh của quân đội”. Như vậy, việc tuân thủ pháp luật là điều bắt buộc
với tất cả tầng lớp nhân dân trong xã hội là mệnh lệnh cũng là nguyên tắc nhất nhất phải tuân theo
không phân biệt người đó là cán bộ, cơng chức hay dân thường, khơng phân biệt nghề nghiệp, tuổi
tác, tín ngưỡng, tơn giáo… miễn là người Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật quy định của nước
Nhà. Nguyên tắc này được cho là xuất phát từ bản Tuyên ngôn độc lập được Người đọc và nêu rõ tại
Quảng trường Ba Đình lịch sử năm đó: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Đó có


nghĩa là mọi người đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ do đó việc tuân thủ pháp luật là
trách nhiệm của mọi công dân không chỉ từ phía người dân mà cịn cả từ phía các cơ quan nhà nước,
cán bộ nhà nước đều phải tuân theo và đây cũng chính là một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Và Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng về việc thực hiện nghiêm quy định của pháp
luật. Còn nhớ Đại hội lần thứ hai của Đảng họp ở Việt Bắc năm 1951 đó, khi Người trở về nhà của
mình để nghỉ ngơi, do cách ăn mặc rất đỗi giản dị mà chiến sĩ cơng an được phân cơng canh gác lúc
đó đã khơng nhận ra Bác và đã yêu cầu Người xuất trình giấy tờ, Bác khơng những khơng trách móc
người chiến sĩ ấy mà còn rất vui vẻ hợp tác và khen ngợi người chiến sĩ đã nghiêm túc chấp hành quy
định. Bên cạnh đó cịn có những câu chuyện như Người dừng đèn đỏ dù đang rất mệt và rất vội, hay
việc Người tự tay cầm lá phiếu đi bầu cử cơ quan quyền lực Nhà nước lúc bấy giờ như một người
dân thường khơng có khoảng cách với nhân dân…
Bốn là, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm
Có thể nói Hồ Chí Minh là một người vơ cùng thẳng thắn và chính trực, liêm khiết. Trong cả cuộc
đời hoạt động cách mạng của mình, Người ln chủ động nhìn và nhận ra những sai phạm của bản
thân mình để sửa đổi; cũng như những sai phạm của cán bộ, cơng chức về vi phạm kỷ luật cịn chưa
được nghiêm minh Người thẳng thắn phê bình, nhắc nhở để nhanh chóng kịp thời và sửa đổi. Từ việc
kịch liệt lên án tình trạng thi hành kỷ luật khơng nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí minh cịn thể hiện quyết
tâm đấu tranh chống những biểu hiện lạm dụng chức quyền để vi phạm pháp luật; hay dung túng, bao
che cho những hành vi phạm pháp. Bởi theo Người, nếu những hành vi phạm pháp kia khơng bị pháp

luật trừng phạt thích đáng sẽ là tiền đề để gây ra những hành vi vi phạm pháp luật tiếp theo đó; khơng
chỉ vậy còn gây ra tâm lý coi thường pháp luật, gây tổn hại đến pháp chế và trật tự pháp luật.
Và cũng theo quan điểm của Người, để cho công cuộc xử phạt được nghiêm minh, minh bạch thì
trách nhiệm nặng nề nhất thuộc về các cơ quan tư pháp. Người cũng yêu cầu, cơ quan tư pháp cần
phải là những người có phẩm chất đạo đức cần thiết; trước là phải vì lợi ích chung, giữ gìn pháp luật,
vơ tư, cơng bằng, khơng được thiên vị hay có tư thù cá nhân, và đặc biệt khơng được tự cho mình là
đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Những cán bộ tư pháp bắt buộc phải có những phẩm chất đó thì
việc xét xử mới được đảm bảo cơng bằng và nghiêm minh. Thông qua việc xét xử Trần Dụ Châu ta
cũng thấy được ở Người sáng bừng tính cơng bằng và nghiêm mình; xử phạt phải thật nghiêm và
khen thưởng thật thích đáng. Cơng bằng ở đây chính là đối với tất cả mọi người, bất kể người đó có
ở chức vụ, cương vị ra sao, một khi phạm tội phải được xử lý theo đúng trình tự luật định, để nhằm
giáo dục, răn đe những người đi sau.
Để nhân dân hiểu, thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật Nhà nước Việt Nam cần làm:


