Những bài học kinh nghiệm của Đảng trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
I. Khái quát quá trình Đảng ra đời
Trong giai đoạn giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, Người con quê hương Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc đi tìm đường
cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc
toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin. Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là
con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân
tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc,
gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Từ đây Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là
người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng
đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa,
nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái
Quốc về Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lơi cuốn những người u nước Việt Nam đi
theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều
tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, địi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tun bố
thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đơng Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam Kỳ có An Nam
Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đơng Dương Cộng sản Liên đồn (9-1929).
Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức
cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu
bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người
chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín
đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản
duy nhất ở Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã diễn ra. Hội nghị
nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 3/2/1930
Chủ tịch HCM tại Đại hội Cộng sản VN III tại Hà Nội
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một
Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của
quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị
đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là
Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng
đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
II. Bài học kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đây là bài học xuyên suốt toàn bộ lịch sử, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
a. Thời kỳ 1930-1945:
-Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đấu tranh chính quyền. Chủ tịch
HCM và Đảng ta nhận thức về sự chỉ đạo chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
giành độc lập lên hàng đầu và nhiệm vụ cách mạng ruộng đất thì chưa có điều kiện để
giải quyết đầy đủ.
-Chủ nghĩa yêu nước là động lực mạnh của đất nước cần phải phát huy triệt để.
-Khi chưa cải cách ruộng đất, chỉ với khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn
phản quốc chia cho nông dân nghèo, giảm tô, giảm tức cũng đủ lôi cuốn đông đảo nông
dân tham gia cách mạng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nơng dân được hưởng
nhiều quyền lợi như đánh đuổi Pháp Nhật, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, được chia công điền
và nhiều quyền lợi kinh tế chính trị khác.
-Chủ nghĩa thực dân khơng chỉ là kẻ thù của giai cấp công nhân, nông dân mà cịn là kẻ
thù của tồn dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc khơng chỉ giải phóng cơng nơng mà
giải phóng cả dân tộc khỏi ách nơ lệ.
-Cách mạng giải phóng dân tộc là thời kỳ dự bị để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng
XHCN tuy là phương hướng tiến lên sau này nhưng lại có ảnh hưởng quyết định đến tính
chất triệt để và tạo ra sức mạnh hùng hậu của cách mạng giải phóng dân tộc.
-Trước khi Đảng ra đời đã có nhiều phong trào yêu nước nổ ra theo nhiều hệ tư tưởng
khác nhau như: Phong trào Cần Vương, phong trào nông dân Yên Thế, phong trào Duy
Tân,…nhưng đều thất bại. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi là kết quả của sự nỗ
lực của tồn Đảng, tồn dân vì nhiệm vụ tối cao giải phóng dân tộc, giành chính quyền về
tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời Hồ Chí
Minh đọcTuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước VN dân chủ cộng hòa.
b. Thời kỳ 1945-1975
-Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thể hiện khác nhau ở hai thời kỳ
khác nhau: Thới kỳ 1945-1954 vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới; thời kỳ
1954-1975 vừa kháng chiến chống Mỹ.
*Thời kỳ 1945-1954
-Sau Cm Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập,
Đảng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng đất nước nhưng thực dân Pháp lại xâm lược
nước ta lần nữa. Với tinh thần chúng ta “thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Đảng đã lãnh đạo nhân dân VN
đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng. Đảng nhận định cách mạng nước ta vẫn
là cm giải phóng dân tộc, nhiệm vụ giải phóng dân tộc vẫn được đặt lên hàng đầu,
nhiệm vụ cải cách ruộng đất có điều kiện thực hiện rộng rãi hơn.
-Trong kháng chiến chống Pháp chúng ta có nhiều vùng tự do, mặc dù vậy vẫn
chưa đủ điều kiện để xây dựng CNXH. Đảng chỉ đề ra chủ trương vừa kháng chiến
vừa kiến quốc, tức là vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, chế độ dân chủ
nhân dân.
