Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, XÃ HỘI DÂN SỰ VỚI VẤN ĐỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CÔNG DÂN pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.54 KB, 95 trang )





TIỂU LUẬN:

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, XÃ HỘI
DÂN SỰ VỚI VẤN ĐỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CÔNG DÂN













Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự là hai yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng mà mối quan hệ biện chứng giữa chúng là cơ sở tồn tại
của một hình thái kinh tế - xã hội. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc chủ động
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vượt trước so với xã hội dân sự là
cần thiết và hợp quy luật. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức
tạp. Để phát huy tác động tích cực, thuận chiều phát triển của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đối với việc xây dựng xã hội dân sự, chúng ta cần chủ động tiến
hành nhiệm vụ giáo dục cho người dân hiểu, nắm vững và tự giác thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân của mình trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội


dân sự, thông qua quá trình công khai hóa và dân chủ hóa đời sống xã hội.

1. Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là những đổi mới trong hai lĩnh
vực quan trọng nhất của đời sống xã hội là kinh tế và chính trị, đất nước ta đã có
những đổi thay căn bản theo hướng tiến bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay, Đảng
ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa -nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong lĩnh vựcchính trị, ngay từ năm 1994 - 1995, Đảng ta đã chủ trương xây
dựngNhà nước pháp quyền Việt Nam. Với những đổi mới này, Việt Nam đang bước
vào một thời kỳ phát triển mới về chất, chủ động và tích cực hội nhập vào sự phát

triển chung của thế giới ngày nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta hiện đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp, nan giải và cả những thách thức mới đặt ra
trong quá trình phát triển. Một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế
độ ta, như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định, là “Tình trạng
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá
phổ biến”(1). Trên thực tế, nạn móc ngoặc, hối lộ, lãng phí, tham ô, buôn lậu, kỷ
cương xã hội bị buông lỏng và nhiều tệ nạn xã hội khác đang có chiều hướng gia tăng.
Vậy, nguyên nhân của thực trạng này là gì? Có thể khẳng định rằng, thực trạng đó bắt
nguồn từ rất nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung phân tích một
trong những nguyên nhân, đó là vấn đề về mối quan hệ giữa việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân ở nước ta hiện nay.
Theo quan điểm của triết học mácxít, mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước
pháp quyền thực chất là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, còn ở tầm bao quát
hơn là mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng, tức toàn bộ những quan hệ sản xuất của một

xã hội hợp thành cơ cấu của xã hội đó, với kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị,
cùng những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Mối
quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện chứng, khi
“Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ đó cũng bị đảo
lộn ít nhiều nhanh chóng”(2).
Nếu xét mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền theo mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình phát triển của
xã hội thì có thể có ba khả năng xảy ra.Một là, với tư cách yếu tố quyết định, xã hội
dân sự phải được hình thành và phát triển trước, sau đó mới xây dựng nhà nước pháp
quyền – đó là trường hợp đã từng xảy ra ở các nước tư bản chủ nghĩa trước đây. Hai
là, xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền cùng tồn tại và phát triển song song với
nhau, chúng phụ thuộc và quy định lẫn nhau, như trường hợp đang diễn ra ở các
nước công nghiệp phát triển. Ba là, với tư cách yếu tố phụ thuộc, nhưng lại có tính
độc lập tương đối, nhà nước pháp quyền có thể phát triển vượt trước so với xã hội