Để nhân dân hiểu thì điều mà Đảng và Nhà nước cần làm là tiếp tục cố gắng tuyên truyền
cũng như nâng cao nhận thức của mỗi người về việc quản lý xã hội bằng pháp luật và vai trò quan
trọng của việc áp dụng pháp luật đối với đời sống. Những ngôn từ trong văn bản pháp luật cần chặt
chẽ, dễ hiểu để có thể dễ dàng áp dụng đúng và đầy đủ. Bên cạnh đó các văn bản pháp luật cần phải
có ý nghĩa thực tế và xuất phát từ đời sống nhân dân chỉ có vậy nó mới dễ dàng đi vào tiềm thức của
nhân dân và dễ dàng tuân thủ, làm theo.
Từ việc hiểu đến việc áp dụng thực hành quả thực rất khó; chính vì vậy các cán bộ, công chức
cần phải nêu gương sáng trong việc chấp hành luật pháp để nhân dân có thể soi chiếu, dõi theo và áp
dụng trong thực tiễn. Chúng ta có một Hồ Chủ tịch liêm khiết, thanh minh và đặc biệt Người rất tôn
trọng pháp luật nước nhà; Người lấy chính mình làm tấm gương để các cán bộ, Đảng viên có thể nhìn
vào, học tập và làm theo.
Và đặc biệt cần có những hình thức xử phạt thích đáng thật nghiêm minh và cơng bằng bất kể
đó có là ai, ở cương vị nào cần xử phạt đúng và chuẩn để nhân dân thấy và hiểu được cũng như giúp
giáo dục răn đe những người khác khơng tái phạm; đồng thời cịn giúp nâng cao lịng tin của dân
chúng vào pháp luật nước nhà.

Câu 3:
Cách hiểu về tham ơ, lãng phí, quan liêu:
Nghiên cứu về các tác phẩm của Người, xuyên suốt các tác phẩm từ khi chúng ta giành được
chính quyền cho tới sau này, Hồ Chí Minh ln chú trọng trong việc giáo dục cho các cán bộ, đảng
viên luôn luôn phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người chính là ngưỡi
lãnh đạo Nhà nước Việt nam dân chủ đầu tiên đề cập đến việc chống các bệnh quan liêu, tham ơ, lãng
phí… Người gọi những bệnh này là “bất liêm”, nhưng ngày nay được lưu truyền rộng rãi với cái tên
“tham nhũng”. Đồng thời trong những tác phẩm ấy Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ nguyên nhân, hậu quả
tai hại của tham ơ, lãng phí, quan liêu… cũng như đưa ra biện pháp để sửa đổi và giáo dục.
+ Tham ơ: là loại tội điển hình trong xã hội hiện nay. Những người phạm tội tham ô thường là những
người lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà mình có trách
nhiệm phải quản lý.
+ Lãng phí: Trong lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người mong muốn cán bộ, đảng viên cần
phải sống: “cần, kiệm, kiêm, chính”, nhắc nhở luôn phải biết sống tiết kiệm không xa hoa. Và ngược
lại với “kiệm” kia là sự lãng phí: đây chính là việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian
lao động và tài nguyên không hợp lý, hiệu quả. Đối với chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền


ban hành thì lãng phí là việc sử dụng ngân sách, vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động trong khu
vực nhà nước và tài nguyên vượt định mức tiêu chuẩn.
+ Quan liêu: là cán bộ, đảng viên phụ trách xa rời thực tế, không đi sát vào công việc, không nắm
vững đường lối chỉ đạo dẫn đến chỉ đạo một cách đại khái chung chung; hay nói chính xác là nặng về
giấy tờ, sách vở mà xa rời thực tế. Quan liêu cũng có thể hiểu là việc hoạt động xa rời quần chúng,
không rõ lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ, không lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân,
sợ phê bình và tự phê bình.
Những kiến nghị để đẩy lùi tham ơ, lãng phí, quan liêu
- Thứ nhất, cần phải giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục nâng cao về chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, đảng viên trong từng giai đoạn cụ thể. Vì chỉ khi nắm
vững được những điều đó thì mới bảo đảm cho cán bộ, đảng viên xác định đúng được mục tiêu, lý