-Khối đại đoàn kết toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vừa dựa
trên nền tảng phát huy lịng u nước của tồn dân, vừa dựa trên những thành tựu
ban đầu của chế độ mới . Chế độ mới không chỉ là lực lượng tinh thần mà còn là
lực lượng vật chất to lớn, bảo đảm kháng chiến lâu dài , càng đánh càng thắng ,
cuối cùng đánh bại cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
*Thời kỳ 1954-1975
- Đường lối chiến lược kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện
một cách độc đáo chưa có tiền lệ trong lịch sử và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm
và yêu cầu cách mạng nước ta trong điều kiện đất nước tạm thời chia làm 2 miền.
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện ở đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng: cm XHCN ở miền Bắc và cm giải phóng dân tộc ở
miền Nam.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chỗng Mỹ cứu nước và những thành tựu miền
Bắc XHCN giành được là thắng lợi của đường lối do Đảng vạch ra từ Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960)
Hồ Chủ tịch đến thăm công trường khôi phục
đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan và
cầu Phủ Lạng Thương (Bắc Giang) ngày 25/1/1955
Nhân dân các dân tộc Mai Châu ( Hịa Bình) làm đường
mới phục vụ phát triển kinh tế-xã hội miền núi
c. Thời kỳ 1975 trở đi
-Đường lối chiến lược được thể hiện ở hình thái mới: Tổ quốc đã hồn tồn độc lập
thì dân tộc và CNXH gắn liền là một. Đại hội lần thứ VII của Đảng nêu quyết tâm:
Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Bởi vì
độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và chủ nghĩa xã hội là
cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
-Độc lập dân tộc là mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc, là tiền đề và điều
kiện để xây dựng CNXH. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy: sự tồn vong và phát triển
của mỗi quốc gia dân tộc đều gắn liền trực tiếp với giữ vững độc lập và chủ quyền
của mỗi quốc gia.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để lãnh đạo
cách mạng thành cơng, Đảng phải dựa vào nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu
phục vụ, ln ln gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh của
nhân dân.
-Sức mạnh của Đảng nằm ngay trong mối quan hệ giữa Đảng với dân và dân với
Đảng. Người khẳng định: "Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân, trong
thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân. Khi sức dân được
huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vơ
địch". "Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Khơng có quần chúng thì khơng thể
làm được... Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ
dàng và làm được tốt". Người khẳng định: Dân là gốc, có dân là có tất cả; dễ trăm
lần khơng dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong" để nhắc nhở cán bộ,
đảng viên về vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Từ đó
Người căn dặn: Cán bộ đảng viên phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và
trước quần chúng, hết lịng hết sức phục vụ nhân dân.Phải kính u,tơn trọng
quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt "quan cách mạng", ra
lệnh, ra oai... phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo. Đảng
phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng nhân dân và hướng dẫn nhân dân, tổ
chức thành lực lượng, thành phong trào hành động cách mạng trên các lĩnh vực
kinh tế- xã hội, an ninh- quốc phịng, có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và
văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Còn các tầng lớp của
nhân dân phải tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị tư
tưởng và tổ chức. Nhân dân là nguồn bổ sung vô tận cho Đảng và luôn luôn tràn trề
sức xuân. Quần chúng cịn tham gia góp ý, phê bình sự lãnh đạo của Đảng với
mong muốn Đảng luôn luôn trong sạch và vững mạnh để lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng đến đích cuối cùng.
-Thực tế xuất phát từ thực tiễn đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng:
Thời kỳ 1930-1945:phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa
Thời kỳ 1945-1954: kháng chiến toàn dân, toàn diện
1954-1975: thế trận chiến trnh nhân dân
Đổi mới: phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
- Toàn bộ hoạt động của Đảng xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân.
Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám là đem lại lợi ích tối cao cho dân tộc, vì lợi
ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người; đó là: đánh đổ
thực dân phong kiến, giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, đem
lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân,... Vì thế, trước lời hiệu triệu của Lãnh
tụ Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh, toàn dân đã nhất tề đứng lên giành chính
quyền, tạo nên mợt cao trào cách mạng rộng khắp, mạnh mẽ chưa từng thấy với
đông đảo lực lượng tham gia, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp,
mọi thành phần kinh tế, mọi giới và mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam.
