Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG CUỘC “PHÁ RÀO” TRONG CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH. NHỮNG CUỘC “PHÁ RÀO” ẤY CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO VỚI NỀN KINH TẾ?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.99 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA ________________
--------------------

BÀI THẢO LUẬN
Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài: NHỮNG CUỘC “PHÁ RÀO” TRONG CÁC XÍ NGHIỆP
QUỐC DOANH. NHỮNG CUỘC “PHÁ RÀO” ẤY CÓ Ý NGHĨA
NHƯ THẾ NÀO VỚI NỀN KINH TẾ?

Giảng viên hướng dẫn : ____________
Sinh viên thực hiện

: ____________

Lớp học phần

: ____________

Hà Nội, tháng 4 năm 2021


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Từ sau giải phóng miền Nam, mơ hình kinh tế của miền Bắc được áp dụng cho cả
nước. Nhưng hoàn cảnh lúc này đã khác, nền kinh tế của miền Nam có hàng loạt đặc
điểm mà khơng thể đơn giản áp đặt mơ hình kinh tế của miền Bắc vào. Những phản ứng
từ cuộc sống không dễ dập tắt chỉ bằng mệnh lệnh, lại càng không thể chỉ bằng một nhát


đập bàn của một ai đó. Trước sự sa sút hiển nhiên về kinh tế từ những năm 1978-1979,
khó cịn có thể tiếp tục giải thích bằng những ngun nhân nào khác ngoài bản chất cơ
chế kinh tế và sự bất lực của những phương sách cứu chữa cũ. Từ đây, bắt đầu thời kỳ rất
sống động của việc tìm tịi. Trong hồn cảnh đó đã có những mũi tìm tịi, khảo nghiệm để
“phá rào” trong kinh tế tháo gỡ những ách tắc. Những bước đi tìm đường đầy gian truân
ấy trong một giai đoạn dài chính là xuất phát từ yêu cầu bức thiết của đời sống, tạo tiền
đề cho những đổi mới toàn diện sau năm 1986.
Nền tảng của q trình “phá rào” đó chính là những trái tim thương dân, yêu nước,
thiết tha với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa để từ đó dần dần đi đến những
quyết sách của đổi mới sau này. Có thể nói đứng trước những thơi thúc, cấp bách của tình
hình đất nước, những bước tìm tịi, khảo nghiệm, đột phá của những cá nhân, địa phương,
những lãnh đạo thời kỳ này là những nỗ lực đầy chông gai trên con đường bảo vệ chế độ
mà Đảng và Nhân dân đã lựa chọn và chăm lo cho đời sống Nhân dân, thực hiện thắng
lợi Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Một chặng đường 10 năm “thai nghén” của những
quyết sách, đột phá lớn sau năm 1986, chặng đường đấu tranh giữa cái mới - cái lạc hậu,
đúng - sai. Chặng đường ấy là những nỗ lực lớn trên con đường chúng ta thực hiện thắng
lợi Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.

3


CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH XÃ HỘI TRƯỚC ĐỔI MỚI
I.1.

Bối cảnh nền kinh tế

I.1.1. Thời kỳ 1945-1954: Đẩy mạnh sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế kháng
chiến
Thời kỳ 1945-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam và là
giai đoạn khó khăn nhất, gian khổ nhất vì vừa phải kháng chiến chống giặc, vừa phát

triển kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam
thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực yếu kém. GDP
bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD.
I.1.2. Thời kỳ 1955-1975: Khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thực hiện các
chỉ tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất
Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5
năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành
công nghiệp và nông nghiệp. Năm 1975, GDP bình quân đầu người đạt 232 đồng, tương
đương 80 USD.
Sản xuất công nghiệp từng bước được khôi phục và phát triển với đường lối cơng
nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng. Năm 1975, giá
trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 4.175,4 tỷ đồng, gấp 13,8 lần năm 1955; bình quân
năm trong giai đoạn 1956 -1975 tăng 14%/năm.
Thương nghiệp quốc doanh được nhà nước quan tâm và có sự phát triển nhanh
chóng, làm nhiệm vụ hậu cần cho sản xuất và chiến đấu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã
hội năm 1975 đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần năm 1955. Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn
1955 -1975 mỗi năm tăng 4,3%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 66% của thời kỳ 19451954.
1.1.3. Thời kỳ 1976-1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp
4


- Những đặc điểm chủ yếu của thời kì này là:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp
lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn ; định giá sản phẩm,
tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà
nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao

nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý
đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không gây ra
thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp khơng có quyền tự chủ sản
xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh
doanh.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ
yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thơng qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều
hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng
không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được
hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
- Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp
hơn nhiều lần so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch tốn kinh tế chỉ là
hình thức.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu
dùng cho cán bộ, cơng nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem
phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương
5


hiện vật, thủ tiêu động lực tích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo
lao động.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng khơng có chế tài ràng buộc
trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng
đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế "xin cho".
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác

dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ
yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong q trình cơng nghiệp hóa
theo hướng ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm
hãm tiến bộ khoa học - cơng nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động,
khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền
kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng
các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện tại thì cơ chế quản lý này
càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây; trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta
xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ
mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ
sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh, và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh
chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng.
Đặc biệt, vào thời kỳ 1976-1980 là thời kỳ triển khai những tư tưởng của Đại hội
Đảng lần thứ IV và phấn đấu thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980.
Có thể nói, thời kỳ này được dự kiến là thời hịa bình và phát triển với tốc độ cao nhất,
khi đất nước đã "sạch bóng quân thù”
Nhưng trong thực tế đã có hàng loạt diễn biến trái ngược với dự kiến chủ quan ban
đầu. Như chính Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhìn nhận vào năm 1979: "Trong bốn năm qua,
nhiều sự kiện đã diễn ra trái với điều mong muốn”
6


