1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động kiểm sát điều tra (KSĐT), là một giai đoạn quan trọng
trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật hình
sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam thì điều tra là một
trong những hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà nước ta nhằm bảo đảm
mọi hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu
tội phạm phải được điều tra làm rõ.
KSĐT các vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng
nói chung và trong lĩnh vực thực hành quyền công tố nói riêng; nhằm đảm
bảo cho hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
KSĐT còn có vai trò đảm bảo mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được
phát hiện và xử lý chính xác kịp thời, tăng cường đấu tranh phòng, chống tội
phạm, ở nước ta hiện nay.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên và quan trọng của cả quá
trình tố tụng nhằm xác định rõ hành vi phạm tội của tội phạm. Công tác kiểm
sát được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho cơ quan điều
tra, hoạt động đúng hướng, khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng người
đúng tội; hoạt động điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời. Kết quả điều
tra vụ án hình sự là điều kiện tiên quyết thiết thực, trực tiếp cho việc thực hiện
quyền công tố và công tác kiểm sát việc truy tố và công tác xét xử của tòa án
được đúng người, đúng tội và đúng chính sách, pháp luật; tránh làm oan
người vô tội và tránh bỏ lọt tội phạm.
Qua 20 năm đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
nhiều thành tựu và kinh nghiệm cho thấy Nhà nước ta đang hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do dân và vì dân. Một trong những nội dung
2
xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước là vấn đề cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay. Hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát
các hoạt động tư pháp và hoạt động xét xử, thi hành án được đặc biệt nhấn
mạnh trong Nghị quyết số 08 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới" của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số
49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020.
Là một trong những cơ quan trọng yếu trong bộ máy các cơ quan tư
pháp, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) với vị trí, vai trò là cơ quan bảo đảm
cho nền pháp chế được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất cũng phải thực
hiện sự đổi mới cả về tổ chức và hoạt động thì mới hoàn thành được nhiệm vụ
của mình trước những yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của VKSND đã được Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị
xác định:
Viện Kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án, trong
suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của
những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất
lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng
dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác... [10].
Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng
như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ
chức của Tòa án nhân dân. Nghiên cứu việc chuyển đổi Viện kiểm
3
sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong
hoạt động điều tra [12].
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay ngành kiểm sát nhân dân cần tăng
cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố nhà nước và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp. Nói chung là
tăng cường công tác KSĐT đã đúng hướng, hoạt động kiểm sát điều tra là một
dạng hoạt động áp dụng pháp luật.
Về phương diện lý luận, áp dụng pháp luật nói chung đã được giới
khoa học pháp lý làm sáng tỏ. Song áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án
hình sự vẫn còn là một vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể hơn từ khái niệm
đến đặc điểm các giai đoạn áp dụng pháp luật và những yêu cầu cụ thể mà
Viện kiểm sát (VKS) cũng như kiểm sát viên thực hiện. Áp dụng pháp luật
nói chung và áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra là mối quan hệ giữa
"cái chung" và "cái riêng". Chắc chắn "cái riêng" bao giờ cũng phong phú, đa
dạng và phức tạp hơn "cái chung". Nghiên cứu vấn đề này cũng là đáp ứng
yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra của vấn đề áp dụng pháp luật trong KSĐT
các vụ án hình sự của ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn hiện nay. Thực tiễn
áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án ở nước ta trong thời gian
qua đã đạt được nhiều kết quả. Sự phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS về
cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống vi phạm và tội
phạm.
Tuy nhiên, qua công tác tổng kết, đánh giá thực tế cho thấy, công tác
KSĐT của VKS vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, hạn chế như: Nhiều kiểm
sát viên, nhiều đơn vị không thực hiện được công tác KSĐT ngay từ giai
đoạn đầu, còn thụ động trong việc điều tra của cơ quan điều tra. Hoặc là vì
sợ trách nhiệm nên làm thay một số thao tác của điều tra viên, không theo
dõi đề ra yêu cầu điều tra. Hoặc là bỏ mặc cho điều tra viên tiến hành điều
4
tra một cách độc lập … dẫn tới nhiều vụ án còn bị kéo dài, phải ra hạn thời
hạn điều tra, còn để lọt hành vi tội phạm, thậm chí còn làm oan người vô tội
… Những vi phạm trên cho thấy chất lượng và hiệu quả của công tác KSĐT
của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn bộc lộ yếu kém. Những yếu kém trên
do nhiều nguyên nhân khác nhau, có những nguyên nhân chủ quan cũng như
những nguyên nhân khách quan. Trong đó chủ yếu là do ý thức pháp luật
cao hay thấp và năng lực áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn của cơ
quan điều tra, VKSND.