tưởng và trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Đối với chính những người dân:
khơng nên tự cao, tự đại, ln tìm tịi, học hỏi, ln biết kiểm điểm chính bản thân mình, kịp thời sửa
đổi.
- Thứ hai, coi trọng việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Có thấm
nhuần được đạo đức cách mạng thì cán bộ, đảng viên mới giữ gìn được lối sống trong sạch, liêm
khiết; từ đó kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng chống lại mọi thói hư tật
xấu, tệ nạn xã hội. Bởi lẽ chính phẩm chất đạo đức, chính trị, lối sống của cán bộ, đảng viên có tốt
thì nó mới chính là sức đề kháng mạnh mẽ chống lại mọi suy thoái, biến chất từ bên trong.
- Thứ ba, đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hồ Chí Minh chính
là một tấm gương sáng về lối sống, làm việc, chính trị trong sạch, liêm khiết, công tư phân minh và
luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết “giữ mình” trước những cám dỗ ngồi kia.Cần học
tập theo những tập tính tốt của Người để có thể tận hiến cho quốc gia, dân tộc mà chỉ dựa trên tinh
thần ái quốc chứ không phải vì bất cứ lợi ích riêng nào.
- Thứ tư, Các cấp ủy, tổ chức đảng cần chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết
của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Từng tổ chức Đảng cần thực hiện nghiêm các
công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên trực thuộc cơ quan, đơn vị mình nhằm
giáo dục, răn đe, nâng cao ý thức của bản thân. Đồng thời cần nêu cao tinh thần tự phê bình và phê
bình, khắc phục những tình trạng né tránh, bao che, và cần có biện pháp xử phạt và khen thưởng thích
hợp.


- Thứ năm, phát huy vai trị tích cực của báo chí, truyền thơng, kiểm sốt, quản lý tốt các hoạt động
báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội. Vai trị của các cơ quan truyền thơng báo chí là vô cùng
quan trọng tuy nhiên cần phải phản ánh trung thực, khách quan, kịp thời; đưa các chính sách của
Đảng và Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống đồng thời cịn là kênh thơng tin quan trọng nhất phát hiện
những mặt tiêu cực của xã hội, những biểu hiện suy thối của cán bộ đảng viên. Bên cạnh đó cịn cần
làm tốt cơng tác tun truyền để nhân dân tránh làm theo…
- Thứ sáu, hồn thiện chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ để từng bước nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần và lợi ích của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Khi thu nhập, tiền lương phù hợp với sự đóng
góp, cống hiến của họ đối với xã hội sẽ đảm bảo cuộc sống cho cán bộ, đảng viên khơng chỉ vậy nó

cịn là một biện pháp hữu hiệu để đẩy lùi tình trạng tham nhũng.
Câu 4:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về các điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc:
1. Vai trị của đại đồn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
* Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng:
- Là người đi sau giúp viết tiếp những trang sử hào hùng của lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh rất khâm
phục tinh thần yêu nước của thế hệ cha ông đi trước nhưng Người nhận thấy nguyên nhân sâu xa làm
cho phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thất bại là do các bậc cha ông chưa
vận dụng, kêu gọi và tập hợp sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. Và theo Người, muốn đưa cách
mạng đến thành công thì cần phải có một lực lượng cách mạng đủ lớn, đủ mạnh để chiến thắng kẻ
thù xâm lăng và tiến lên xây dựng chế độ xã hội mới; muốn có một lực lượng cách mạng đủ mạnh thì
điều cấp thiết chính là việc thực hiện đại đồn kết tồn dân tộc, quy tụ quần chúng nhân dân tạo thành
một khối lớn mạnh khơng thể tách rời. Đại đồn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải
là sách lược hay thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán xuyên suốt quá trình đấu tranh
giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam.
- Đại đoàn kết là sức mạnh của toàn dân tộc, là vấn đề mang tính sống cịn của dân tộc Việt Nam, nên
chiến lược này được duy trì cả trong thời kỳ ta thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
lẫn cách mạng xã hội chủ nghĩa sau này. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào hồn
cảnh thực tế, có thể cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng sao cho
phù hợp với từng đối tượng, nhân dân; song sẽ khơng bao giờ đổi chủ trương đại đồn kết toàn dân
tộc – nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng theo lời Người. Nhằm nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc đại đoàn kết toàn dân tộc, Người cũng từng nêu:


“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành công”.
Hay: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
- Khơng chỉ vậy, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng khi xác định lực lượng cách mạng,
Người xác định đó là mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội không phân biệt giàu nghèo, cao thấp là

người Việt có tinh thần yêu nước đều trở thành lực lượng của cách mạng. Và đến khi mặt trận ra đời
đã quy tụ được khối đại đồn kết đó, nó tạo thành một sức mạnh to lớn nhấn chìm bè lũ cướp nước
và bán nước để rồi chúng ta có một cách mạng tháng Tám thành cơng rực rỡ, đem lại hịa bình, ấm
no cho đồng bào về sau.
* Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc:
- Xuyên suốt tư tưởng của Người, yêu nước – nhân nghĩa – đồn kết là sức mạnh chính là mạch nguồn
dẫn đến mọi thắng lợi. Chính vì vậy mà đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng và tư tưởng đó cần phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trường, chính
sách cho tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Sau q trình lui vào hoạt động bí mật, Đảng ra hoạt động
công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam; trong lời kết thúc buổi ra mắt ngày 03/03/1951, Hồ
Chí Minh đã thay mặt tồn Đảng tun bố trước tồn thể nhân dân: “Mục đích của Đảng Lao động
Việt Nam có thể gồm 8 chữ: “Đồn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc””. Với việc xem dân làm gốc, là
lực lượng tự giải phóng nên Người coi vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân giúp tạo ra sức
mạnh to lớn của đất nước chính là vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng.
- Người chỉ ra rằng: “Đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà
còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì cách mạng khơng phải là sự nghiệp của
một người, một nhóm người mà nó là sự nghiệp của toàn thể dân tộc, và cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, phải do quần chúng và cũng phải vì quần chúng. Từ thực tiễn đấu tranh tự giải phóng
chính mình và xây dựng một chế độ xã hội mới, tự bản thân quần chúng nảy sinh ra nhu cầu đồn kết
và cần có sự hợp tác. Lúc này Đảng có sứ mệnh giúp nhân dân thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần
chúng đấu tranh, chuyển những nhu cầu cá nhân hoặc những đòi hỏi khác quan kia để phát triển
phong trào tự tự phát trở thành phong trào đấu tranh tự giác đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã tạo
ra một phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc rộng rãi đem lại độc lập, tự do, cơm áo, hịa bình cho
nhân dân lao động.
- Mục tiêu của cách mạng Việt Nam theo Người là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và cuối
cùng là giải phóng con người. Để có thể thực hiện mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều mục tiêu
cũng như là nhiệm vụ cụ thể cần phải giải quyết trong từng thời kỳ lịch sử dân tộc. Nhưng muốn để


thực hiện những nhiệm vụ đó thành cơng thắng lợi thì cần phải phát huy được sức mạnh tồn dân,