-Đảng đổi mới công tác vận động quần chúng: gần gũi, lắng nghe ý kiến của nhân
dân, kịp thời giải quyế những vấn đề mới nảy sinh, thực hiện dân biết, dân bàn, dân
làm và dân kiểm tra.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng
nước ta. Chủ tich HCM đã khẳng định: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành
cơng, thành cơng, đại thành cơng.
-Truyền thống đồn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng
+1936-1939: thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương
+1939-1945: thành lập mặt trận Việt Minh
+1945-1975: thành lập 3 tâng mặt trận: trong nước, 3 nước Đông dương, thế giới.
-Thành công nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam là đề ra Cương lĩnh, đường lối
chính trị đúng đắn vì lợi ích của đất nước và dân tộc. Trên cơ sở đường lối đúng
đắn mà tập hợp, đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu chung là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết là nguồn sức mạnh giúp dân tộc
Việt Nam vượt qua những khó khăn, thử thách để dựng nước và giữ nước. Đại
đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam
xuất phát từ nhận thức ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng khơng
có mục đích nào khác. Đại đồn kết tồn dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đồng
thời đồn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp khác, đoàn kết 54 dân tộc trên đất nước
Việt Nam, đồn kết các tơn giáo, đoàn kết với cộng đồng người Việt Nam định cư
ở nước ngoài.
Đại đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở lấy mục tiêu chung làm điểm tương
đồng, đồng thời bảo đảm lợi ích riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bộ phận, cá nhân
khơng trái với lợi ích chung của dân tộc, đất nước. Đảng chú trọng xây dựng các
hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp đoàn kết rộng rãi mọi
thành phần, lực lượng trong dân tộc, xã hội, đa dạng hóa các hình thức tổ chức tập
hợp quần chúng, nêu cao vai trò các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng, nghề
nghiệp. Đường lối và bài học đại đoàn kết dân tộc của Đảng là sự kế thừa và phát
triển truyền thống đồn kết hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc, truyền thống gắn kết trong các hình thức cộng đồng, gia đình, dịng họ,
làng xã đến cộng đồng dân tộc, quốc gia. Đại đoàn kết dân tộc cũng là nối tiếp
truyền thống nhân văn, nhân ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau của dân tộc Việt
Nam. Sự kết tinh các giá trị cao cả và sâu sắc đó của chiến lược đại đồn kết dân
tộc trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng và dân
tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy động lực
cách mạng từ quảng đại quần chúng và xác định nhiệm vụ tổ chức, tập hợp, đoàn
kết, coi đây là chiến lược xuyên suốt, nhất quán, là cội nguồn sức mạnh trong mọi
thời kỳ cách mạng. Chính đại đồn kết dân tộc là nguồn sức mạnh to lớn góp phần
làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc, đưa đất nước đến bến bờ độc lập.
Trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo
con đường chủ nghĩa xã hội, đoàn kết vẫn tiếp tục là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, luôn
được nhấn mạnh qua các kỳ đại hội. Gần đây nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế.
Dù trong bất cứ hồn cảnh nào thì Đảng ta cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự
chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
- Cương lĩnh, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã tổ chức và động viên sức mạnh
của dân tộc, coi cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ
sự ủng hộ của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Muốn người ta giúp
cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong cao trào giải phóng dân tộc,
Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn thể quốc dân hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta. Nhờ phát huy sức mạnh, ý chí tự lực tự cường của cả dân tộc, nên đã
chớp được thời cơ thuận lợi dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Trong các cuộc kháng chiến lâu dài giành độc lập, thống nhất hoàn toàn,
Đảng đã triệt để phát triển sức mạnh của dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, đồng thời tranh thủ tối đa sự giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, tạo nên sức mạnh
tổng hợp để giành thắng lợi.
-Đảng đề ra và thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước, thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà nước cũng tranh thủ tối
đa những vấn đề mới của thời đại: Hội nhập kinh tế quốc tế, tồn cầu hóa, thành
quả của cách mạng khoa học, cơng nghệ, kinh nghiệm quản lí của các nước tiên
tiến, những vấn đề về kinh tế tri thức… Nội lực và sức mạnh dân tộc bao giờ cũng
có ý nghĩa quyết định, song sức mạnh đó được tăng cường khi có sự kết hợp đúng
đắn với ngoại lực và sức mạnh của thời đại.
