Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Báo cáo "Về việc tham gia phiên toà dân sự của Viện kiểm sát nhân dân " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.36 KB, 8 trang )



Đặc san về bộ luật tố tụng dân sự
86
Tạp chí luật học



TS. Trần Văn Trung *
nc ta, b mỏy nh nc c
t chc v hot ng theo nguyờn
tc quyn lc nh nc l thng nht,
tp trung vo Quc hi, cú s phõn
cụng, phõn nhim gia Quc hi, Chớnh
ph, to ỏn v vin kim sỏt, mi c
quan thi hnh cú hiu lc chc nng,
nhim v ca mỡnh, vi s phi hp v
hip ng cht ch, to nờn sc mnh
tng hp ca quyn lc nh nc. Theo
Hin phỏp nm 1992 (sa i), vin
kim sỏt nhõn dõn l mt h thng c
quan cú v trớ c lp trong b mỏy nh
nc, c t chc thnh mt h thng
t trung ng xung a phng (cp
huyn), cú chc nng thc hnh quyn
cụng t v kim sỏt cỏc hot ng t
phỏp. Theo iu 20 Lut t chc vin
kim sỏt nhõn dõn nm 2002, vin kim
sỏt nhõn dõn l c quan kim sỏt vic
tuõn theo phỏp lut trong lnh vc t
tng dõn s. So vi vin cụng t cỏc


nc, nhim v v quyn hn ca vin
kim sỏt trong t tng dõn s Vit
Nam c quy nh rng hn nhiu.
Ngoi quyn tham gia t tng nh vin
cụng t cỏc nc, vin kim sỏt cũn
c trao thờm thm quyn c thự ca
mt c quan thc hin chc nng kim
sỏt vic tuõn theo phỏp lut m vin
cụng t mt s nc khụng cú, chng
hn nh quyn kim sỏt vic tuõn theo
phỏp lut ca to ỏn nhõn dõn v nhng
ngi tham gia t tng, quyn khỏng
ngh tt c cỏc bn ỏn, quyt nh dõn s
ca to ỏn theo th tc phỳc thm, giỏm
c thm hoc tỏi thm nu phỏt hin cú
vi phm phỏp lut
1. nc ta, vn vin kim sỏt
tham gia phiờn to dõn s c quy nh
khỏ sm. Ngay sau khi t nc ginh
c lp, Sc lnh s 13 ngy 24 thỏng 1
nm 1946 v t chc cỏc to ỏn v cỏc
ngch thm phỏn quy nh: Mi tun l
ớt ra cng phi cú hai phiờn to cụng
khai: mt phiờn h v mt phiờn hỡnh.
Ti phiờn to, chỏnh ỏn ngi x, bin lý
ngi gh cụng t viờn. Sau ú ớt lõu, H
Ch tch ó ký Sc lnh s 51 ngy
17/4/1946 n nh thm quyn cỏc to ỏn
v s phõn cụng gia cỏc nhõn viờn
trong to ỏn. Trong Sc lnh ny, v trớ

chc nng v nhim v ca vin cụng t
c quy nh khỏ rừ rng: ễng bin lý
bú buc phi cú mt ti phiờn to hỡnh
v h. Khi ra to, ụng bin lý cng nh
bờn b cựng bờn dõn s nguyờn cỏo cú
quyn yờu cu to thi hnh mi phng
sỏch cn thit chng t s tht
(iu 26); v mt h, ụng bin lý cú
nhim v bo v quyn li ca cỏc v
thnh niờn, ca cỏc ngi b cm quyn