Để phát huy dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN)
trong thực hành quyền công tố nói chung và trong hoạt động áp dụng pháp
luật trong KSĐT các vụ án hình sự nói riêng. Vai trò của VKSND trong áp
dụng pháp luật cần phải được nâng cao chất lượng và hiệu quả và coi đó là
như là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của ngành tư pháp nước ta cũng như của
khoa học pháp lý cách mạng.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng áp dụng
pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bắc Ninh" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động điều tra hình sự, là một giai đoạn quan trọng quyết định lớn
đến quá trình làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, làm cơ sở cho việc truy tố
và xét xử các hành vi vi phạm và tội phạm. Vì vậy đây là vấn đề thu hút các
nhà hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này đã
được thể hiện trong nhiều công trình khoa học được công bố trên các sách,
báo, tạp chí chuyên ngành và các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một số giáo
trình giảng dạy về pháp luật. Có thể nêu ra như sau:
Sổ tay kiểm sát viên hình sự của Viện Khoa học hình sự Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, NXB Văn hóa dân tộc, 2006.
5
Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.
Mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động điều tra trinh sát và hoạt
động điều tra tố tụng của Bộ Công an, NXB Công an nhân dân, 2006.
Đề tài cấp Bộ: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của thu thập, đánh giá
chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" - Phó viện trưởng Viện
Khoa học kiểm sát làm chủ biên, 2005.
Các sách chuyên khảo như: "Những điều cần hiểu về bắt người, tạm
giữ, tạm giam … đúng pháp luật" của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Văn Yên,
Nxb Pháp lý, 1990.
Vũ Gia Lâm: "Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận văn
thạc sĩ luật học, 2000.
Các bài viết, công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí của
Trung ương như: "Hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên quan tới
phân loại tội phạm" của Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
Thái Văn Đoàn: "Để nâng cao chất lượng công tác phê chuẩn tạm
giam", Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
Trần Quang Tiệp: "Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005.
Nguyễn Văn Nhật: "Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động điều
tra hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005.
Phạm Mạnh Hùng: "Những bất cập và hoàn thiện quy định pháp luật
TTHS về khởi tố theo yêu cầu người bị hại", Tạp chí Kiểm sát, tháng 01/2003.
Trần Văn Thuận: "Nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra", Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003.
Nguyễn Duy Giảng: "Thủ tục rút gọn trong các giai đoạn tố tụng",
Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003.
6
Nguyễn Văn Chiến: "Áp dụng căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và
phạm vi áp dụng quyết định không khởi tố vụ án hình sự", Tạp chí Kiểm sát,
tháng 12/2002.
Nguyễn Văn Thượng: "Quy định tách vụ án trong pháp luật tố tụng
hình sự và thực tiễn áp dụng", Tạp chí Kiểm sát, tháng 6/2005.
Phạm Hồng Thủy: "Những điểm xung đột pháp luật giữa chế định
khởi tố vụ án hình sự quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng
hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 5/2005 …
Qua nghiên cứu tình hình trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật
về việc nâng cao chất lượng áp dụng KSĐT các vụ án hình sự trong điều kiện
tiến hành cải cách tư pháp hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào những vấn đề sau:
+ Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự.
+ Thực tiễn áp dụng pháp luật trong KSĐT đối với hoạt động của cơ
quan điều tra.
+ Nguyên nhân phát sinh những tồn tại trong áp dụng pháp luật của
quá trình KSĐT và của cơ quan điều tra.
+ Những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật
trong KSĐT đối với cơ quan điều tra của VKS.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
7
Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm
quyền. Thời điểm nghiên cứu lấy từ năm 2001 đến năm 2005.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Về mục đích:
Luận văn nghiên cứu, đề xuất, đưa ra các luận chứng, các quan điểm,
các giải pháp đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật đối với hoạt động của cơ
quan điều tra và VKSND được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Góp phần hoàn thiện các quy định về tố tụng hình
sự (TTHS) trong KSĐT các vụ án hình sự; thực hiện cải cách tư pháp theo
đúng tinh thần Nghị quyết số 49 NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa IX) về chất lượng cải cách tư pháp.
- Về nhiệm vụ:
Luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra và VKSND.