hay nói chính xác chính là xây dựng được khối đại đồn kết dân tộc. Và vì lý do đó, mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng là phải xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
* Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân:
- Vấn đề “dân” và “nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh tuy có nội hàm rộng lớn nhưng đã được
người đề cập một cách rõ ràng, tồn diện, có sức thuyết phục lớn; nó vừa có thể hiểu là một tập hợp
đơng đảo quần chúng, vừa là mỗi người con Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ “mọi con dân nước
Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, khơng có sự phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có tín
ngưỡng hay khơng có tín ngưỡng, già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, bần tiện… Vậy nên “dân” được hiểu
là chủ thể của đại đồn kết dân tộc.
- Khi nói về đại đồn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả quần chúng nhân dân vào
một khối đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Người nhiều lần nêu rõ: “Đồn kết của
ta khơng những rộng rãi mà cịn đồn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc
lập của tổ quốc, ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng
sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. “Ta” được Người nhắc đến ở đây chủ thể của
nó vừa có thể là Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng cũng vừa có thể là mọi người dân đất Việt nói
chung. Hồ Chí Minh đã khéo léo dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để làm định hướng cho việc
xây dựng khối đại đồn kết tồn dân trong suốt q trình đấu tranh của cuộc cách mạng.
* Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc:
Để thực hiện được đại đoàn kết tồn dân, Hồ Chí Minh đã đưa ra những điều kiện mang tính
nguyên tắc như sau:
- Trước tiên để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc:
yêu nước, nhân nghĩa và đoàn kết. Những truyền thống tốt đẹp này đã được hình thành, củng cố và
phát triển trong suốt bề dài lịch sử nước nhà qua các quá trình dựng nước và giữ nước. Truyền thống
thiêng liêng đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi hiểm họa
đe dọa đến dân tộc ta.
- Kế đến cần có lịng khoan dung, độ lượng với con người, Người chỉ ra rằng trong mỗi cá nhân, cũng
như trong mỗi cộng động đều có những ưu và khuyết điểm, mặt tốt và xấu.. cho nên vì lợi ích lâu dài
cho cách mạng cần phải có một thái độ khoan dung, độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù đó là phần
nhỏ nhất của mỗi người, chỉ có vậy thì mới có thể tập hợp và quy tụ được lực lượng rộng rãi, to lớn



cho cách mạng. Người từng lấy ví dụ: “năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài nhưng cả năm ngón đều
thuộc về một bàn tay” để nói về sự nhất thiết phải thực hiện đại đồn kết tồn dân. Lịng khoan dung,
độ lượng của Người không phải là một sách nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà những tên phản cách
mạng dùng để hạ thấp uy tín của Người mà đó là sự tiếp nối, cũng như là sự kế thừa và phát triển
truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc ta. Đây là một tư tưởng nhất quán, đã được thể hiện rõ
trong đường lối, chính sách của Đảng, đối với những người từng làm việc dưới chế độ cũ và những
người lầm lỗi biết hối cải, đặc biệt trong đó có những người tài, ta sẵn sàng tha thứ và trọng dụng họ.
Hồ Chí Minh cho rằng để thực hiện được đồn kết, thì nhất thiết cần phải xóa bỏ mọi thành kiến, rào
cản, và đặc biệt cần phải thật thà hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Người cho rằng chỉ cần là người Việt
Nam con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều tinh thần yêu nước tiềm tàng bên trong họ. Tấm lòng
yêu nước đó có khi bị bụi bặm che mờ nhưng khi được thức tình thì lịng u nước đó lại nồng nàn,
rạo rực. Cùng sự tin tưởng và tính hướng thiện cảu con người và vì lợi ích của dân tộc, Người đã chân
thành lôi kéo, tập hợp những người từng phục vụ chế độ cũ vào khối đại đoàn kết tồn dân, tạo điều
kiện cho họ đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
- Cuối cùng, để thực hành đoàn kết rộng rãi cần phải có niềm tin vào nhân dân. Đối với Hồ Chí Minh,
việc yêu dân, nhất lòng tin vào nhân dân, dựa vào dân, sống, chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân
chính là ngun tắc tối cao. Ngun tắc này khơng những là sự kế thừa và tiếp nối truyền thống dân
tộc “lấy dân làm gốc” mà còn quán triệt sâu sắc nguyên lý Mác Xít “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”. Quần chúng nhân dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn gốc sức mạnh vô tận
của khối đại đoàn kết, quyết định đến thắng lợi của các mạng cũng là nền tảng, gốc rễ và là chủ thể
của mặt trận.
3. Hình thức tổ chức khối đại đồn kết dân tộc
* Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề đại đồn kết dân tộc khơng thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở
những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải vụ thể hóa trở thành một chiến lược cách mạng, khẩu
hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng
vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Qua sự thất bại của phong trào yêu nước giai đoạn trước đó, ta rút ra bài học kinh nghiệm: cần phải