* Phú Vin trng Vin khoa hc kim sỏt
Vin kim sỏt nhõn dõn ti cao


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc
87

cùng các pháp nhân hành chính. Ông
biện lý có nhiệm vụ phải can thiệp vào
những việc quan hệ đến thân phận và
căn cước cùng những việc mà pháp luật
bắt buộc phải có ý kiến công tố viên”
(Điều 30); “ông chưởng lý và các thẩm
phán trong công tố viện có quyền phát
ngôn ở những phiên toà hộ và hình toà
thượng thẩm” (Điều 38); “về bên hộ,

dưới quyền điều khiển của ông chưởng
lý, các thẩm phán trong công tố viện
có quyền đứng làm chánh tố trong
những trường hợp do luật lệ định trước
(Điều 41).
Công văn số 1137/HCTP ngày 5/6/1958
của Bộ tư pháp về việc đơn giản một số thủ
tục ở phiên toà quy định rõ hơn về
quyền khởi tố và tham gia tố tụng của
Công tố viện như sau: “Về việc dân sự,
công tố viện có nhiệm vụ khởi tố và tham
gia tố tụng đối với những vụ án dân sự
quan trọng có liên quan đến lợi ích của
Nhà nước và của nhân dân. Còn đối với
những vụ án dân sự thường thì công tố
viện không cần phải tham dự phiên toà,
công tố viện và toà án thể theo tinh thần
nói trên mà trao đổi với nhau và quy
định những vụ án hình sự và dân sự nào
cần có mặt công tố viện tại phiên toà”.
Sau đó, các văn bản pháp luật về vấn
đề này (có thể kể đến như: Luật tổ chức
viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật
tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm
1981, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân
dân năm 1992, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động năm 1996 tiếp

tục khẳng định nguyên tắc tham gia
phiên toà dân sự của viện kiểm sát đồng
thời quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn về
nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát
khi tham gia phiên toà dân sự. Theo các
quy định của này, việc tham gia tố tụng
của viện kiểm sát nhân dân tại các phiên
toà sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm
hay tái thẩm được thực hiện dưới hai
hình thức bắt buộc và không bắt buộc.
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm
tham gia phiên toà xét xử những vụ án
mà viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố
hoặc kháng nghị; đối với những vụ án
khác, viện kiểm sát nhân dân có thể
tham gia tố tụng vào bất cứ giai đoạn
nào, nếu thấy cần thiết. Nguyên tắc này
khá tương đồng với pháp luật các nước
trên thế giới.
Khác với các quy định này, Luật tổ
chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002
đã có sự thay đổi quan niệm về vai trò
của viện kiểm sát nhân dân trong phiên
toà dân sự khi xác định: “Viện kiểm sát
nhân dân có trách nhiệm tham gia tất cả
các phiên toà xét xử vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh tế, lao động, ở tất
cả các giai đoạn tố tụng” (khoản 3 Điều
21). Quy định này nhằm tăng cường
kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó

có hoạt động xét xử các vụ án dân sự,
kinh tế, lao động. Có thể nói, những nội
dung mới trong Luật tổ chức viện kiểm
sát nhân dân năm 2002 về nhiệm vụ,
quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
88
T¹p chÝ luËt häc
trong tố tụng dân sự tạo nên sự thay đổi
trong việc tham gia phiên toà dân sự của
viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, ngay
từ khi xây dựng và thông qua những quy
định này của Luật tổ chức viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 đã có nhiều ý kiến
cho rằng, các quy định này chỉ phù hợp
với các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự hiện hành với sự đề cao vai trò
chủ động của toà án trong việc điều tra,
lập hồ sơ vụ án. Trong điều kiện đó, đòi
hỏi việc nâng cao trách nhiệm của viện
kiểm sát trong kiểm sát việc thụ lý, lập
hồ sơ, tham gia đầy đủ các phiên toà dân
sự là rất cần thiết. Đây cũng là sự khác
biệt giữa vai trò của viện kiểm sát Việt
Nam và viện công tố các nước khác
trong tố tụng dân sự.
2. Chỉ sau một thời gian ngắn, Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS) lại một