+ Phân tích những ưu điểm và những tồn tại trong áp dụng pháp luật
của VKSND các cấp trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
+ Đề xuất những giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật đúng đắn trong
kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra và trong điều tra các vụ án hình
sự của cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
8
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhất là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về
cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị: "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới". Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện
chứng như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân
tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử
dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác: Thống kê tội phạm,
luật học so sánh, phương pháp hệ thống …
6. Ý nghĩa của luận văn
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
làm tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng
công tác KSĐT các vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác, nhất là trong việc giảng dạy
có liên quan đến thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp …
Mặt khác, nội dung của luận văn có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ
năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ … của người cán bộ, kiểm sát viên
trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
9
10
Chơng 1
Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật
trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Khoa học pháp lý XHCN chỉ ra rằng, pháp luật XHCN là một hệ thống
bao gồm tổng thể các quy tắc xử sự chung, thể chế hóa đờng lối chủ trơng
của Đảng, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, hình thức, thủ tục
luật định, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hớng XHCN.
Trong đời sống và trong xã hội, pháp luật XHCN chiếm giữ vai trò vị trí
đặc biệt quan trọng. Xét trong bình diện chung nhất, pháp luật là phơng tiện để
thể chế hóa đờng lối, chủ trơng của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
đợc triển khai thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội; là phơng tiện để
Nhà nớc quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phơng tiện để nhân dân phát huy,
thực hiện quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp, nghĩa vụ của công dân.
Pháp luật với t cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, luôn tác
động và ảnh hởng tới các quan hệ xã hội, cũng nh các yếu tố của thợng
tầng kiến trúc pháp lý; duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị. Trong
quan hệ với Nhà nớc, vai trò của pháp luật luôn gắn liền với việc thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nớc, phát huy đợc vai trò của Nhà nớc
trong việc thực hiện chức năng, quản lý, đa xã hội phát triển. Đối với chính
Nhà nớc, pháp luật vừa là cơ sở tổ chức, hoạt động vừa là sức mạnh của
quyền lực chính trị đồng thời nó cũng ràng buộc Nhà nớc, tránh cho Nhà
nớc khỏi tình trạng hoạt động tùy tiện, vi phạm quyền và tự do của công dân.
11
Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và pháp luật XHCN
nói riêng, pháp luật luôn có vai trò, giá trị xã hội và tính pháp quyền mà
không một công cụ, phơng tiện điều chỉnh nào có thể thay thế đợc.
Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy đợc hiệu
quả khi các quy định của pháp luật do Nhà nớc đặt ra đợc chính các cơ quan
nhà nớc, tổ chức xã hội, các công dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm
minh và tự giác. Do đó, vấn đề đặt ra là không phải chỉ có đủ các văn bản
pháp luật đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội và đời sống Nhà nớc, mà điều
quan trọng hơn ở chỗ pháp luật đó có đợc thực hiện không, những yêu cầu
của pháp luật có trở thành hiện thực không.
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động của con
ngời có tổ chức có chủ ý bao hàm những hành vi hợp pháp phù hợp với
những quy định, những yêu cầu của pháp luật.
Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của chính cá nhân con ngời
nhng cũng có thể là hành động của các cơ quan nhà nớc, các tổ chức xã hội,
là một hiện tợng xã hội có tính pháp lý thực hiện pháp luật: "là một quá trình
hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống
trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [30, tr. 455].
Các quy định pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện
pháp luật cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt
động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định và khái quát hóa thành
những hình thức thực hiện pháp luật nh sau:
- Tuân thủ pháp luật (tuân theo pháp luật) là một hình thức thực hiện
pháp luật, (xử sự thụ động). Trong đó, các chủ thể pháp luật kiềm chế không
tiến hành những hành động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật); là hình thức thực hiện pháp
luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nhiệm vụ pháp lý của mình bằng
12
hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc đợc thực hiện ở
hình thức này.
- Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền năng pháp lý của mình để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, của Nhà nớc và của các chủ thể khác. Những quy
phạm pháp luật quy định các quyền về tự do dân chủ của công dân đợc thực
hiện ở hình thức này. Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể
pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền đợc pháp luật cho
phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện pháp luật. Đó
là quyền khiếu nại, tố cáo, đình công, kháng cáo
- áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật; trong đó
Nhà nớc thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật; hoặc tự mình
căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra những quy định làm phát sinh,
thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật. Trong trờng hợp
này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can
thiệp của Nhà nớc. Trong một số trờng hợp đặc biệt đợc Nhà nớc ủy
quyền theo quy định của pháp luật, cơ quan của một số tổ chức chính trị xã
hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.
Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những
hình thức phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng
pháp luật là hình thức đặc thù bởi luôn có sự tham gia của Nhà nớc, thông
qua các cơ quan hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. áp dụng pháp luật là
một hình thức thực hiện pháp luật quan trọng. Thông qua hình thức này ý chí
của Nhà nớc đợc trở thành hiện thực, Nhà nớc thực hiện đợc chức năng tổ
chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, kết hợp với trật tự xã hội, đảm
bảo cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc, các công chức nhà
13
nớc trong khuôn khổ pháp luật. Điều này có lý do bởi trong nhiều trờng
hợp, các quy định của pháp luật không thể thực hiện nếu chỉ bằng các hình
thức tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật hoặc sử dụng pháp luật. Lý do có
thể các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu
thiếu sự thông qua của các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền. Sự áp dụng pháp
luật cần phải đợc tiến hành qua các trờng hợp sau:
- Trong trờng hợp khi cần áp dụng các biện pháp cỡng chế Nhà
nớc, hoặc áp dụng chế tài xử lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm
pháp luật. Ví dụ, một công dân thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy, hành vi đó đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma
túy đợc quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999. Không phải ngay sau đó
trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và ngời vi phạm tự giác chấp hành các
biện pháp chế tài tơng xứng. Vì vậy, cần có hoạt động của các cơ quan bảo
vệ pháp luật và những ngời có thẩm quyền nhằm điều tra, truy tố, xét xử để
đối chiếu với quy định của pháp luật để ấn định trách nhiệm hình sự đối với
ngời đã thực hiện hành vi vi phạm và buộc ngời này phải chấp hành.
- Trong trờng hợp khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ
thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp
của Nhà nớc. Ví dụ, công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của
Nhà nớc nhng khi kinh doanh phải đăng ký tại cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền hoặc trong quan hệ kinh tế liên quan đến việc ký kết thực hiện hợp
đồng kinh tế mà các bên không tự giải quyết đợc khi có tranh chấp xảy ra, thì
các bên phải nhờ đến Tòa án kinh tế giải quyết
- Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nớc thấy cần thiết phải
tham gia để giám sát, kiểm tra hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ
đó; hoặc Nhà nớc xác nhận sự tồn tại của một số vụ việc, sự kiện thực tế. Ví
dụ, ủy ban nhân dân xã, phờng, thị trấn chứng nhận việc đăng ký kết hôn,
xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp
14
- Nh vậy áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù,
do cơ quan nhà nớc, công chức nhà nớc đợc trao quyền tiến hành theo một
thủ tục do pháp luật quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cỡng chế khi có
hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; khi phải giải quyết các tranh chấp về
quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong một quan hệ
pháp luật nhất định; hoặc khi Nhà nớc thấy cần phải can thiệp, cần phải tham
gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất, áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, thực hiện quyền lực
của Nhà nớc trong thực tế:
- Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan nhà nớc
hay nhà chức trách trong phạm vi thẩm quyền đợc giao thực hiện một số hoạt
động áp dụng pháp luật quyết định. Trong quá trình áp dụng pháp luật cơ quan
áp dụng pháp luật phải tính đến mọi khía cạnh, mọi chi tiết và phải xem xét
cẩn trọng, dựa trên cơ sở những quy định, yêu cầu của áp dụng pháp luật đã
đợc xác định để ra quyết định áp dụng pháp luật. Nh vậy, pháp luật là cơ sở
xuất phát điểm để cho cơ quan nhà nớc có thẩm quyền áp dụng pháp luật
thực hiện chức năng của mình.
Việc áp dụng pháp luật đợc xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của
Nhà nớc đợc thể hiện trong pháp luật. Do vậy, việc áp dụng pháp luật phải
phù hợp với pháp luật, với chủ trơng, chính sách của Nhà nớc trong mỗi giai
đoạn nhất định.
Trong lĩnh vực t pháp, áp dụng pháp luật đợc các cán bộ công chức
nhà nớc có chức danh pháp lý tiến hành, nh điều tra viên, kiểm sát viên,
Thẩm phán, Chấp hành viên, tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định
15
để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết của vụ án nhằm
xác định khách quan việc truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.
- Tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nớc đợc thể hiện ở chỗ hoạt
động áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền, nhân viên
nhà nớc có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành
áp dụng pháp luật và ra văn bản áp dụng pháp luật hoàn toàn theo quy định
của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể áp dụng pháp luật.
- áp dụng pháp luật có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng pháp
luật và các chủ thể có liên quan.
- Văn bản áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan hay nhà chức trách có
thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành. Văn bản áp dụng pháp luật mang
tính bắt buộc phải thực hiện đối với những tổ chức và cá nhân có liên quan.
Trong những trờng hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật đợc bảo đảm
bằng biện pháp cỡng chế Nhà nớc.