Nhân dân Ba Lan nồng
nhiệt đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đồn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa, tháng 7-1957
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Đảng khơng có lợi ích nào khác ngồi việc phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề
do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn:
sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng
viên.
-Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã chấm dứt sự khủng khoảng về đường
lối cứu nước kéo dài mấy thập kỷ, đồng thời chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách
mạng Việt Nam đi theo con đường mới - con đường cách mạng vô sản. Đảng chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
-Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta ở trong hồn cảnh
“ngàn cân treo sợi tóc” và phải đương đầu với kẻ thù có vũ khí hiện đại, trong khi
lực lượng của ta nhỏ bé, ít kinh nghiệm, vũ khí thơ sơ, lạc hậu. Song, Đảng ta vẫn
kiên định chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, bồi dưỡng sức dân về tinh
thần và vật chất. Đặc biệt là quan tâm, chăm lo dân chủ, chú trọng quyền cơng dân,
thi hành chính sách giảm tơ, giảm tức, phát động quần chúng cải cách ruộng đất,
hoàn thành thực hiện người cày có ruộng.
Nhờ chính sách đúng đắn, kịp thời, linh hoạt của Đảng, Nhân dân ta đồn kết một
lịng, muôn người như một đã anh dũng chiến đấu để làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ lừng lẫy năm châu, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ
(ngày 20/7/1954), lập lại hịa bình ở Đơng Dương. Sự kiện này đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu
đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của
nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hồ bình,
dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh họp
Chiến dịch Biên giới năm 1950.
với
Thường
vụ
Trung
ương
Đảng
quyết
định
mở
III. Vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã trình bày hệ thống quan
điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hệ quan
điểm chỉ đạo này có ý nghĩa rất quan trọng, chứa đựng những nội dung mới về nhận thức
lý luận, địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn tới. hệ thống quan điểm đó
như sau:
Thứ nhất, quan điểm về chiến lược phát triển tổng thể đất nước. “Kiên định và
vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới
của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” Trải qua chặng đường hơn 90 năm xây
dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng ta ln kiên trì, kiên định với mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng đã kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội để từ đó tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngày nay, trong bối cảnh
thế giới đang trải qua những biến động to lớn, phức tạp; sự gia tăng của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế, đặt ra cả thời cơ và
thách thức trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Vì vậy, phải
kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội đi đơi với tăng cường tiềm lực quốc phịng - an ninh.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, phải kiên định và vận
dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh,
nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng nào xa rời những ngun tắc đó sẽ
khơng tránh khỏi rơi vào suy thối, biến chất, tan rã, đánh mất vai trị lãnh đạo của
mình.
Thứ hai, quan điểm về chiến lược phát triển tổng thể đất nước. “Bảo đảm cao
nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát
triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các
nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt; phát triển văn hố là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phịng, an ninh là
trọng yếu, thường xuyên.” Trong thời kỳ mới, chiến lược phát triển đất nước đòi
hỏi phải gắn kết chặt chẽ, đồng bộ hơn các nhiệm vụ, các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại. Đại hội XIII của Đảng đã tiếp
tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, vì xây dựng Đảng liên quan
đến sự sống cịn của Đảng, đến vận mệnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, khi nhấn mạnh tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đồng thời cũng rất coi trọng nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh tồn diện. Trong
đường lối của mình, Đảng ta coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển, là nguồn lực nội sinh. Và để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kế thừa Đại hội XI, Đại hội XII, Đại hội XIII của
Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm “tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên”. Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu phải gắn kết
chặt chẽ hơn nữa giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xây dựng nền ngoại giao
toàn diện, hiện đại, phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc ngăn ngừa
các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa để bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, quan điểm về khơi dậy, phát huy mạnh mẽ các động lực phát triển.