tập hợp, đoàn kết nhân dân đấu tranh đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đi theo đường lối
chỉ đạo sáng tạo, đúng đắn. Và Đảng đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất – nơi quy
tụ mọi tổ chức, cá nhân yêu nước, không chỉ trong nước mà còn là những kiều bào sinh sống ở nước
ngồi nhưng một lịng hướng về q hương, đất nước. Tùy vào từng thời kỳ, điều kiện lịch sử, căn cứ


vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng mà điều lệ và cương lĩnh của mặt trận có những thay đổi sao cho
phù hợp và tên mặt trận cũng có thể khác. Song thực chất đó chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã
hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, quy tụ đông đảo các giai tầng trong xã hội cùng phấn đấu vì
mục tiêu chung là: giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
* Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất
- Thứ nhất, mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng trên nền tảng của khối liên minh cơng – nơng
– trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Thứ hai, mặt trận hoạt động trên cơ sở vì nước, vì dân, đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền
lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân. Người luôn đặt vấn đề của nhân dân lên hàng đầu, ưu tiên giải
quyết.
- Thứ ba, mặt trận hoạt động trên cơ sở nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng
rộng rãi và bền vững.
- Thứ tư, mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thực sự, chân thành,
thân ái, giúp đỡ lẫn nhau cũng tiến bộ. Thực tế, mặt trận thống nhất đã trải qua bao khó khăn thử
thách của lịch sử dân tộc nhưng vẫn kiên trì trụ vững và đến nay lấy tên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(1976).
Đảng và Nhà nước Việt Nam cần làm để góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân, đảm bảo cho đất nước có đủ sức mạnh để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong
tình hình mới:
* Làm tốt công tác vận động quần chúng (công tác dân vận)
Việc vận động quần chúng, thu hút quần chúng chính là để đồn kết mọi người sẽ tạo ra động lực
phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa. Đưa những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống giúp nhân dân hiểu rõ về quyền lợi của mình cũng như
trách nhiệm của mình đối với dân tộc, đất nước. Từ đó nảy sinh ý chí muốn cống hiến, hy sinh hết

mình vì sự nghiệp cách mạng của quốc gia, dân tộc.
* Thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng đấu tranh phù hợp với từng đối tượng để tập hợp quần
chúng
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức đồn thể, quần chúng ra đời với mục đích nhằm tuyên truyền,
giáo dục, giác ngộ, vận động cũng như tập hợp mọi giai tầng, tầng lớp nhân dân trong xã hội tham
gia cách mạng, đấu tranh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình.


* Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất càng được mở rộng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối
đại đoàn kết toàn dân sẽ càng mạnh mẽ, bền vững bấy nhiêu. Khơng chỉ vậy, đồn thể, tổ chức quần
chúng và mặt trận dân tộc thống nhất sẽ là sợi dây gắn kết Đảng Cộng sản với quần chúng nhân dân,
giúp thu hẹp khoảng cách.
Câu 5:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng: “Trung với nước, hiếu với dân”:
Hiện nay, trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước cùng với đó là rèn luyện đạo đức
cách mạng của cán bộ, Đảng viên điều mà chúng ta được nghe nhiều nhất chính là: “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, bởi Người chính là một tấm gương mẫu mực về thực hành
đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Di sản
lớn nhất, quý báu nhất Người để lại cho lịch sử dân tộc chính là những tác phẩm bàn về đạo đức. Có
thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề được Người quan tâm hàng đầu trong sự nghiệp cách
mạng nước nhà. Và cũng theo Người, chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam
là: “Trung với nước, hiếu với dân”.
Đặt trong mối quan hệ về mặt đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người đối với đất nước, với
dân tộc là mối quan hệ lớn nhất và hai chữ trung, hiếu là đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là hai khái niệm đã có tư tưởng đạo đức truyền thống ở Việt Nam và các nước phương
Đông, song nội dung vẫn có phần hạn hẹp: Trung với vua, hiếu với cha mẹ; phản ánh bổn phận của
nhân dân trong chế độ cũ một mực trung thành với triều đình, bổn phận của con cái đối với cha mẹ.
Hồ Chí Minh đã khéo léo vận dụng và đưa vào nội dung mới về đạo đức cách mạng: “Trung với nước,