Những diễn biến đó là gì?
1 Viện trợ Mỹ được thay bằng cấm vận của Mỹ Ở miền Nam
Sự phong phú về hàng hóa đã sớm chuyển thành sự thiếu hụt. Chúng ta biết rằng
nguồn hàng công nghiệp phong phú của miền Nam chủ yếu là dựa vào nhập khẩu. Mỗi

năm, miền Nam nhập khẩu khoảng trên dưới một tỷ đô la, thông qua hệ thống viện trợ
Mỹ. Nguồn này chấm dứt đột ngột từ 30/04/1975 đã ảnh hưởng tới cả sản xuất lẫn tiêu
dùng.
Trong nông nghiệp, miền Nam đã quen sử dụng phân bón, máy móc để canh tác,
chuyên chở, chế biến. Sau giải phóng, máy móc thì cịn, nhưng xăng dầu ngày càng khan
hiếm. Do thiếu xăng, máy cày, máybơm không hoạt động được, ghe thuyền không vận
chuyển được, xe cộ cả loại hai bánh lẫn bốn bánhcũng gặp khó khăn. Nhiều xe vận tải đã
chuyển sang chạy bằng than củi (gasozene). Xe Honda phải phathêm dầu hôi (dầu hỏa)
vào xăng. Xe xích lơ máy thì chạy hồn tồn bằng dầu hơi.
Trong cơng nghiệp, nguồn điện chủ yếu cũng dựa vào xăng dầu để sản xuất ra điện,
bây giờ cũng bắt đầu khó khăn. Chỉ gần một năm sau giải phóng, miền Nam bắt đầu phải
hạn chế điện theo giờ để ưu tiên cho sản xuất. Một số nhà máy thiếu nhiều thứ nguyên vật
liệu quan trọng. Nhà máy đường thiếu đường. Nhà máy thuốc lá thiếu sợi thuốc. Nhà máy
dệt thiếu sợi dệt, thuốc nhuộm. Nhà máy in thiếu 18 mực, giấy. Các lò bánh mỳ thiếu bột
mỳ, men nở. Các cơ sở sản xuất bánh kẹo thiếu đường. Các nhà máy làm đồ nhựa thiếu
hạt nhựa... Trong nhiều sự thiếu hụt, thì sự thiếu hụt phổ biến nhất là thiếu hụt phụ tùng
thay thế. Các nhà máy thiếu vòng bi. Xe cộ thiếu săm lốp. Ngay những chiếc xe Honda
cũng bắt đầu khủng hoảng về xích cam, bạc đạn, píttơng. Trên các nẻo đường của miền
Nam bắt đầu xuất hiện các tiệm sửa xe đề biển "phục hối bugie cũ", "làm lại xích cam,
"doa xilanh"...
Do những thiếu hụt lớn đó, hàng trăm xí nghiệp của miền Nam mà dự kiến sẽ là
những đầu tàu đưa cả nước cất cánh trên con đường cơng nghiệp hóa, thì bản thân nó kêu
cứu: Một số lớn đã đóng cửa, cho công nhân nghỉ việc hoặc đi làm ruộng rẫy kiếm ăn, số
còn sản xuất cầm chừng.
2 Thiên tai - địch họa
7


Từ năm 1977-1978, bóng quân thù lại xuất hiện ở phía Tây Nam: Tồn bộ tuyến biên
giới Tây Nam bị quân Pol Pot đánh phá. Lính Khơ me đỏ đã tấn công vào hầu khắp các

xã biên giới. Đạn pháo đã bắn hằng ngày vào lãnh thổ Việt Nam. Hàng ngàn đồng bào
(trong đó có cả trẻ em) đã bị tàn sát. Cuối năm 1978, Việt Nam đưa quân sang để cứu
nhân dân Campuchia thoát khỏi ách thống trị của chính quyền sát nhân Pol Pot. Việc duy
trì một qn số rất lớn ở trong nước và ở cả Campuchia là một gánh quá nặng đè lên một
ngân sách quá yếu và một dân tộc đã quá mệt mỏi sau nhiều thập kỷ chiến tranh.
Đầu năm 1979 thì bóng qn thù lại tràn ngập khắp biên giới phía Bắc và gây những
tổn thất rất nặng nề. Cũng vào cuối năm 1978 và liên tiếp cả năm 1979, có hai trận lũ lớn
ở đồng bằng Nam Bộ cuốn mất lương thực, tài sản, nhà cửa. Hàng trăm ngàn người rơi
vàocảnh màn trời chiếu đất. Phần rất lớn diện tích canh tác bị ngập úng 5- 6 tháng. Gia
súc, gia cầm phải bán chạy lụt với giá hạ, sản lượng gia súc, gia cầm giảm nghiêm trọng.
Kinh tế, đời sống nhiều địa phương bị đảo lộn lớn.
3 Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cũng giảm sút
Trước hết là khoản viện trợ của Trung Quốc, từ sau ngày giải phóng, do nhiều diễn
biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, nguồn này giảm mạnh và đến năm 1977 thì chấm
dứt hoàn toàn.
Nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng giảm sút về mặt hiện vật,
mặc dù tính bằng tiền thì có tăng lên. Từ năm 1978, Việt Nam tham gia 19 Hội đồng
Tương trợ Kinh tế (khối SEV), phải chấp nhận mọi thiết chế kinh tế của khối đó, trong đó
có thiết chế về giá. Theo quy định của khối SEV thì việc mua bán, nhập khẩu giữa các
nước trong khối SEV được áp dụng theo giá trượt". Giá trượt được tính theo mức giá
bình qn trên thị trường thế giới trong nămtrước đó để hình thành giá cho năm sau. Mức
giá này cao khoảng 2,5-3 lần so với mức giá viện trợ hữu nghị của các nước xã hội chủ
nghĩa dành cho Việt Nam, do đó chỉ mua được một khối lượng hàng bằng khoảng một
nửa trước đây. Những khó khăn của đầu vào đã dẫn tới phản ứng liên hoàn trong đời sống
kinh tế.
Nhà nước khơng cung ứng đủ vật tư cho các xí nghiệp, thì sản phẩm cơng nghiệp
quốc doanh cũngkhơng đạt đủ định mức. Khơng có đủ sản phẩm cơng nghiệp thì khơng
có tiền trả lương cho cơng nhân, viên chức. Nhà nước cũng khơng có đủ hàng để trao đổi
8



với nông dân để thu mua nông sản theo giá kế hoạch. Khi nông dân phải sống với thị
trường, mua vật tư trên thị trường tự do thì họ cũng yêu cầu phải bán thóc theo giá thị
trường tự do. Mức huy động lương thực do đó giảm sút nghiêm trọng... Trên thị trường
hàng tiêu đùng, mậu dịch quốc doanh khơng có hàng bán ra. Nhiều thành phố lớn thiếu
gạo, thiếu chất đốt, thiếu điện, thiếu nước... Các nguồn hàng trong kế hoạch vốn đã eo
hẹp lại bị thất thoát bằng nhiều cách khác nhau.