Thứ hai, nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, là những
tiêu chuẩn chung cho xử sự giữa ngời với ngời trong mối quan hệ xã hội thì
hoạt động áp dụng pháp luật luôn mang tính cụ thể.
Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ các địa chỉ
để áp dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự việc, con ngời, tập thể, thời gian,
không gian; các quy định áp dụng pháp luật đợc ban hành luôn mang tính cá
biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định. Ví dụ, trong một vụ án hình
sự đợc khởi tố thì các quyết định khởi tố của từng bị can có tính riêng biệt,
không thể sử dụng một quyết định khởi tố bị can cho các bị can nếu vụ án có
nhiều bị can bị khởi tố. Đối tợng của hoạt động áp dụng pháp luật là những
quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, trên cơ sở những mệnh lệnh
chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hành động áp dụng pháp luật những
quy phạm pháp luật nhất định đợc cá biệt hóa một cách cụ thể và chính xác.
16
Thứ ba, việc ban hành một quyết định áp dụng pháp luật phải đợc
thực hiện thông qua thủ tục nhất định. Các thủ tục để ban hành quyết định
trong hoạt động áp dụng pháp luật phải đợc pháp luật quy định rất chặt chẽ
và đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ nghiêm minh. Các thủ tục giúp cho các
chủ thể áp dụng pháp luật thể hiện đợc nguyện vọng, mong muốn của mình
một cách dân chủ, khách quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Tính đơn
giản hay tính phức tạp của các thủ tục này phụ thuộc vào tính chất nội dung sự
việc cần phải áp dụng pháp luật. Để áp dụng các quy phạm pháp luật đơn giản
nh việc xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ thì các thủ tục đặt ra phải đơn
giản, phải nhanh chóng. Ví dụ, cảnh sát giao thông phạt ngời điều khiển xe
gắn máy không đội mũ bảo hiểm khi đang điều khiển xe gắn máy trên đoạn
đờng bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm. Để áp dụng quy phạm pháp luật phức
tạp, thì cần phải xác minh, điều tra, đánh giá kỹ những tình tiết, sự việc; việc
xác định một ngời có phạm tội hay không phạm tội đòi hỏi phải có cả một
quá trình của những cơ quan tiến hành tố tụng nh Công an, VKS, Tòa án.
Thứ t, áp dụng pháp luật là hành động đòi hỏi tính sáng tạo; khi áp
dụng pháp luật, các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ
lỡng vụ việc, cần làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy
phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trờng hợp
pháp luật cha có quy định hoặc quy định cha rõ thì phải vận dụng một cách
sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tơng tự. Để đạt đợc điều đó, đòi hỏi
các nhà chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh
nghiệm phong phú, có đạo đức nghề nghiệp và có tay nghề vững vàng
ở nớc ta, trong điều kiện xây dựng nhà nớc pháp quyền hiện nay, đòi
hỏi phải đề cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nhất là tòa án. Ngoài hệ thống
tòa án truyền thống xét xử những vụ án hình sự, vụ án dân sự, hôn nhân gia đình
còn xuất hiện các loại tòa án khác nh: Tòa án hành chính, Tòa án kinh tế, Tòa
17
án lao động điều đó nhằm tạo ra cơ chế đồng bộ đảm bảo trật tự, kỷ cơng
pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân và tiến bộ xã hội.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và quy trình áp dụng pháp luật
trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, quy trình của áp dụng pháp luật trong
điều tra các vụ án hình sự
1.2.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự
Nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng, nhằm phát triển lý luận về áp dụng pháp
luật nói chung và áp dụng pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể nói riêng.
áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là một dạng của áp
dụng pháp luật nói chung. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
thuộc trờng hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nớc thấy cần thiết phải tham
gia bằng hình thức giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trong các
quan hệ điều tra, KSĐT các vụ án hình sự. Cơ sở phát sinh hoạt động áp dụng
pháp luật của VKSND đó là các quyết định của cơ quan điều tra, các hành vi
của những ngời tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết định và
các hành vi đó có thể đợc ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không đúng
quy định của pháp luật. Khi đó Nhà nớc thông qua hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND, nhằm phát hiện những sai phạm, kịp thời đề
ra các yêu cầu, kiến nghị các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án hình
sự, khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự đợc
tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Dới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là
một hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực
18
nhà nớc của các cơ quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm
pháp luật vào từng trờng hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức cụ
thể. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự có thể coi là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nớc của VKSND nhằm cá biệt hóa các quy phạm
pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật TTHS nói riêng đối với các
chủ thể trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Từ khái niệm về áp dụng pháp luật nói chung, có thể hiểu áp dụng
pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của VKSND là hoạt động
thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt động điều tra các vụ án
hình sự của cơ quan điều tra và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của VKSND đợc tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
Hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của
VKSND có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là hoạt
động chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức
năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp. Thông qua
việc thực hiện chức năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực nhà
nớc, trực tiếp thực hiện quyền t pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo
vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nớc,
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nớc, của tập thể và
lợi ích hợp pháp của công dân phải đợc xử lý nghiêm minh trớc pháp luật.