hiếu với dân”. Khơng chỉ vậy, Người cịn loại bỏ đi những yếu tố hạn chế của đạo đức cũ.
Trung với nước, là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đồng lịng
nhất chí đưa đất nước phát triển đi theo con đường đã chọn; là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập,
tự do cho Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội, vì nhân dân mà nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì dân, do nhân dân làm chủ. Đây
chính là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân,
tin dân, gắn bó mật thiết với dân, kính trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, hết lịng phục vụ
nhân dân; bởi Hồ Chí Minh cho rằng: “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng
xong” và cán bộ, công chức nhà nước được Người ví như một đầy tớ trung thành của nhân dân. Cần


phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền
và trách nhiệm của người làm chủ nhà nước.
Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà, thế hệ trẻ Việt Nam cần
phải làm:
Thế hệ trẻ người mà Bác cho rằng là mầm non tương lai của đất nước, sẽ góp phần đưa đất
nước phát triển cho nên Bác cũng kỳ vọng rất nhiều vào thế hệ trẻ. Bác mong muốn sao cho các cháu
có thể học hành thật giỏi, chăm chỉ để một ngày nào đó đưa đất nước chúng ta sánh vai với các cường
quốc năm châu khác trên thế giới. Và đó cũng là trách nhiệm, nghĩa vụ của thế hệ trẻ đối với đất nước
đó là cần ra sức học hành, có ý thức kỷ luật cao, cố gắng rèn luyện và nhận thấy được vai trò cũng
như tầm quan trọng của mình đối với tương lai đất nước.
Bên cạnh việc học tập còn cần phải trau dồi, tiếp thu những tư tưởng đạo đức văn minh, mới
mẻ của tồn nhân loại song song với đó là việc tìm hiểu về tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh và lấy
đó là tấm gương sáng để bản thân phát triển và noi theo.
Cuối cùng, là việc thế hệ trẻ ngày nay cần phải hiểu rõ về truyền thống tốt đẹp của ơng cha ta
trong q trình dựng nước và giữ nước; lấy đó là niềm tự hào mỗi khi nhắc về dân tộc quê hương thân
thương, và cố gắng học tập, phát huy truyền thống quý báu đó của dân tộc. Đồng thời, trong nhận
thức mỗi người cần phải nhận thức rõ vai trị của mình đối với tương lai đất nước, dân tộc mình; mỗi
người gắng sức để đất nước có thể phát triển phồn thịnh và văn minh, thực hiện được nguyện vọng

mong muốn cả đời của Bác Hồ vĩ đại.
Câu 6:
Ba kẻ địch được Hồ Chí Minh nhắc đến trong đoạn trích:
- Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc.
- Thói quen và truyền thống lạc hậu.
- Chủ nghĩa cá nhân.
Trong giai đoạn hiện nay, “chủ nghĩa cá nhân” là nguy hiểm nhất đối với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì:
Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Hồ Chí Minh từng
viết: “Tóm lại, do chủ nghĩa cá nhân mà phạm nhiều sai lầm”. Cùng với sự phân tích sâu sắc, chính
xác của Người về những biểu hiện chính của chủ nghĩa cá nhân dưới các dạng bệnh cho thấy hệ thống
này đối lập với đạo đức cách mạng, có hại cho cách mạng. Với việc đừng ngược lại phía chiến tuyến