Biếm họa 1: Cơ bắp hóa quạt điện! (Báo Văn nghệ, ngày 22/08/1981)

Biếm họa 2: Hết xăng! Ngay cả xe cấp cứu cũng phải đưa đi "cấp
cứu" (Báo Văn nghệ, ngày 23/10/1982)

9


Biếm họa 5: Bán sắt vụn để lấy tiền trả lương cơng nhân
Chính thời kỳ này đã xuất hiện tình trạng bán không bán được, mua không mua được.
Sự ách tắc ở cái gạch nối giữa cung và cầu. Trong sự ách tắc đó, đã xuất hiện một khoảng
trống. Trong khoảng trống đó, thị trường tự do lớn lên. Người nơng dân khơng bán nơng
sản cho Nhà nước thì họ bán ra thị trường tự do. Người tiêu dùng có tiền nhưng không
mua được hàng theo hệ thống cung cấp cũng phải ra thị trường tự do. Những thiết chế
của nền kinh tế kế hoạch là nhằm loại trừ kinh tế tư nhân và thị trường tự do, thì trong
tình huống này lại nhường địa bàn cho những thứ đó. Đã xuất hiện những mối quan hệ
"cộng sinh" (symbiosis) giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do, giữa kinh tế quốc
doanh và kinhtế ngoài quốc doanh như sản phẩm tất yếu của tình trạng thiếu hụt.
4 Liệu pháp cải tạo
Ngày 23/03/1978, Bí mật, bất ngờ,cùng một lúc hầu hết các doanh nghiệp tư nhân
đều bị khám xét. Cả máy móc lẫn hàng hóa và nguyên vật liệu đều bị tịch thu. Một bộ
máy quản lý mới được Nhà nước cử về thay thế các chủ cũ điều hành sản xuất. Một số

chủ bị bắt. Một số bỏ trốn ra nước ngồi. Các xí nghiệp cơng nghiệp tư nhân chuyển
thành công tư hợp doanh. Những cơ sở sản xuất nhỏ của tư nhân được đưa vào tổ hợp sản
xuất. Thương nghiệp bán bn của tư nhân bị xóa bỏ triệt để. Thương nghiệp bán lẻ được
cải tạo thành các tổ dịch vụ. Một số lớn thương nhân được đưa về các vùng kinh tế mới
để khai hoang, tổ chức sản xuất. Chỉ những người buôn thúng bán bưng và những dịch vụ
lặt vặt như chữa xe, cắt tóc thì cịn tồn tại. Kết quả là kinh tế tư nhân bị phủ định, mà
10


khơng thực hiện được mục đích phát triển sản xuất. Có thể nói, cuộc cải tạo tư sản cơng
thương nghiệp ở miền Nam trong một chừng mực nào đó lại là đánh vào chính nền kinh
tế quốc dân, đánh vào đời sống của nhân dân.
Cũng năm 1978, lại một sự cố nữa - vụ "nạn kiều", làm cho 300 ngàn trong tổng số
một triệu người Hoa bỏ đi, mà đó lại là những người chủ kinh doanh lớnhơn cả, làm cho
sản xuất càng thêm sa sút. Tuy nhiên, khác hẳn miền Bắc sau 1954, các doanh nghiệp tư
nhân vẫn sống sót qua các chiến dịch cải tạo. Một mặt, do nó vẫn có tiềm năng ở trong
nước và những chỗ dựa quốc tế (Việt kiều và người Hoa trên khắp thề giới); mặt khác,
khả năng sống sót của nó cịn do cả sự suy yếu và bất lực của khu vực Nhà nước.
Doanh nghiệp tư nhân chỉ tạm thời choáng váng sau đòn đánh bất ngờ năm1978.
Đến năm 1979, khi kinh tế cả nước bắt đầu đi vào một chu kỳ khủng hoảng và sa sút
nghiêm trọng, thì kinh tế tư nhân lại phục hồi và lớn lên. Nhưng khác với hình thức cơng
khai và hợp pháp trước đây, trong cơ chế mới, kinh tế tư nhân đã "tàng hình" để sống sót
và hoạt động. Thay vì kinh doanh cơng khai, tuân theo luật pháp của Nhà nước, theo kế
hoạch và chủ trương của Nhà nước để góp phần vào quốc kế dân sinh, xây dựng dân giàu
nước mạnh như thời kỳ đổi mới hiện nay, thì tầng lớp cơng thương nghiệp tư nhân thời
đó đã buộc phải lẩn vào bóng tối chui vào các xí nghiệp quốc doanh, thậm chí nhân danh
kinh tế quốc doanh để hoạt động bất hợp pháp.

Biếm họa 8: Từ "Ai thắng ai" đến Cộng sinh (Báo Văn nghệ, ngày 02/07/1983)


11


Cùng với các chiến dịch cải tạo công thương nghiệp, Nhà nước đã tiến hành cải tạo
trong nông nghiệp. Hàng loạt nông trường đã được xây dựng ở 27 khắp miền Nam. Nơng
dân bị ép vào các tập đồn sản xuất và một số hợp tác xã. Tình trạng ách tắc cũng diễn ra
như trong công và thương nghiệp. Các nông trường quốc doanh được đầu tư nhiều tiền
vốn, máy móc và nhân lực nhưng hiệu quả rất kém. Nhiều nông trường trở thành những
đơn vị ăn bám vào ngân sách, chiếm đoạt nhiều đất đai, sử dụng nhiều lao động, nhiều
máy móc tối tân nhưng khơng tạo ra được sản phẩm như mong muốn. Nền kinh tế tập thể
của nông dân chỉ tồn tại trên giấy tờ và trên hình thức, do cấp ủy địa phương sợ Trung
ương nên phải làm. Nông dân lại sợ cấp ủy nên phải vào tập đồn sản xuất hoặc hợp tác
xã. Máy móc đưa vào tập đoàn để hoen gỉ. Ruộng đất được canh tác cẩu thả. Từ 1976 đến
1980, sản lượng lương thực của cả nước, nhất là của miền Nam giảm sútmột cách nghiêm
trọng. Sản lượng lương thực do Nhà nước huy động thì cịn giảm mạnh hơn. Nhà nước
phải tung nốt 40 tấn vàng ra bán, lấy đô la để nhập gạo về cứu đói cho dân.
Rốt cuộc, hai chiến dịch cải tạo ồ ạt ở miền Nam được dự định như một liều thuốc
chữa trị bệnh thiếu hụt của nền kinh tế, lại trở thành một yếu tố nữa góp phần làm tăng
thêm sự thiếu hụt trong nền kinh tế.
5 Kế hoạch 5 năm 1976-1980
Đến hết năm 1980, kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 chỉ đạt được 50%, có thứ chỉ 20%.
Mức tăng trưởngbình qn năm về GDP dự định là 13 - 14%, trong thực tế chỉ đạt 0,4%.
Sản lượng nơng nghiệp là 2%/năm thay vì 6%/năm. Sản lượng cơng nghiệp chỉ tăng
0,6%/năm, thay vì 15 - 18%/năm. Khủng hoảng nặng nề nhất là hai năm 1979 và 1980,
GDP giảm 2%và l,4%, công nghiệp giảm 4,7% và 10,3%.