lần nữa thay đổi các quy định về việc
tham gia phiên toà dân sự của viện kiểm
sát nhân dân. Mặc dù vẫn tiếp tục quy
định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự… nhằm bảo đảm việc giải quyết
vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật”
(Điều 21) với những nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể như: Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết các vụ
việc dân sự của toà án, kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của những người
tham gia tố tụng, kiểm sát các bản án,
quyết định của toà án, tham gia phiên
toà xét xử vụ án dân sự trong những
trường hợp pháp luật quy định và phiên
họp giải quyết việc dân sự và phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ việc dân sự,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết
định của toà án, kiểm sát việc giải quyết
kiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự…
(các điều 45, 250, 264, 285, 307, 313,
316, 404 ) nhưng dường như tiêu chí
tham gia phiên toà dân sự của viện kiểm
sát đã có sự thay đổi, từ “bảo vệ lợi ích
công” như pháp luật của nước ta trước
kia và pháp luật của khá nhiều nước quy
định sang “những vụ việc phức tạp”.
Từng quy định cụ thể của Bộ luật tố tụng

dân sự về vấn đề này cũng đã có những
thay đổi.
a. Ở trình tự xét xử sơ thẩm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 195
và khoản 2 Điều 21 BLTTDS thì “viện
kiểm sát tham gia phiên toà đối với
những vụ án dân sự do toà án thu thập
chứng cứ mà đương sự có khiếu nại”.
Khi nghiên cứu quy định này, chúng tôi
nhận thấy một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần phải hiểu như thế nào
là đương sự có khiếu nại về việc thu
thập chứng cứ của toà án?
Theo quy định của BLTTDS, đương
sự có yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình phải đưa ra
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó
là có căn cứ và hợp pháp (Điều 79). Tuy
nhiên, trong trường hợp đương sự không
thể tự mình thu thập được chứng cứ và
có yêu cầu thì thẩm phán có thể tiến
hành một hoặc một số biện pháp theo
luật định để thu thập chứng cứ (khoản 2
Điều 85). Đồng thời, toà án có thể tự


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc
89


mình thu thập chứng cứ trong một số
trường hợp như: Tiến hành lấy lời khai
của người làm chứng khi xét thấy cần
thiết (khoản 1 Điều 87); tiến hành đối
chất giữa các đương sự với nhau, giữa
đương sự với người làm chứng hoặc giữa
người làm chứng với nhau khi xét thấy
có sự mâu thuẫn trong lời khai của các
đương sự, người làm chứng (khoản 1
Điều 88); hoặc ra quyết định định giá tài
sản đang tranh chấp trong trường hợp
các bên thoả thuận theo mức giá thấp
nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức
đóng án phí (điểm b khoản 2 Điều 92).
Khi toà án tiến hành thu thập chứng
cứ trong các trường hợp nêu trên, đương
sự có quyền khiếu nại về việc thu thập
chứng cứ của toà án. Tuy nhiên, quyền
khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của
toà án cũng còn có nhiều cách hiểu khác
nhau. Có ý kiến cho rằng, theo quy định
tại khoản 3 Điều 85 BLTTDS, đương sự
chỉ có quyền khiếu nại quyết định áp
dụng biện pháp thu thập chứng cứ của
toà án mà toà án chỉ phải ra quyết định
khi tiến hành các biện pháp trưng cầu
giám định, quyết định định giá tài sản,
xem xét thẩm định tại chỗ, ủy thác thu
thập chứng cứ, yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc

được, nghe được, nhìn được hoặc hiện
vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ
việc dân sự. Như vậy, trong các trường
hợp toà án lấy lời khai của đương sự,
người làm chứng hoặc tiến hành đối chất
thì toà án không phải ra quyết định và
đương sự không có quyền khiếu nại về
việc thu thập chứng cứ của toà án trong
các trường hợp này. Mặt khác, đối với
các trường hợp toà án ra quyết định áp
dụng biện pháp thu thập chứng cứ thì
đương sự cũng chỉ có quyền khiếu nại
nội dung của quyết định đó.
Chúng tôi cho rằng, nếu hiểu như
trên là bó hẹp phạm vi quyền khiếu nại
của đương sự. Theo quy định của
BLTTDS, đương sự không chỉ có quyền
khiếu nại đối với quyết định áp dụng
biện pháp thu thập chứng cứ của toà án
theo quy định tại khoản 3 Điều 85 của
Bộ luật này mà còn có quyền khiếu nại
cả các hành vi thu thập chứng cứ của toà
án (việc lấy lời khai, đối chất là các
hành vi tố tụng). Mặt khác, cần phải
hiểu “quyền khiếu nại quyết định áp
dụng biện pháp thu thập chứng cứ của
toà án” bao gồm cả khiếu nại về việc ra
hoặc không ra quyết định, khiếu nại về
nội dung của quyết định và khiếu nại
về kết quả của việc thực hiện quyết

định đó.
Với cách hiểu như vậy, chúng tôi
cho rằng các trường hợp đương sự
khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của
toà án bao gồm:
- Đương sự có yêu cầu toà án thu
thập chứng cứ nhưng đương sự khiếu nại
về việc thu thập hoặc không thu thập
chứng cứ của toà án;
- Đương sự khiếu nại về việc toà án
thu thập chứng cứ theo yêu cầu của
đương sự khác theo quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 58 BLTTDS;
- Đương sự khiếu nại về việc toà án


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
90
T¹p chÝ luËt häc
tự thu thập chứng cứ trong các trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản
1 Điều 88 và điểm b khoản 1 Điều 92
BLTTDS.
Các khiếu nại của đương sự trong
các trường hợp trên có thể là khiếu nại
về thủ tục thu thập chứng cứ của toà án
(ví dụ: Thẩm phán không ra quyết định
thu thập chứng cứ trong những trường
hợp pháp luật quy định phải ra quyết
định) hoặc khiếu nại về hành vi thu

thập chứng cứ của toà án (ví dụ: Thẩm
phán không khách quan khi thu thập
chứng cứ).
Thứ hai, khi đương sự có khiếu nại
về việc thu thập chứng cứ của toà án thì
việc tham gia phiên toà dân sự của viện
kiểm sát như thế nào?
Có ý kiến cho rằng, trong bất kỳ
trường hợp nào, cứ có khiếu nại của
đương sự về việc thu thập chứng cứ của
toà án là viện kiểm sát phải tham gia
phiên toà. Chúng tôi cho rằng, khiếu nại
của đương sự về việc thu thập chứng cứ
của toà án cũng là một loại khiếu nại về
quyết định, hành vi tố tụng dân sự và
thuộc thẩm quyền giải quyết của chánh
án toà án theo quy định tại Điều 396
BLTTDS, do đó nếu đến thời điểm mở
phiên toà xét xử vụ án dân sự mà khiếu
nại của đương sự đã được giải quyết và
đương sự không có khiếu nại tiếp theo
hoặc đã có quyết định giải quyết khiếu
nại cuối cùng thì viện kiểm sát không
tham gia phiên toà; viện kiểm sát chỉ
tham gia phiên toà khi đương sự có
khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của
toà án mà cho đến thời điểm mở phiên
toà, khiếu nại của đương sự vẫn chưa
được giải quyết hoặc tuy đã được giải
quyết nhưng đương sự vẫn tiếp tục khiếu