của Đảng cũng như “một con sâu làm rầu nồi canh” vậy, nó sẽ lơi kéo bước chân tiến nhanh, tiến
mạnh của chúng ta trên con đường đi lên chế độ mới. Và hiện nay, những bệnh tật bắt nguồn từ chủ
nghĩa cá nhân vẫn đang tồn tại, ngấm ngầm phát triển trong một số bộ phận cán bộ, đảng viên, làm
giảm sút niềm tin của nhân dân vào chính Đảng. Vậy chúng ta cần áp dụng những lời dạy, căn dặn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cơ sở, tiền đề để cán bộ, đảng viên tự phê bình, phê bình dưới sự giám
sát, góp ý của nhân dân.
Biện pháp phịng, chống chủ nghĩa cá nhân:
Hồ Chí Minh khẳng định, đối lập với đạo đức cách mạng chính là chủ nghĩa cá nhân. Do đó, việc
nâng cao đạo đức cách mạng khơng thể tách rời với phịng và chống chủ nghĩa cá nhân. Đồng thời,
Người chủ trương, “Phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Vì chỉ khi
đạo đức cách mạng được nâng cao thì nó mới tạo ra một sức mạnh to lớn để chống lại chủ nghĩa cá
nhân. Sau đây là một số biện pháp:
- Thứ nhất, đối với các cán bộ, đảng viên phải luôn học tập để nâng cao cũng như thấm nhuần
đạo đức cách mạng nhằm đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân. Không chỉ vậy cần phải khơng
ngừng nâng cao trình độ chun mơn, trình độ lý luận đối với mỗi đảng viên trong Đảng nhằm đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cũng như giúp đẩy lùi được chủ nghĩa cá nhân.

- Thứ hai, cần nâng cao dân trí, thực hiện và phát huy quyền dân chủ thực sự và rộng rãi, tăng
cường mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng: “Quan tham vì
dân dại”, cho nên việc nâng cao dân trí là nội dung quan trọng tác động trực tiếp đến nhận thức và
hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên; hơn thế nữa khi thiếu hiểu biết nên nhân dân khơng có khả
năng thực hành với tư cách người làm chủ đất nước. Ở chiều ngược lại, nếu họ hiểu và nắm vững
được luật pháp, hiểu được vai trị, quyền làm chủ của mình họ sẽ đấu tranh bảo vệ và giữ gìn quyền
làm chủ của mình; góp phần khơng nhỏ vào việc chống chủ nghĩa cá nhân.
- Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng việc phát huy tính dân chủ trong Đảng là vũ khí sắc
bén, rất cần thiết để chống lại chủ nghĩa cá nhân trong nội bộ Đảng viên; bởi lẽ đó các cán bộ, đảng
viên cần có ý thức tự phê bình và phê bình chính bản thân mình cũng nhưng thường xuyên đấu tranh
phê bình và tự phê bình.
- Thứ tư, việc nâng cao chất lượng cơng tác quản lý, kiểm tra, thanh tra và giám sát cán bộ,
đảng viên của các cơ quan nhà nước, thực hiện kỷ luật nghiêm minh của các tổ chức Đảng là rất cần
thiết. Bởi theo Người, nếu thiếu những điều đó thì con người dù làm bất cứ việc gì, ở bất cứ ngành
nào cũng dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị suy thối và hủ hóa.


Đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác phải đi liền với việc xây dựng cái đúng, cái thiện chính là nhiệm
vụ lâu dài và chủ yếu cho cách mạng. Cần lấy gương người tốt, việc tốt để làm gương, giáo dục và
noi theo nhằm xây dựng Đảng, tổ chức cách mạng, cuộc sống và con người ngày càng hoàn thiện
hơn.


PHẦN III: TÀI LIỆU THAM KHẢO
Câu 2: Quan điểm thượng tơn pháp luật của Hồ Chí Minh. Tham khảo tại:
/>Minh_va_su_van_dung_trong_xay_dung_Nha_nuoc_phapall.html
Câu 3: Những kiến nghị để đẩy lùi tham ô, lãng phí, quan liêu. Tham khảo tại:
/>Câu 4: Quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề đồn kết tồn dân. Tham khảo tại:
/>Câu 6: Biện pháp phòng, chống chủ nghĩa cá nhân. Tham khảo tại:
/>



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×