12


Trong nông nghiệp, với cơ chế quản lý kém hiệu quả của mơ hình sản xuất nơng

nghiệp hợp tác hóa thiếu phân bón thuốc sâu, thiếu nhiên liệu cho hoạt động tư tiêu làm
cho sản lượng sa sút. Năm 1976, sản lượng lúa cả năm là 11.827,2 nghìn tấn. Kế hoạch 5
năm định là năm 1980 sẽ nâng lên gần gấp đơi, tức là 21 triệu tấn, thì trong thực tế, đến
năm 1980 chỉ đạt 11.647,4 nghìn tấn, tức là còn chưa bằng điểm xuất phát năm 1976. Sản
lượng lương thực do Nhà nước thu mua năm 1976 là hơn 2 triệu tấn, năm 1979chỉ cịn
1,45 triệu tấn.
Do khơng thu mua được lương thực, người dân các thành phố phải ăn độn. Tại thủ đô
Hà Nội, trong khẩu phần định lượng lương thực được mua theo giá cung cấp (0,40
đồng/kg) vốn đã ít ỏi (13kg/người/tháng), đến tháng 3 năm 1978 trong thực tế chỉ cịn
được mua 4 kg gạo thơi, cịn lại là khoai lang và sắn khơ. Đó là điều mà ngay trong suốt
những năm chiến tranhcũng chưa bao giờ có. Đến nỗi thường trực Ban Bí thư lúc đó là
Nguyễn Duy Trinh phải có điện khẩn cho mấy tỉnh nông nghiệp quanh Hà Nội là Hải
Hưng Hà Bắc, Thái Bình, Hà Nam Ninh phải bằng mọi cách cung cấp cho Hà Nội, từ
tháng 4 năm đó, số gạo đủ để bán cho mỗi nhân khẩu bàng 40% tiêu chuẩn định lượng.
Bức điện cịn nhấn mạnh đó là "trách nhiệm chính trị" của các tỉnh đó đối với Trung ương
và với Thủ đơ.
Tất cả thực trạng đó đã dội vào dạ dày của mỗi người dân đặt lên bàn của các bộ
trưởng, các giám đốc xí nghiệp, các chủ tịch tỉnh và day dứt trong đầu những nhà lý,
những nhà kinh tế. Chính nhữngbức xúc đó là điều kiện trực tiếp của những mũi đột phá.
I.2.

Thực trạng ngành công nghiệp thời kỳ trước đổi mới
13


1.2.1. Chủ trương của Đảng về cơng nghiệp hố
a) Mục tiêu và phương hướng của cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa
Đường lối cơng nghiệp hóa của đảng ta được hình thành từ đại hội III (9/1960).
Trước thời kỳ đổi đường lối cơng nghiệp hóa do những đặc điểm sau đây chi phối:
- Tiến hành cơng nghiệp hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp yếu ớt

và q quặt.
- Tiến hành cơng nghiệp hóa trong điều kiện đất nước bị chia cắt, miền Bắc phải thực
hiện vai trò của hậu phương lớn và sẵn sàng ứng phó với tình huống chiến tranh lan ra
miền Bắc.
- Tiến hành cơng nghiệp hóa trong điều kiện các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện cơng
nghiệp hóa theo đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và cách mạng Việt Nam
nhận được sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước anh em.
Sự thể nghiệm đầu tiên về mơ hình cơng nghiệp hóa (1960-1965)
- Mục tiêu: xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của công nghiệp hóa, tạo điều kiện cho
cơng nghiệp hóa thắng lợi.
- Chủ trương: ưu tiên công nghiệp nặng một cách hợp lý, phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có cơng
nghiệp, nơng nghiệp hiện đại.
- Biện pháp thực hiện:
+ Về vốn gồm hai nguồn: một mặt tranh thủ sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa
anh em; mặt khác tích lũy từ trong nước.
+ Xóa bỏ các cơ sở kinh tế tư nhân, tập trung cho khu vực công nghiệp quốc doanh.
+ Áp dụng chế độ thu mua và cung cấp có kế hoạch. Nhà nước độc quyền ngoại thương.
+ Tích cực đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề

14


+ Đẩy mạnh phong trào thi đua trong công nghiệp.
Những điều chỉnh đường lối cơng nghiệp hóa
Trong 10 năm 1965-1975 , miền Bắc đã trải qua 4 lần chuyển hướng kinh tế:
- 1965 chuyển từ thời bình sang thời chiến, cuối 1968 chuyển từ thời chiến sang thời
bình, cuối năm 1972 chuyển từ thời bình sang thời chiến, đầu 1973 chuyển từ thời chiến
sang thời bình.
- Trước yêu cầu của chiến tranh q trình cơng nghiệp hóa buộc phải điều chỉnh: cơ cấu