Là cơ quan duy nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan t pháp và thực hành quyền công tố. Hoạt động
KSĐT các vụ án hình sự đợc quy định tại Điều 12, 13, 14 Luật tổ chức
VKSND năm 2002.
19
Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND trong khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi
tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu thủ trởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy
định của pháp luật; nếu hành vi của điều tra có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố
về hình sự.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; tạm đình
chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Với những quy định của pháp luật nh trên thì VKSND có quyền áp
dụng mọi biện pháp cần thiết trong hoạt động kiểm sát điều tra nhằm đảm bảo
cho hoạt động điều tra các vụ án hình sự đợc tuân thủ đầy đủ các quy định
của pháp luật. Đảm bảo cho việc khởi tố điều tra các vụ án hình sự đợc tuân
theo quy định của pháp luật; bảo đảm việc truy tố đúng ngời, đúng tội và
đúng chính sách pháp luật.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
của VKSND phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định.
Trong hoạt động điều tra, khám phá các vụ án hình sự của cơ quan
điều tra, trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp của
VKSND, đó là một quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan:
Công an - VKS. Đây là những hoạt động rất quan trọng có tính quyết định
20
trong quá trình giải quyết những vụ án hình sự. Chính hoạt động kiểm sát điều
tra có vai trò quan trọng nh vậy nên pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng
hiện hành nói riêng đã quy định rất chặt chẽ việc áp dụng pháp luật trong hoạt
động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Pháp luật TTHS quy định chặt chẽ
trình tự, thủ tục của các hoạt động điều tra, hoạt động giám sát nh: từ việc
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các biện pháp điều tra, các biện pháp ngăn chặn,
nhập - tách vụ án, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, thời hiệu điều tra, thời hạn điều
tra Tóm lại, tất cả các bớc trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND đều đợc quy định chặt chẽ
theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện hành quy định.
Thứ ba, quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT của VKSND đợc
pháp luật bảo đảm thi hành.
Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật đã ban hành là
giai đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật, nó có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Khi một quyết định áp dụng pháp luật sau khi ban hành mà không đợc
thi hành trên thực tế thì cũng đồng nghĩa với việc vô hiệu hóa pháp luật, vô
hiệu hóa cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến
pháp chế XHCN. Các quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án
hình sự đã đợc BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003 quy định chặt chẽ và
đầy đủ. Việc thực hiện các quyết định áp dụng pháp luật của VKSND sẽ đảm
bảo cho quá trình giải quyết những vụ án hình sự đợc đúng theo quy định của
pháp luật; đảm bảo cho pháp luật đợc thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tại Điều 23, khoản 2 BLTTHS năm 2003 quy định:
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng và ngời tham gia tố tụng, áp dụng những
biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân này [25, tr 17].
21
1.2.1.3. Quy trình áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
- Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên quan đến
sự kiện pháp lý, đối tợng và quyết định xử lý do cơ quan điều tra cung cấp:
Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng của áp dụng pháp luật
trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự. Việc VKS xem xét, đánh giá các tài
liệu, chứng cứ và thủ tục tố tụng do cơ quan điều tra tiến hành trong các vụ án
hình sự, nhằm xác định tính có căn cứ, qua đó xác định tính chất, mức độ
hành vi nguy hiểm cho xã hội của các đối tợng đã gây ra: có hay không có
hành vi phạm tội? Hành vi đó ở mức độ nào? xảy ra ở đâu? Khi nào? Ai là
ngời thực hiện? Công cụ phơng tiện phạm tội? Nhân thân? năng lực chịu
trách nhiệm hình sự? Trình tự, thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ
Nếu trớc đó cơ quan điều tra thu thập tài liệu chứng cứ không đúng
trình tự, thủ tục, không đầy đủ, không toàn diện thì việc xem xét đánh giá
(kiểm sát việc tuân theo pháp luật) của VKSND sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn tới
sai lầm trong khi ra văn bản áp dụng pháp luật. Do đó phạm vi thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp của VKSND phải đợc bắt
đầu từ khâu tiếp nhận, xử lý tin báo liên quan tới tội phạm.