nại. Tuy nhiên, viện kiểm sát cũng
không thể tham gia phiên toà nếu không
còn đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án
và chuẩn bị ý kiến của viện kiểm sát về
việc giải quyết vụ án (theo quy định tại
khoản 2 Điều 195, trong trường hợp viện
kiểm sát tham gia phiên toà, toà án phải
gửi hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên
cứu trong thời hạn 15 ngày). Vì vậy,
việc tham gia phiên toà của viện kiểm
sát cần phân thành những trường hợp
như sau:
- Trường hợp đương sự khiếu nại
trước khi toà án có quyết định đưa vụ án
ra xét xử thì viện kiểm sát phải tham gia
phiên toà. Trong trường hợp này, nếu
đương sự gửi đơn khiếu nại đến toà án
thì toà án phải gửi ngay khiếu nại của
đương sự kèm theo hồ sơ vụ án cho viện
kiểm sát cùng cấp theo quy định tại
khoản 3 Điều 85 BLTTDS. Căn cứ vào
khiếu nại của đương sự, viện kiểm sát có
quyền yêu cầu toà án xác minh, thu thập
chứng cứ và xem xét việc tham gia phiên
toà. Nếu đương sự gửi đơn khiếu nại đến
viện kiểm sát thì viện kiểm sát cũng
thông báo bằng văn bản cho toà án biết
việc khiếu nại của đương sự và yêu cầu
toà án chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm
sát nghiên cứu để tham gia phiên toà.

- Trường hợp đương sự khiếu nại sau
khi toà án có quyết định đưa vụ án ra xét
xử thì viện kiểm sát chỉ tham gia phiên


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc
91

toà sơ thẩm khi còn đủ thời gian để viện
kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án theo
quy định tại khoản 2 Điều 195 BLTTDS.
Nếu kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại
đến thời điểm mở phiên toà được ghi
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử còn
đủ thời hạn 15 ngày để viện kiểm sát
nghiên cứu hồ sơ vụ án thì viện kiểm sát
sẽ tham gia phiên toà, nếu không còn đủ
thời hạn nghiên cứu hồ sơ thì viện kiểm
sát không tham gia phiên toà sơ thẩm
nhưng toà án cũng phải thông báo bằng
văn bản cho viện kiểm sát biết việc
khiếu nại của đương sự để viện kiểm sát
xem xét việc kháng nghị và tham gia
phiên toà phúc thẩm.
- Trường hợp tại phiên toà sơ thẩm
đương sự mới khiếu nại về việc thu thập
chứng cứ của toà án mà phiên toà đó lại
không có viện kiểm sát tham gia thì hội
đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử hay phải

hoãn phiên toà để chờ viện kiểm sát
tham gia? Chúng tôi cho rằng, theo quy
định của BLTTDS thì việc khiếu nại của
đương sự tại phiên toà không phải là căn
cứ để hội đồng xét xử hoãn phiên toà, do
đó hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử
nhưng ngay sau khi kết thúc phiên toà,
toà án phải thông báo bằng văn bản cho
viện kiểm sát cùng cấp biết việc khiếu
nại của đương sự để viện kiểm sát xem
xét việc kháng nghị.
b. Ở trình tự xét xử phúc thẩm
Có sự không rõ ràng và nhất quán
trong BLTTDS về sự tham gia của viện
kiểm sát trong phiên toà phúc thẩm các
vụ án dân sự. Theo quy định tại khoản 1
Điều 21 BLTTDS thì viện kiểm sát phải
tham gia phiên toà đối với những vụ án
dân sự do toà án thu thập chứng cứ mà
đương sự có khiếu nại. Khiếu nại của
đương sự trong trường hợp này là khiếu
nại về hoạt động thu thập chứng cứ của
toà án trong giai đoạn phúc thẩm mà
khiếu nại đó chưa được giải quyết hoặc
giải quyết chưa thoả đáng nhưng tại
khoản 2 Điều 264 BLTTDS lại quy định:
“Kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp
phải tham gia phiên toà phúc thẩm trong
trường hợp viện kiểm sát kháng nghị
hoặc đã tham gia phiên toà sơ thẩm”.