Một trong những bài học quan trọng được đúc kết từ thành công của Cách mạng
tháng Tám năm 1945 là tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh đến vấn đề tự lực, tự cường. Khi động viên
tồn dân tích cực tham gia và ủng hộ Chính phủ trong dịp kỷ niệm 1.000 ngày
kháng chiến, ngày 10/6/1948, Người nói rõ: “Mỗi một người dân phải hiểu: Có tự
lập mới độc lập, có tự cường, mới tự do”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Việt Nam
luôn cần phải tự lực, tự cường, không chỉ trong kháng chiến, mà cả trong xây dựng
đất nước. Yếu tố tự lực, tự cường, ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta, đóng
vai trị quyết định và nhờ có nó chúng ta mới nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ của
bạn bè quốc tế và cũng từ đó chúng ta mới có năng lực để biến sự giúp đỡ thành
những giá trị cụ thể. Ở Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo
công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam,
bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Đây là sự sáng
tạo của bài học từ Cách mạng tháng Tám: khi trước, tự lực, tự cường là để giành
độc lập, tự do; nay tự lực, tự cường là để xây dựng đất nước giàu mạnh, hạnh
phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Thứ tư, quan điểm về phát huy các nguồn lực để phát triển.
46 năm trôi qua (1975-2021) kể từ đại thắng mùa Xuân năm 1975 bài học của sự
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại đến nay vẫn cịn ngun giá
trị, bài học đó càng có ý nghĩa thực tiễn đối với công cuộc đổi mới xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiến
hành sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, trong bối cảnh thế giới
trong nước vừa có thời cơ vừa có nguy cơ đan xen, đưa đến cho chúng ta trước
những cơ hội và thách thức mới. Trong bối cảnh đó, bài học đại đồn kết thống
nhất của tồn dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc sức mạnh thời
đại trong đại thắng mùa Xuân 1975 càng toả sáng. Vì thế, Đại hội XIII của Đảng
xác định: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập,
tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy
tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực
con người là quan trọng nhất. Quan điểm trên đây cũng chính là đường lối,
phương châm đối nội và đối ngoại trong thời kỳ mới.
Thứ năm, quan điểm về xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị,
với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà
nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao
chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là
những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XIII của Đảng xác định đây là những khâu thống nhất, gắn bó chặt chẽ với
nhau, tạo thành sức mạnh chính trị to lớn có ý nghĩa quyết định thành cơng của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên định với quan điểm “xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt”, “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh:
“Phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng tồn diện
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”; phải “phát huy bản chất giai
cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
tồn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh
giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân
dân”
Ngồi vận dụng vào những quan điểm xây dụng đảng, đảng ta còn vận dụng những bài
học đó vào q trình phịng và chống dịch COVID-19.
Trong những năm gần đây, đất nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội lớn, đồng thời
cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Và hiện nay, đất nước ta phải đối mặt
với mn vàn khó khăn, thử thách mới của làn sóng đại dịch COVID-19 lần thứ tư.
Chúng ta đã trải qua 3 làn sóng, 3 đợt dịch COVID-19 với những diễn biến phức tạp,
khôn lường. Nhưng ngay từ những ngày đầu khi dịch bệnh bùng phát Đảng và nhà nước
ta đã kịp thời đề ra các phương án, chỉ đạo thực hiện các biện pháp cấp bách phịng
chống dịch bệnh. Nhờ có các chỉ đạo, phương án giải quyết kịp thời mà Việt Nam đã
chiến thắng trận đầu với chỉ 16 bệnh nhân nhiễm virus Corona . Sau một thời gian không
có ca nhiễm mới, tối ngày 6/3/2020 Hà nội cơng bố trường hợp đầu tiên dương tính với
virus corona, sau đó các trường hợp nhiễm bệnh được phát hiện liên tục .Nhưng sau gần
1 tháng, xác định được thời điểm vàng trong cơng tác phịng chống dịch bệnh, Thủ tướng
đã ban hành Chỉ thị số 16 thực hiện giãn cách xã hội 15 ngày để tránh lây nhiễm. Nhờ
xác định đúng được thời điểm quan trọng này, với biện pháp chóng dịch quyết liệt đến
nửa cuối tháng 4/2020, Việt Nam chỉ có 363 ca bệnh nhiễm virus corona. Các ca nhiễm
trong cộng đồng tạm không xuất hiện. Gần 100 ngày sau, Bộ Y tế Việt Nam công bố ca
nhiễm trong cộng đồng được phát hiện tại Bệnh viện Đà Nẵng. Ngay sau đó, các biện
pháp phịng chống dịch được kích hoạt và triển khai quyết liệt tại tất cả các địa phương
trên cả nước. Các cuộc họp của Chính phủ và Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống bệnh
viêm đường hô hấp cấp Covid-19 liên tiếp được tổ chức, Bộ Y tế liên tiếp đưa ra các
Thông báo khẩn để triển khai nhanh chóng, kịp thời các biện pháp phịng, chống dịch.