Theo quy định của pháp luật TTHS thì VKSND tự mình thông qua các
nguồn tin báo hoặc từ các tài liệu chứng cứ của cơ quan điều tra gửi tới để
xem xét đánh giá sự kiện pháp lý đã xảy ra: Việc thu thập tài liệu chứng cứ có
hợp pháp hay không, hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đến lúc phải xử lý bằng
hình sự hay chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính, ngời thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội là ai, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đối tợng
phạm tội có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tức là phải xem xét đánh
giá các yếu tố cấu thành tội phạm của đối tợng đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Trong quá trình xem xét đánh giá các tài liệu chứng cứ ban
đầu của vụ án hình sự, VKSND cần phải có sự phân công trách nhiệm cụ thể
rõ ràng cho cán bộ kiểm sát viên, có sự phối kết hợp chặt chẽ với cơ quan điều
22
tra. Có thể nói rằng, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết
sức quan trọng đảm bảo cho việc ra quyết định áp dụng pháp luật của VKS có
chất lợng, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự đợc tuân thủ theo quy
định của pháp luật.
- Xem xét các quy phạm pháp luật đợc áp dụng trong hoạt động kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự:
Giai đoạn này đợc thực hiện dựa trên ý thức pháp luật, trình độ hiểu
biết kiến thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật của
VKSND. Ngời có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình
sự cần phải xem xét, đánh giá đầy đủ sự kiện pháp lý đã xảy ra, những công
việc đã xử lý của cơ quan điều tra, yêu cầu và đề nghị của cơ quan điều tra đối
với việc giải quyết vụ án. Để từ đó xác định nội dung quy phạm đợc áp dụng,
phạm vi vi phạm pháp luật đợc áp dụng trong hoạt động KSĐT của VKSND.
Muốn làm đợc điều đó, đòi hỏi ngời có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải
tiến hành giải thích quy phạm pháp luật; phải làm sáng tỏ t tởng; nội dung
và ý nghĩa của quy phạm pháp luật đợc lựa chọn. Việc lựa chọn quy phạm
pháp luật đúng thì việc ra quyết định áp dụng pháp luật sẽ rất chính xác. Tóm
lại, giai đoạn áp dụng pháp luật này cần đòi hỏi: lựa chọn đúng quy phạm
pháp luật đợc trù tính cho trờng hợp đó; quy phạm pháp luật áp dụng phải là
quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với văn
bản quy phạm pháp luật khác; xác định tính chân chính của văn bản quy phạm
pháp luật chứa đựng quy phạm này; nhận thức đúng đắn nội dung, t tởng
của quy phạm pháp luật.
- Ban hành văn bản áp dụng pháp luật:
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là việc VKSND ra các quyết định;
quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Đây là giai đoạn trọng tâm,
quan trọng nhất của cả quá trình KSĐT các vụ án hình sự. Quyết định, quyết
định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn của VKS trong lĩnh vực này
23
đợc ban hành sau khi đã xem xét, đối chiếu một cách thận trọng, khách quan
với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã đợc thu thập trong hồ sơ vụ án. Vì
quyết định của VKSND đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của Nhà nớc, đến
trật tự trị an trên địa bàn và đến quyền tự do thân thể của công dân nên đòi
hỏi ngời có thẩm quyền ra văn bản áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm
ngặt theo các trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật tố tụng hiện hành. Đặc
biệt văn bản áp dụng pháp luật của VKSND phải có tính khả thi và hiện thực.
Tóm lại, để ban hành văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ
án hình sự, ngời có thẩm quyền áp dụng pháp luật của VKSND phải hiểu biết
về mặt pháp luật, biết tổng hợp, đánh giá các tình tiết vụ án, đồng thời phải có
kỹ năng soạn thảo văn bản, đảm bảo chất lợng kỹ thuật văn bản.
- Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật:
Việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật là giai đoạn cuối cùng
của quá trình áp dụng pháp luật. Khác với các văn bản áp dụng pháp luật của các
cơ quan nhà nớc khác, văn bản áp dụng pháp luật của VKS trong KSĐT các vụ
án hình sự nó là lệnh, quyết định, quyết định không phê chuẩn, quyết định phê
chuẩn buộc cơ quan điều tra phải thi hành và tổ chức thực hiện nghiêm minh.