ngành nghề sản xuất vừa hướng vào phục vụ dân sinh và quốc phịng; coi trọng quy mơ
nhà máy, xí nghiệp nhỏ, coi trọng cơng nghiệp địa phương trong cơ cấu cơng nghiệp
trung ương, địa phương, bố trí lại kinh tế trên các địa bàn đảm bảo khả năng bảo vệ và cơ
động khi kinh tế có chiến tranh cũng như tiện lợi trong lưu thông khi chiến tranh kết thúc.
Đường lối cơng nghiệp hóa trên phạm vi cả nước (1976-1985)
Lần thể nghiệm thứ 2 về công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước (1976-1979)
- Nhiệm vụ trung tâm vẫn là thực hiện cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tạo ra một cơ
cấu kinh tế công- nông nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản để tạo ra cơ cấu này ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và cơng
nghiệp nhẹ. Q trình này được thực hiện bằng cách tiến hành đồng thời 3 cuộc cách
mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng
văn hóa trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là theo chốt.
- Kết thúc kế hoạch 5 năm 1976-1980 ngành cơng nghiệp Việt nam nói riêng và nền kinh
tế nói chung khơng tiến thêm được bao nhiêu mà còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là mất
cân đối nghiêm trọng trong quan hệ cung – cầu về một số mặt hàng quan trọng.
Nguyên nhân chủ quan:
- Chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa trong khi chưa đủ các tiền đề cần thiết.
- Lấy công nghiệp nặng làm nền tảng khơng chỉ phản ánh sự nóng vội về bước đi cơng
nghiệp hóa mà cịn thể hiện quan niệm cơng nghiệp hóa cổ điển.
15


- Cơng nghiệp hóa được xem là cơng việc của nhà nước
- Cơng nghiệp hóa theo hướng thay thế nhập khẩu nên khơng gắn được thị trường trong
nước với ngồi nước, với q trình phân cơng lao động quốc tế.
- Cơng nghiệp hóa trong nền kinh tế hiện vật, khơng thừa nhận thị trường và cạnh tranh.
b) Đặc trưng chủ yếu của cơng nghiệp hố thời kỳ trước đổi mới
- Cơng nghiệp hóa theo mơ hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển
cơng nghiệp nặng.
- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên và nguồn viện trợ của các nước xã hội

chủ nghĩa; chủ thể thực hiện là nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn
lực chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, trong một nền kinh tế phi thị
trường.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan, duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến
hiệu quả kinh tế xã hội.
1.2.2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a) Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa
So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu cơng nghiệp lớn đã hình
thành, đã có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện,
than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng.
Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đã đào tạo
được đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với 1960 là
thời điểm bắt đầu cơng nghiệp hóa.
b) Hạn chế và ngun nhân
- Hạn chế: Cơ sở vật chất kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành cơng nghiệp then
chốt cịn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc
cho nền kinh tế quốc dân.
16


Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp
ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn trong tình trạng
nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
+ Về khách quan, chúng ta tiến hành cơng nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo
nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập
trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
+ Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu,
bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư.


17


CHƯƠNG 2: NHỮNG CUỘC “PHÁ RÀO” TIÊU BIỂU
2.1. Điểm sáng của những cuộc “phá rào” tiêu biểu
2.1.1. Nhà máy dệt Nam Định
2.1.1.1. Sự ra đời của nhà máy dệt Nam Định
Nhà máy Dệt lụa Nam Định có tiền thân là một cơ sở nghiên cứu về tơ lụa, do Toàn
quyền Đông Dương De Lanessan dùng ngân sách Đông Dương lập ra. Đến năm 1898,
Toàn quyền Paul Doumer đồng ý cho Dadre, với danh nghĩa là phái viên nghiên cứu vấn
đề tơ lụa Đông Dương, lập một nhà máy tơ chạy bằng hơi nước có sáu lị (basines) đặt
ngay tại thành phố. Năm 1900, một số tư bản Pháp trong Công ty bông, vải, sợi Bắc Kỳ,
đứng đầu là Dupré, hùn vốn với một tư sản người Hoa là Bá Chính Hội cùng kinh doanh.
Cùng năm này, xưởng sợi A và xưởng cơ khí được xây dựng. Năm 1924, số cơng nhân có
6.000 người. Năm 1929, Nhà máy Tơ Nam Định đã có 135 máy dệt. Đến cuối năm 1939,
nhà máy đã có 3 nhà sợi, 3 nhà dệt, 1 xưởng nhuộm, 1 xưởng chăn, 1 xưởng cơ khí 1
xưởng động lực...
2.1.1.2. Hoạt động nhà máy dệt Nam Định trong thời kỳ đổi mới


Chủ chương đổi mới

Phó Giám đốc nhà máy là kỹ sư Trần Minh Ngọc được cử làm Giám đốc. Từ lâu
ông đã trăn trở, ở cương vị mới ơng càng thêm trăn trở: Khơng có lý nào mình có máy
móc, có cơng nhân, kỹ thuật, thị trường thì đang khan hiếm hàng của mình, mà để sản
xuất ách tắc, Cơng nhân phải về q ni lợn, ni bị. Thế thì cịn gì là cơng nghiệp hóa?
Chẳng lẽ cứ phải "nơng nghiệp hóa" mãi thế này hay sao? Là người đã từng làm việc lâu
trong cương vị Phó Giám đốc, ơng rất hiểu tình hình. ơng nhẩm tính: Nếu có một số
ngoại tệ làm đà, sẽ nhập được nguyên liệu và thiết bị để tổ chức sản xuất. Những sản
phẩm đó có thể tiêu thụ trên rất nhiều kênh, khơng chỉ thu về tiền đồng Việt Nam mà cịn

có thể thu về ngoại tệ. Nếu cân đối lại thì thấy số ngoại tệ dùng để nhập nguyên liệu và
thiết bị sẽ được bù đắp ở khâu tiêu thụ và chắc chắn còn dư ra một khoản ngoại tệ tự có.
Cứ với cái đà đó, có thể tiến tới tự cân đối được ngoại tệ để tổ chức sản xuất, không chỉ
18


duy trì ở mức hiện nay, mà cịn có thể mở rộng hơn, nâng cao sản lượng, tạo công ăn việc
làm cho công nhân, nâng mức thu nhập, cải thiện đời sống...
Hoạt động đổi mới




"Lách cơ chế chứ khơng chống cơ chế"