Trong bối cảnh mới, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc khoanh vùng, thực hiện nghiêm
ngặt việc giãn cách xã hội ở các nơi được coi là ổ dịch. Ngay khi tận dụng tốt cơ hội vàng
này, theo kịch bản của Bộ Y tế Việt Nam thì đến ngày 15/8 theo kịch bản thấp, Việt Nam
có khoảng 1500 ca nhiễm; kịch bản cao Việt Nam có khoảng 3000 ca nhiễm. Khác xa với
kịch bản của Bộ Y tế Việt Nam, Đến hết ngày 15/8 Việt Nam chỉ có 950 ca nhiễm. Thậm
chí, cho tới sáng ngày 18/9 Việt Nam cũng mới chỉ ghi nhận 983 ca nhiễm. Từ đó, ta có
thể thấy Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng thành công bài học chớp thời cơ của cách
mạng tháng Tám 1945 trong việc phịng chống dịch bệnh Covid-19.
Ngồi ra, tinh thần yêu nước, đại đoàn kết dân tộc từ Cách mạng Tháng Tám cũng đã rọi
chiếu vào công cuộc phòng chống dịch COVID-19 của nhân dân ta. Diễn biến phức tạp
của đại dịch COVID-19 đã và đang tác động sâu rộng tới đời sống nhân dân cũng như sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địi hỏi cả hệ thống chính trị và nhân dân cần tập
trung mọi nguồn lực, chung tay đẩy lùi dịch bệnh. Tổng Bí thư kêu gọi: “Với tinh thần
“chống dịch như chống giặc”, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết,
trước hết, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tơi tha thiết kêu gọi tồn Đảng, toàn
dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài: Chúng ta đã cố gắng càng cố gắng hơn
nữa; đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa; đã quyết tâm càng quyết tâm cao hơn nữa; tồn
dân tộc mn người như một, đồng lịng cùng Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành tìm
mọi cách quyết ngăn chặn, đẩy lùi bằng được, không để dịch lan rộng, bùng phát trong
cộng đồng” là lời hiệu triệu, tiếp thêm động lực, ý thức trách nhiệm chung cho toàn
Đảng, toàn dân đẩy lùi dịch bệnh.
Sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Chính phủ để khơng ai bị bỏ lại phía sau trong dịch bệnh
đã thể hiện quyết tâm, sự đồn kết trong phịng, chống dịch bệnh của cả dân tộc. Tất cả
đều đáng trân trọng và góp phần lan tỏa tinh thần đồn kết, góp sức cho cuộc chiến đẩy
lùi dịch COVID-19.
Nhờ sự huy động kịp thời, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự đồn kết,
đồng lịng, chung sức của nhân dân, Việt Nam đã khống chế thành công cả 3 đợt dịch
bùng phát trong cộng đồng, được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, coi là tấm gương
trong phòng chống dịch COVID-19.
Trong cuộc chiến chống dịch COVID-19 bùng phát lần 4 này, diễn biến rất phức tạp, tốc
độ lây lan nhanh, số ca nhiễm tăng cao, nhưng sự đồng lòng của nhân dân chắc chắn sẽ là
chìa khóa mở cánh cửa lớn để chúng ta thốt ra khỏi đại dịch và trở về cuộc sống bình
thường mới.