dân sự. Trong trường hợp này, nếu có, cũng chỉ xảy ra tại những nước mà ở đó đã có
những tiền đề cơ bản về cơ cấu kinh tế (nền kinh tế thị trường) và đã hình thành cơ
sở của một nền dân chủ trong xã hội. Tuy nhiên, sự vượt trước này không thể có
khoảng cách quá xa so với sự phát triển của xã hội dân sự.
Trường hợp thứ ba nói trên đây đang diễn ra ở các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Với trường hợp này, cả trong việc xây dựng xã hội dân sự lẫn trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền, vấn đề luật pháp, đặc biệt là vấn đề dân chủ và công
khai trong xã hội đều phải được đặt lên vị trí hàng đầu, mối quan hệ giữa chúng phải
hài hoà trong suốt quá trình phát triển. Như vậy, cùng với quá trình hình thành, phát
triển nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự là quá trình không ngừng nâng cao ý
thức pháp luật và thực thi pháp luật; ý thức về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của
công dân trong phát triển xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện của Việt Nam hiện nay,
đạt đến điều đó là vô cùng khó khăn và phức tạp. Song, đó là con đường tất yếu.
2. Ngày nay, đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền
đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử, phù hợp với tiến trình lịch sử xây dựng và

phát triển Nhà nước ta; đồng thời, cũng đáp ứng được xu thế phát triển mới của thời
đại.
Vấn đề xây dựng và phát triển Nhà nước của dân, do dân và vì dân - một Nhà nước
dân chủ kiểu mới và một nền dân chủ kiểu mới - đã được hình thành từ rất sớm trong
tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và về xã hội. Người đã từng khẳng định:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân ”(3).
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong một Nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải
luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên
mạnh mẽ. Vì vậy, xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc
thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Tư tưởng về nhà nước dân chủ của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta tiếp tục phát triển

với việc khẳng định chủ trương “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý
xã hội bằng pháp luật”(4). Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, một lần nữa, Đảng ta
khẳng định rằng, cần phải “tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức”(5). Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, vấn
đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không những tiếp tục
được khẳng định, mà còn tiến thêm một bước mới là “xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ta là công cụ chủ yếu
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật.Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi
công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”(6) (tác giả nhấn mạnh).

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chỉ rõ, nhà nước được hình thành và bị quy
định bởi cơ sở hạ tầng, tức là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội. Các kiểu nhà nước khác nhau đều dựa trên cơ cấu kinh tế của xã hội ở
những trình độ phát triển khác nhau. Nhà nước pháp quyền phải được hình thành,
phát triển trên nền tảng cơ cấu kinh tế thị trường và xã hội dân sự, tức là dựa trên
“những quan hệ kinh tế” (C.Mác) mà cụ thể là các mối quan hệ kinh tế thị trường.
Theo C.Mác, xã hội dân sự không phải do nhà nước tạo lập và quy định, mà trái lại,
nhà nước được tạo lập và quy định bởi xã hội dân sự(7). Nhà nước là trụ cột của hệ
thống chính trị, là yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay chính là sự vận
dụng, thực hiện nguyên tắc về “tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng so
với cơ sở hạ tầng”, cụ thể là sử dụng tính vượt trước của kiến trúc thượng tầng trong
quan hệ với cơ sở hạ tầng. Bởi lẽ, cho đến nay, nước ta chưa có đủ điều kiện để xây
dựng và cũng chưa có chủ trương xây dựng xã hội dân sự. Mặc dù các mối quan hệ
kinh tế thị trường là cốt lõi của xã hội dân sự, nhưng nền kinh tế thị trường ở nước ta
chỉ mới bắt đầu được xây dựng, chứ chưa phải là nền kinh tế thị trường đã phát triển.
Việc Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vượt trước so
với xã hội dân sự là điều hợp quy luật và cần thiết trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên,

nhiệm vụ đó cũng đang gặp phải không ít khó khăn, phức tạp và nan giải, mà các tệ nạn
đã nêu ở trên là một trong những minh chứng cụ thể.
Về nguyên tắc, nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở dân chủ. Bản chất
của nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng xã hội, phục tùng các công dân. Để
làm được điều này, nhiệm vụ đầu tiên của nhà nước pháp quyền là phải bảo đảm các
quyền và sự tự do của công dân bằng pháp luật và sự tự do ở đây phải được hiểu là
“sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người” (C.Mác và Ph.Ăngghen). Pháp luật, một mặt, phải bảo đảm các quyền tự
nhiên và các quyền chính trị của con người, như quyền được sống, quyền được tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực của nhà
nước, quyền kiểm tra, kiểm soát, giám sát công việc của các cơ quan quyền lực nhà