Đứng trước những khó khăn và bức bách của nền kinh tế lúc bấy giờ giám đốc
Trần Minh Ngọc nghĩ ra một con đường mà ông gọi là "lách cơ chế chứ khơng chống cơ
chế": Xí nghiệp khơng trực tiếp đứng ra vay ngoại tệ nhưng thỏa thuận ngầm với
Vietcombank và các cơng ty ngoại thương rằng: Xí nghiệp là người chịu trách nhiệm trực
tiếp với Vietcombank về số ngoại tệ mà các công ty ngoại thương định vay. Giám đốc
Trần Minh Ngọc đã đi gặp các công ty xuất nhập khẩu ở nhiều tỉnh, lúc đó gọi là các
Unimex, để bàn về sáng kiến này. Hầu như tất cả các giám đốc đó đều đồng tình, vì nếu
khơng bắt tay với người sản xuất thì họ khơng thể nào kinh doanh xuất khẩu được. Như
vậy là không chỉ có các Unimex giúp đỡ xí nghiệp, mà xí nghiệp cũng giúp đỡ các
Unimex. Tiếp đó, Giám đốc Trần Minh Ngọc đến gặp lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương
Trung ương. ông Nguyễn Văn Dễ lúc đó là Phó Tổng Giám đốc Vietcombank hiểu ngay
ra vấn đề và hoàn toàn đồng tình. Sau đó, cả ba bên thống nhất một giải pháp: Về danh
nghĩa, các Unimex đứng ra vay tiền của Vietcombank, trên cơ sở có giải trình phương án
thu mua hàng xuất khẩu. Cơ sở có khả năng thực tế đảm bảo sản xuất được hàng xuất
khẩu chính là Nhà máy Dệt lụa Nam Định. Thị trường xuất khẩu thì các Unimex đã có

sẵn. Cuộc liên kết tay ba bắt đầu từ đó.


Khai thác thị trường trong nước.

Sau khi hình thành phương án đó, Giám đốc Trần Minh Ngọc cịn tính đến một
giải pháp rộng hơn và thiết thực hơn: Khai thác thị trường trong nước. Mặt hàng lụa xuất
khẩu địi hỏi chất lượng cao. Muốn tạo được thói quen của người tiêu thụ ở nước ngồi,
cần phải có thời gian. Trong khi đó, trên thị trường nội địa, lụa là mặt hàng rất quý hiếm,
có thể nói là "đắt như tơm tươi." Nếu đem lụa đó trao đổi với các địa phương với nông
dân, với các hợp tác xã thì có thể thu được những nơng sản có giá trị xuất khẩu. Nhà máy
đem vải lụa đổi lấy lạc, vừng, đỗ tương và đỗ xanh, theo tỷ lệ thỏa thuận hai bên cùng có
lợi. Cịn nơng dân, thay vì giao nông sản cho các Unimex, nay giao cho nhà máy, nhà
máy lại giao những thứ nơng sản đó để cho các Unimex xuất khẩu thu ngoại tệ. Như vậy,
19


một hình thức liên kết tay bốn đã hình thành mà thường được gọi là xuất khẩu "nội biên."
Mối liên kết này cũng chỉ là sự thỏa thuận ngầm giữa bốn phía. Cịn về hình thức thì ngân
hàng chỉ rót tiền cho ngoại thương, nhà máy vẫn chỉ là đơn vị sản xuất, không mua không
bán, mà chỉ cung cấp và giao nộp. Các cơ quan ngoại thương thì thu mua và xuất khẩu.
Như vậy là đã rất kín kẽ đối với cơ chế lúc đó. Cái hay của giải pháp này là đã tìm được
lối đi cho cái hợp lý, nhưng chưa hợp lệ để lọt qua được cái khơng hợp lý mà vẫn đang là
hợp lệ.


Cải tiến kỹ thuật, máy móc

Khơng thỏa mãn với những thành tích khiêm tốn mới đạt được, ban lãnh đạo nhà
máy vẫn không ngừng suy tư tìm cách đột phá tiếp. Vốn là một kỹ sư giỏi về ngành Dệt,

Giám đốc Trần Minh Ngọc vẫn thấy con một trở ngại: Thiết bị quá cũ kỹ, khơng thể nào
làm ra những mặt hàng có chất lượng cao để có thể chinh phục được thị trường thế giới.
Nếu giải quyết được khâu này thì sẽ mở ra được một "chân trời" rộng hơn, xa hơn.
Nhưng việc đó khơng thể chỉ giải quyết bằng đầu óc và nhiệt tình, mà phải bằng kỹ thuật.
Giám đốc Trần Minh Ngọc quyết định đặt vấn đề vay ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại
thương để nhập chiếc máy này, với niềm tin sắt đá rằng: Sẽ khơng chỉ hồn lại số tiền
nhập máy, mà còn tạo thêm ra rất nhiều ngoại tệ. Khi nhập chiếc máy này, có nhiều người
cho rằng công suất quá lớn, mà chỉ phục vụ cho sản lượng của một Nhà máy Dệt lụa Nam
Định thì q lãng phí. Giám đốc Ngọc thì đã dự kiến sẵn trong đầu: Nếu cả nước chưa
nơi nào có chiếc máy này, thì ngồi việc phục vụ cho nhà máy của mình, cịn có thể làm
gia cơng cho các xí nghiệp khác.
Nhà máy còn đề ra nhiều biện pháp như khốn lương vào sản phẩm, khuyến khích cơng
nhân tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, đề ra phương án thưởng cho cá nhân có
sáng kiến mới...


Tận dụng nguồn nhân lực khác nhau triệt để

Để mở rộng sán xuất, xí nghiệp cịn tính đến việc tận dụng các nguồn lực khác
nhau đẩy mạnh sản xuất. Đến giai đoạn này, nhà máy không chỉ mở rộng sản xuất theo
hướng tăng sản lượng và chất lượng của các sản phẩm chính, mà cịn tính đến việc tận
dụng tất cả những phụ liệu và phế liệu để nâng cao hiệu quả kinh tế.

20


Những phế liệu mà trước đây thường bỏ đi, nay được sử dụng để sản xuất một số
hàng xuất khẩu và bán trên thị trường nội địa.Để làm việc đó, nhà máy tổ chức thêm một
phân xưởng phụ gọi là phân xưởng tổng hợp, với khoảng từ 3 đến 5 máy dệt và 3 đến 5
chục công nhân viên để sản xuất. Sở đĩ gọi đây là phân xưởng tổng hợp vì tuy nó là phân

xưởng phụ nhưng nó ngày càng phát triển và đa dạng ho các mặt hàng, tận dụng tất cả
những nguồn lực từ lớn đến nhỏ; khơng bỏ thừa, bỏ phí một cái gì. Nhà máy bố trí
những con em cơng nhân và những người yếu sức nối lại những sợi tơ đứt và xe lại để dệt
thành lụa và xa tanh. ngoài việc dệt lụa, xí nghiệp tổ chức một bộ phận sản xuất quần áo
may sẵn cho phụ nữ và trẻ em để bán cho bách hóa và đem về nơng thơn đổi nơng sản.
Phân xưởng may này cũng là một trong những nơi tạo ra ngoại tệ và tạo điều kiện cải
thiện đời sống của công nhân: gạo, thịt, rau, cá... đều từ đây mà ra.