Theo quy định này thì việc đương sự
khiếu nại về hoạt động thu thập chứng
cứ của toà án không phải là căn cứ bắt
buộc viện kiểm sát phải tham gia phiên
toà phúc thẩm. Vấn đề này còn trở thành
phức tạp hơn nữa khi khoản 1 Điều 262
BLTTDS quy định: “Sau khi thụ lý vụ
án để xét xử phúc thẩm, toà án cấp phúc
thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện
kiểm sát nghiên cứu”. Hiểu theo quy
định này thì tất cả hồ sơ vụ án dân sự
phúc thẩm đều phải chuyển cho viện
kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Tuy
nhiên, viện kiểm sát có cần thiết phải
nghiên cứu tất cả các hồ sơ vụ án dân sự
không khi mà chỉ tham gia phiên toà
phúc thẩm trong một số trường hợp?
Đây là một trong nhiều vấn đề của
BLTTDS cần được các cơ quan có thẩm
quyền hướng dẫn hoặc giải thích để
thống nhất áp dụng. Chúng tôi cho rằng,
sẽ là hợp lý hơn khi kết hợp nội dung
của cả Điều 21 và Điều 264 BLTTDS để


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
92
T¹p chÝ luËt häc
hiểu viện kiểm sát tham gia phiên toà
phúc thẩm trong các trường hợp viện

kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định
của toà án cấp sơ thẩm hoặc khi viện
kiểm sát đã tham gia phiên toà sơ thẩm,
hoặc khi ở giai đoạn phúc thẩm đương
sự có khiếu nại về việc thu thập chứng
cứ của toà án.
Bộ luật tố tụng dân sự quy định viện
kiểm sát phải tham gia phiên toà phúc
thẩm khi viện kiểm sát kháng nghị bởi vì
đây là trường hợp viện kiểm sát cho rằng
bản án, quyết định của toà án cấp sơ
thẩm có vi phạm pháp luật nên đã kháng
nghị yêu cầu toà án cấp phúc thẩm kiểm
tra lại để khắc phục vi phạm. Do đó,
viện kiểm sát phải tham gia phiên toà để
bảo vệ quan điểm kháng nghị của viện
kiểm sát đồng thời để bảo đảm việc giải
quyết vụ án đúng pháp luật.
Trường hợp viện kiểm sát tham gia
phiên toà phúc thẩm khi viện kiểm sát đã
tham gia phiên toà sơ thẩm là trường
hợp đương sự đã có khiếu nại về việc
thu thập chứng cứ của toà án cấp sơ
thẩm và viện kiểm sát đã tham gia phiên
toà sơ thẩm nhưng sau khi xét xử sơ
thẩm có đương sự kháng cáo hoặc viện
kiểm sát kháng nghị và vụ án được đưa
ra xét xử phúc thẩm thì viện kiểm sát
phải tham gia phiên toà phúc thẩm.
Trong trường hợp ở giai đoạn phúc

thẩm đương sự có khiếu nại về việc thu
thập chứng cứ của toà án cấp sơ thẩm
hoặc của toà án cấp phúc thẩm thì tương
tự như giai đoạn sơ thẩm, việc tham gia
phiên toà của viện kiểm sát được thực
hiện như sau:
- Nếu ở trình tự xét xử sơ thẩm,
đương sự đã có khiếu nại về việc thu
thập chứng cứ của toà án cấp sơ thẩm
nhưng viện kiểm sát chưa tham gia phiên
toà sơ thẩm vì không còn đủ thời gian
nghiên cứu hồ sơ vụ án theo quy định tại
khoản 2 Điều 195 BLTTDS mà cho đến
thời điểm mở phiên toà xét xử phúc
thẩm, khiếu nại của đương sự vẫn chưa
được giải quyết xong thì viện kiểm sát
phải tham gia phiên toà phúc thẩm.
- Nếu ở trình tự xét xử sơ thẩm,
đương sự không có khiếu nại về việc thu
thập chứng cứ của toà án cấp sơ thẩm
nhưng sau khi xét xử đương sự kháng
cáo bản án, quyết định của toà án mà
trong nội dung kháng cáo đương sự đồng
thời khiếu nại về việc thu thập chứng cứ
của toà án cấp sơ thẩm thì viện kiểm sát
phải tham gia phiên toà phúc thẩm.
Trong trường hợp này, toà án cấp phúc
thẩm phải thông báo ngay bằng văn bản
việc khiếu nại của đương sự cho viện
kiểm sát cùng cấp và ngay sau khi có

quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm, toà án phải chuyển hồ sơ vụ án
cho viện kiểm sát nghiên cứu để tham
gia phiên toà phúc thẩm.
- Nếu đương sự khiếu nại về việc thu
thập chứng cứ của toà án cấp phúc thẩm
mà việc khiếu nại trước khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm hoặc
khiếu nại sau khi toà án có quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm nhưng
vẫn còn đủ thời gian để viện kiểm sát


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc
93

nghiên cứu hồ sơ vụ án theo quy định tại
khoản 2 Điều 262 BLTTDS thì viện
kiểm sát phải tham gia phiên toà phúc
thẩm. Nếu tại phiên toà phúc thẩm,
đương sự mới có khiếu nại thì hội đồng
xét xử phúc thẩm vẫn tiếp tục xét xử,
sau khi xét xử, toà án thông báo bằng
văn bản việc khiếu nại của đương sự cho
viện kiểm sát biết để viện kiểm sát xem
xét việc kháng nghị giám đốc thẩm.
c. Ở trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm
Cũng có sự không thống nhất giữa
quy định của Điều 21 với Điều 292 và

Điều 310 BLTTDS. Theo quy định tại
các Điều 21 BLTTDS thì viện kiểm sát
chỉ tham gia phiên toà giám đốc thẩm,
tái thẩm khi viện kiểm sát kháng nghị
nhưng theo quy định tại Điều 292 và
Điều 310 BLTTDS thì viện kiểm sát
phải tham gia tất cả các phiên toà giám
đốc thẩm, tái thẩm, bất kể do viện kiểm
sát hay toà án kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm. Có lẽ, sẽ là hợp lý hơn
nếu hiểu theo nội dung Điều 292 và Điều
310 BLTTDS vì không nên để toà án
kháng nghị rồi lại xét xử một mình (mặc
dù pháp luật quy định: khi cần thiết, toà
án có thể triệu tập những người tham gia
tố tụng và những người khác có liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị
tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái
thẩm nhưng trên thực tế hầu như chưa
bao giờ họ được tham gia). Quy định
viện kiểm sát phải tham gia tất cả các
phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm xuất
phát từ nhiệm vụ “kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc giải quyết các
vụ án dân sự của toà án” (khoản 1 Điều
45). Hơn nữa, giám đốc thẩm, tái thẩm
là những thủ tục tố tụng đặc biệt, nhằm
xem xét lại những bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của toà án, có hiệu
lực thi hành, thậm chí có thể đã thi hành

xong; bản án, quyết định của hội đồng
giám đốc thẩm, tái thẩm có thể được
xem như “khuôn mẫu” để giải quyết các
vụ việc tương tự, do đó phải hết sức thận
trọng khi ra bản án, quyết định. Xuất phát
từ tính chất phức tạp của thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm đòi hỏi phải có sự tham gia
giám sát của viện kiểm sát để bảo đảm việc
giải quyết vụ án đúng pháp luật. Mặt khác,
khác với các trình tự xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm
được tiến hành do có kháng nghị của toà án
hoặc viện kiểm sát (ở trình tự sơ thẩm là
do có đương sự khởi kiện, trình tự phúc
thẩm là do đương sự kháng cáo hoặc viện
kiểm sát kháng nghị), hay nói cách khác,
người “khởi động” trình tự xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm là các cơ quan công quyền.
Do đó, nếu viện kiểm sát kháng nghị thì
viện kiểm sát phải tham gia phiên toà để
bảo vệ quan điểm kháng nghị và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của toà án.
Nếu toà án kháng nghị thì viện kiểm sát
cũng phải tham gia phiên toà để kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của toà án, bảo
đảm việc giải quyết vụ án được khách
quan, đúng pháp luật./.

×