Giám sát việc thực hiện các văn bản áp dụng pháp luật của VKS đối với toàn bộ
hoạt động điều tra vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ của ngành kiểm sát đã đợc
pháp luật quy định chặt chẽ và đầy đủ. Đó là một trong những đảm bảo quan
trọng để quyết định của VKSND đợc thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
1.2.2. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự
Do tính chất hoạt động của các loại tội phạm đòi hỏi phải đợc các cơ
quan chức năng điều tra khám phá để xử lý. Nhiệm vụ khám phá tội phạm đặt
ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phải làm rõ các yếu tố gây án, kẻ gây án,
ngời phạm tội, mức độ lỗi của ngời phạm tội. Nói cách khác là phải xác định
và làm rõ các vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự đó. Theo Điều 63
BLTTHS năm 2003 thì những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự:
24
- Có hành vi phạm tội hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội.
- Ai là ngời thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do
cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích hoặc
động cơ phạm tội.
- Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can,
bị cáo và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo.
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Bị can,
bị cáo có quyền nhng không bắt buộc chứng minh mình vô tội vì thế cơ quan
điều tra phải tìm cho đợc những chứng cứ để làm rõ yêu cầu trên, thì đó
chính là điều tra.
Điều tra là một quá trình khám phá tội phạm, là công cụ, phơng tiện
của quá trình nhận thức tội phạm. Song, không phải bất cứ vụ án hình sự nào
xảy ra cũng đều phải khám phá; mà tùy thuộc vào sự phản ánh của yêu cầu
trên đây đã thỏa mãn hay cha? Nếu trong trờng hợp kẻ trộm đang đêm cậy
phá cửa một gia đình lấy trộm đồ đạc mà bị chủ nhà phát hiện, bắt giữ thì
không yêu cầu phải khám phá nữa mà chỉ cần hoàn thiện một số thủ tục điều
tra nhất định theo yêu cầu của quy định là đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ.
Còn ngợc lại, trong trờng hợp kẻ trộm cậy phá cửa nhà, trộm cắp
một số đồ đạc trong đêm của một gia đình hay của một cơ quan nào đó, không
bắt đợc kẻ gây án, đến hôm sau mới phát hiện ra vụ việc, thì đây là tình
huống phức tạp hơn; cần phải làm rõ các yếu tố trên. Khác với trờng hợp
trớc đó ở trờng hợp này cần phải khám phá tội phạm và hoạt động điều tra
cần phải phức tạp hơn. Nó cần sử dụng tới tất cả các biện pháp, chiến thuật,
thủ thuật điều tra để khám phá tội phạm.
Với cách tiếp cận nh vậy, xét về mặt tổng thể dới góc độ lý luận,
thấy rằng: Điều tra tội phạm là một quá trình nhận thức, thông qua các hoạt
25
động thu thập, nghiên cứu, phân tích, đánh giá tài liệu, tình hình phản ánh
thực tế khách quan về tội phạm, về vụ phạm tội, bằng các hình thức, biện
pháp, phơng tiện chuyên môn của cơ quan chuyên trách để khám phá tội
phạm; vạch trần kẻ phạm tội; phòng ngừa ngăn chặn tất cả mọi thiệt hại do tội
phạm gây ra. Đây là quá trình thu thập những thông tin, tài liệu, số liệu
phản ánh sự thật về một tổ chức, con ngời, việc, hiện tợng hoặc địa bàn.
Phục vụ cho công tác nắm, quản lý tình hình về an ninh trật tự.
Điều tra đợc tiến hành dới nhiều hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp,
công khai hoặc bí mật, diện hoặc điểm và đợc tiến hành bằng hành động điều
tra trinh sát, điều tra TTHS.
Điều tra trinh sát là hoạt động nghiệp vụ đặc biệt của lực
lợng công an, đợc tổ chức tiến hành dới hình thức bí mật, trên cơ
sở vận dụng những quy định của pháp luật nhằm thu thập tin tức, tài
liệu phản ánh về hoạt động của bọn tội phạm để phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn và khám phá nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời các tội
phạm xảy ra [32, tr. 231].
Điều tra tố tụng hình sự là hoạt động tố tụng của cơ quan
điều tra và cơ quan khác đợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra nhằm xác định tội phạm và ngời đã thực hiện hành vi
phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra những nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
các biện pháp khắc phục và phòng ngừa [32, tr. 233].
1.2.3. Khái niệm kiểm sát điều tra
Hoạt động của hệ thống các cơ quan VKS là một trong bốn hệ thống
các cơ quan nhà nớc đợc xác lập trong Hiến pháp của nớc Cộng hòa
XHCN Việt Nam.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động t pháp. Nhiệm vụ của VKSND là kiểm sát việc tuân theo