Nhiều dịch vụ mới được mở ra phục vụ cho cơng nhân

Ngồi các cơ sở sản xuất phụ, nhà máy còn tổ chức hàng loạt những dịch vụ như là
thành quả của sản xuất chính, nhưng đến lượt nó lại có những đóng góp rất quan trọng
cho sản xuất chính. Thí dụ: Giám đốc Trần Minh Ngọc đã cho xây dựng tới ba nhà trẻ
cho con em cán bộ công nhân viên. Số nhà trẻ này được phân bố hợp lý để cho các cháu
không phải đi quá xa. Nhà máy tiếp nhận tới 45 cô giữ trẻ, phần lớn cũng là con em công
nhân. Như thế vừa giúp thêm cho con em công nhân đến tuổi lao động có việc làm,
những cháu nhỏ thì được trơng coi chu đáo, bố mẹ yên tâm lao động.
Để đảm bảo sức khỏe cho công nhân, khi ốm đau không phải đi bệnh viện của thành
phố, nhà máy xây dựng một bệnh xá với 20 giường bệnh, có những phịng khám đa khoa,
có bác sỹ, y sỹ, y tá phục vụ chu đáo. Việc khám, chữa bệnh và ăn ở tại dây hồn tồn
khơng mất tiền.
2.1.1.3.

Đặc điểm, vai trị



Đặc điểm


-

Có nguồn vốn ổn định từ ngân hàng nhà nước

-

Đầu tư máy móc hiện đại, cơng nghệ mới

21


-

Tận dụng triệt để được các nguồn lực

-

Kết hợp sản xuất phụ



Vai trị

-

Nhà máy góp phần tiên phong cải thiện tình hình khủng hoảng lúc bấy giờ

-

Tạo cơng ăn, việc làm cho công nhân đặc biệt là phụ nữ


-

Cải thiện đời sống công nhân lúc bấy giờ

2.1.2. Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội
2.1.2.1.

Sự ra đời của nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội

Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội vốn là Nhà máy Thuốc lá J.BASTOS. Đó là nhà máy
thuốc lá đầu tiên của Pháp ớ Việt Nam, được thành lập ở Sài Gòn từ năm 1936. Cho đến
trước năm 1975, nhà máy vẫn do chủ Pháp quản lý. Ban đầu, công nhân của nhà máy
được đưa từ các thuộc địa của Pháp đến, dần dần được tuyển từ các làng Vĩnh Hội,
Khánh Hội... Trong thời kỳ 1946-1954, nhà máy đã liên kết với hãng thuốc lá MIC thành
một hiệp hội, cùng bắt tay nhau thống lĩnh, thao túng thị trường thuốc lá ở Việt Nam,
cùng hợp tác giải quyết những vấn đề liên quan đến việc cung ứng nguyên liệu, vật tư,
phụ tùng thay thế, thiết bị nhập khẩu, thuế, giá bán, chi phí sản xuất, quảng cáo, cạnh
tranh. Ngày 19/09/1976, Hãng J.BASTOS chính thức được Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tiếp quản và đến ngày 01/01/1978, được đổi tên thành Nhà máy Thuốc lá Vĩnh
Hội. Từ đây, nhà máy đi vào hoạt động theo phương thức, nội dung hồn tồn mới về bản
chất: Cơng nhân được làm chủ tập thể, sản xuất nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
2.1.2.2. Hoạt động của nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội trong thời kỳ đổi mới
• Chủ trương đổi mới của nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội
Sau khi nhà máy thuốc lá Vĩnh hội được thành lập,đây cũng là khoảng thời gian nhà
máy bắt đầu gặp nhiều khó khăn về vật tư, vốn. Nhà máy chỉ sản xuất cầm chừng nhờ
vào lượng vật tư dự trữ ít ỏi cịn tồn lại từ trước. Nếu nhìn vào diễn biến của sản lượng

22



trong 3 năm 1975-1977 thì thấy rằng mức độ sa sút của nhà máy còn trầm trọng hơn mức
độ sa sút chung của tồn nên kinh tế.
Trước hết, xí nghiệp tìm cách bươn chải để kiếm nguyên liệu trong nước bằng nhiều
biện pháp khác nhau. Tuy nhiên đây chỉ là phương án mang tính ngắn hạn, chỉ có thể
khắc phục một phần nào sự giảm sút về số lượng, chứ không thể nào khắc phục được sự
sa sút về chất lượng Với những nguồn nguyên liệu như thế, chất lượng thuốc lá giảm
nghiêm trọng.
Từ năm 1979, ngành Thuốc lá Việt Nam đứng trước một thách thức rất lớn: Nhiều
nguồn thuốc lá khác nhau được nhập lậu vào Việt Nam
Giám đốc nhà máy Lê Đình Thụy đã bàn với Đảng ủy xí nghiệp: Nhập được nguyên
vật liệu chất lượng tốt, ta có thể đánh bại những mặt hàng nhập khẩu đó, chiếm lĩnh thị
trường, lại cịn có thể tiêu thụ lấy ngoại tệ để phục hồi vốn ngoại tệ và quay vịng sản
xuất và cũng được sự đồng tình nhất trí cao. Sau đó, ơng tìm gặp các ơng Nguyễn Văn
Phi (Mười Phi) - Giám đốc Imexco Saigon, Nguyễn Nhật Hồng - Giám đốc Vietcombank
Thành phố Hồ Chí Minh đặt vấn đề này và cũng được cả hai đồng tình ủng hộ.
Nếu xét về chức năng này, thì Giám đốc Vietcombank khơng có quyền và cũng
khơng có trách nhiệm phải trực tiếp chạy ngoại tệ cho một xí nghiệp địa phương. Việc đó
trước hết phải do Trung ương rót về Bộ, Bộ rót về thành phố, thành phố rót về xí nghiệp.
Cũng xét về chức năng, thì Giám đốc Sở Ngoại thương khơng có trách nhiệm phải trực
tiếp đi lo nhập khẩu nguyên vật liệu cho một xí nghiệp địa phương. Việc đó là do Bộ
Cơng nghiệp và Bộ Ngoại thương. Các bộ giải quyết thế nào còn tuỳ thuộc vào tình hình
cân đối ngoại tệ trên phạm vi cả nước. Vậy đúng ra thì Sở Ngoại thương cũng chỉ biết
đắp chăn nằm chờ như các xí nghiệp. Giám đốc Sở Ngoại thương biết là không thể đưa
khoản nhập khẩu này vào chỉ tiêu kế hoạch của sở. Ơng tìm cách liên lạc với Chonimex
và nhờ Chonimex đứng ra nhập giúp.
Con đường đi từ xí nghiệp tới Vietcombank, từ Vietcombank tới Sở Ngoại thương, từ
Sở Ngoại thương tới Chonimex từ Chonimex tới các chủ hàng ở nước ngồi mất vài
tháng. Đó là tốc độ nhanh nhất có thể vào thời kỳ đó. Khi hàng về tới nơi thì đã giữa