nước, cũng như quyền bãi nhiệm các cơ quan đó, v.v Mặt khác, pháp luật phải thực
sự có hiệu lực, phải xác định rõ trách nhiệm tuân thủ và thực hiện pháp luật của mọi
công dân, không trừ bất kỳ ai. Như vậy, pháp luật vừa quy định quyền, vừa quy
định nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi công dân đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền, cũng như việc thực hiện pháp luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập Nhà nước dân chủ kiểu mới ở Việt Nam - đã
hết sức quan tâm đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân. Người viết: “Chính
phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự cho lợi ích của
nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc kiểm soát và phê bình để
Chính phủ làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tụy của nhân
dân”(8) và thường xuyên nhắc nhở cán bộ phải lo “làm sao cho dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(9). Theo Hồ
Chí Minh, khi người dân “dám nói, dám làm”, có tinh thần phê bình người lãnh đạo
cũng có nghĩa là dân đã biết sử dụng, phát huy quyền làm chủ của mình và lúc đó, xã
hội đã đạt đến mức dân chủ hóa khá cao. Xã hội đạt đến mức dân chủ hóa khá cao
mà Hồ Chí Minh nói đến ở đây chính là xã hội dân sự.
3. Xã hội dân sự và dân chủ hóa là hai mặt không thể tách rời của một quá trình. Xã
hội dân sự là cơ sở vật chất, cơ sở kinh tế - xã hội để bảo đảm thực hiện dân chủ hóa;
dân chủ hóa càng được bảo đảm thì xã hội dân sự càng vững mạnh. Vì, nhà nước
pháp quyền được xây dựng trên cơ sở dân chủ, theo những nguyên tắc dân chủ, nên

nó không thể là một cái gì khác, mà chính là một bộ phận hữu cơ của xã hội dân sự.
Chỉ có trong xã hội dân sự, mỗi công dân mới ý thức được một cách đầy đủ chủ
quyền của mình, mới ý thức được một cách rõ ràng sự bình đẳng về mặt pháp luật
giữa các cá nhân trong cộng đồng; đồng thời, có khả năng tự khẳng định “cái Tôi”
của nhân cách để làm chủ bản thân mình. Nói cách khác, khi đó, mỗi người
mới nhận thức được đầy đủ sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhà
nước, đối với xã hội và đối với bản thân mình. Do vậy, việc xây dựng và phát triển
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay
không thể không gắn liền với việc xây dựng và phát triển xã hội dân chủ – nền tảng

của xã hội dân sự.
Ở nước ta, xã hội dân sự chỉ mới ở giai đoạn hình thành, hiểu theo nghĩa là chúng ta
đã bắt đầu xây dựng nền kinh tế hàng hóa thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
vấn đề xây dựng xã hội dân sự hầu như chưa được đặt ra một cách chính thức. Trong
các yếu tố tạo thành xã hội dân sự, các quan hệ kinh tế thị trường giữ vai trò nền tảng
và quan trọng nhất. Thị trường không chỉ làm thay đổi mối quan hệ giữa người với
người trong lĩnh vực kinh tế, mà còn làm thay đổi về cơ bản mối quan hệ giữa người
với người trong các lĩnh vực khác của xã hội. Khi thị trường đã được phát triển đúng
tầm cỡ, một mặt, nó mở rộng các mối quan hệ giữa người với người vượt ra khỏi
khuôn khổ chật hẹp của các cộng đồng dân cư nhỏ bé, khép kín trong một phạm vi
nhất định (làng, xã, địa phương) để vươn ra tầm quốc gia, quốc tế; mặt khác, các mối
quan hệ rộng mở giữa người với người còn được bảo đảm bởi các quy luật, các
nguyên tắc chặt chẽ, khắt khe của cơ chế thị trường, nhờ đó thị trường điều tiết được
các mối quan hệ lợi ích trong xã hội, trước hết là lợi ích kinh tế. Bằng cơ chế lợi ích,
thị trường buộc tất cả các bên đối tác tham gia vào nó phải có các “khế ước xã hội”
song phương hoặc đa phương, dựa trên tinh thần tự nguyện, tự giác, tự chịu trách
nhiệm, tự trang trải, tự ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với
người khác. Từ đó, thị trường tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện dân chủ hóa đời
sống xã hội; đồng thời, cũng tạo điều kiện để mỗi người dân nâng cao ý thức về quyền
và nghĩa vụ công dân của mình đối với nhà nước. Đó là một trong những cơ sở quan
trọng nhất để bài trừ các tệ nạn quan liêu, móc ngoặc, hối lộ, tham nhũng
4. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền phải dựa trên nền tảng xã hội dân sự và theo