tháng 11.

23


Đến ngày 30 tháng 11, bộ máy điều hành chiến dịch đã hình thành
• Hoạt động đổi mới tồn diện ở nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội
• Đổi mới cơ cấu tổ chức, quản lý nhà máy
- Tổ chức lại khâu sản xuất, phải áp dụng một chế độ tiền lương mới, phải tổ chức
các khâu cung ứng, đời sống, điện, nước, y tế... một cách tối ưu.
Xí nghiệp đã họp bàn và đề ra tất cả những việc cần thiết để đảm bảo kế hoạch này.
Như đã hứa với Bí thư Thành ủy, Giám đốc Lê Đình Thụy đã tính tốn rằng khi có
ngun liệu, vật liệu, có thể tổ chức sản xuất hết công suất và trong tháng 12 vẫn có thể
hồn thành được nhiệm vụ. Đến ngày 30 tháng 11, bộ máy điều hành chiến dịch đã hình
thành. Giám đốc Lê Đình Thụy được cử làm Tổng Chỉ huy chiến dịch. Ông đưa ra ba
phương châm của một tháng hành động: Gọn nhẹ, năng động, giải quyết kịp thời và hiệu
quả mọi vấn đề phát sinh trong sản xuất.
Bố trí và sử dụng nhân lực, máy móc hợp lí. Số cơng nhân, số máy và số thời gian lao
động được tính tốn một cách hợp lý để đảm bảo khơng có chiếc máy nào khơng có thợ
điều khiển, khơng có người lao động nào khơng có máy làm việc. Khi người và máy hoạt
động thì khơng để mất điện, không thiếu nguyên liệu. Sản phẩm làm ra được đóng gói kịp
thời. Các khâu vệ sinh, ánh sáng, thơng gió được đảm bảo
Trong suốt thời gian một tháng của chiến dịch, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt thường
xuyên gọi điện thoại xuống theo dõi sát sao tình hình và kịp thời giải quyết những vấn đe
liên quan đến cấp thành phố. Hằng tuần, ông xuống tận nơi xem xét tình hình, cùng với
ban chỉ huy chiến dịch bàn bạc những biện pháp cần thiết để đảm bảo tiến độ.
• Xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đội ngũ công nhân lành nghề
Đào tạo phát triển đội ngũ cán bộ kỹ thuật giúp nhân viên kỹ thuật sử dụng và khai
thác hiệu quả các thiết bị quy trình cơng nghệ với một hệ thống thiết bị được nhập khẩu
từ nước ngoài. Chất lượng sản phẩm, bao bì phù hợp mà giá thành lại rẻ, phân cơng lao

động hợp lí.

24


Song song với nó là nhu cầu rất lớn về đội ngũ nhân viên lành nghề sử dụng thành
thạo máy móc thiết bị tạo ra năng lao động cao đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và
trên thế giới
• Cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu nhà
máy.
Thay vì người Sài Cịn phải hút Samit, 555, Dunhill... thì có thể hút Sài Cịn Xanh,
Melia, Du Lịch. Đặc biệt là trong cuộc chiến với thuốc lá Samit của Thái Lan, mặt hàng
"Sài Gòn Xanh" có chất lượng tương tự, trình bày đẹp khơng kém, giá lại rẻ hơn
Từ năm 1981, nhờ có đầy đủ nguyên vật liệu tốt, Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội đã tung
ra thị trường hàng loạt mẫu mã thuốc lá chất lượng cao, trình bày đẹp, khơng kém thuốc
lá nhập ngoại, giá lại rẻ hơn.
• Chú trọng các phục lợi tập thể, chăm lo đời sống cán bộ, công nhân
Bữa ăn của cơng nhân được chăm sóc chu đáo, đảm bảo được ăn no, ngon miệng.
Ốm đau, mệt mỏi có thầy thuốc chăm sóc, thuốc thang khơng để thiếu...
Ngồi sự động viên về tinh thần, thì khuyến khích bằng lợi ích vật chất được coi là
động cơ quyết định. Nhà máy đã mạnh dạn xin áp dụng "Bản quy chế về thưởng tăng
năng suất có luỹ tiến", tức là năng suất tăng lên được thưởng, tăng càng nhiều thưởng
càng nhiều. Tính bình qn lương cơng nhân xí nghiệp thời đó là 85,12 đồng/tháng.
Nhưng tiền thưởng có người đạt tới trên 100 đồng. Vì được hưởng theo năng suất lao
động nên khơng cịn tình trạng đi muộn, về sớm. Ngược lại, cơng nhân thường đến trước
giờ làm việc, đợi xí nghiệp mở cửa thì chạy ùa vào đứng máy để làm sao đảm bảo định
mức cho mỗi buổi. Hết giờ lao động, nếu ai chưa đạt định mức thì cịn làm thêm để hoàn
thành hoặc hoàn thành vượt định mức mới ra về.
2.1.2.3. Đặc điểm và vai trò của nhkhoa à máy thuốc lá Vĩnh Hội trong thời kỳ đổi
mới

• Đặc điểm
- Nhà máy có sẵn thiết bị máy móc;
25


×