nguyên tắc dân chủ - đó là một quy luật của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, xét trong
tình hình cụ thể của nước ta hiện nay, không thể chờ có xã hội dân sự rồi mới xây
dựng nhà nước pháp quyền. Việc tiến hành đồng thời cả hai quá trình: xây dựng xã
hội dân sự mà cốt lõi của nó là các quan hệ kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước
pháp quyền là hoàn toàn hợp lý và hợp quy luật. Song, điều kiện nước ta hiện nay
chưa cho phép làm được điều đó.
Lực cản lớn nhất khiến không thể đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa và xã hội dân sự ở nước ta hiện nay là ở chỗ, chúng ta chưa có một nền
kinh tế thị trường phát triển. Nền kinh tế thị trường Việt Nam mới bắt đầu được xây
dựng cách đây khoảng 20 năm, còn quá ít thời gian để thử thách và trưởng thành.
Điều đó cũng có nghĩa là, chúng ta chưa có được những điều kiện khách quan cơ bản
nhất là các quan hệ kinh tế thị trường đã phát triển để thực thi dân chủ hóa đời sống
xã hội - một trong những nội dung quan trọng nhất của xã hội dân sự.
Xuất phát từ một xã hội truyền thống phong kiến tập quyền phương Đông với nền
kinh tế tự cấp, tự túc, “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”, với tâm lý “phép vua thua lệ làng”,
“ta về ta tắm ao ta. Dù trong, dù đục ao nhà vẫn hơn” , con người Việt Nam không
dễ dàng tiếp cận với một xã hội được dân chủ hóa - xã hội có các quan hệ kinh tế thị
trường đã phát triển cao, mà cần phải có một thời gian nhất định và thích ứng với
một nhà nước thực hiện sự quản lý xã hội bằng pháp luật trên cơ sở dân chủ. Người
dân chưa có đủ cơ sở vật chất và trình độ hiểu biết để có thể tự ý thức về quyền cá
nhân của mình, cũng như sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các cá nhân trong cộng
đồng xã hội; chưa thể khẳng định được “cái Tôi” của nhân cách, và đặc biệt là chưa
tự ý thức được về sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân đối với xã
hội và đối với nhà nước. Trong nhiều trường hợp, người dân chủ yếu chỉ mới quan
tâm đến quyền lợi thiết thực trước mắt, đặc biệt là những quyền lợi (lợi ích) kinh tế;
thậm chí, họ còn tìm mọi cách để lách luật, phá luật nhằm đạt bằng được lợi ích cá
nhân của mình. Đối với những quyền lợi về chính trị, như quyền ứng cử, bầu cử
người vào các cơ quan quyền lực nhà nước, quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan đó… hiện nay, trong nhân dân có hai thái cực nổi bật: một là, tìm mọi
cách để đạt cho bằng được với những động cơ khác nhau và hai là, không thật sự
quan tâm, thậm chí còn thờ ơ, vô trách nhiệm. Thực chất, những quyền chính trị này

cũng đồng thời là nghĩa vụ của công dân đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho những người làm việc trong các cơ
quan công quyền - nơi nắm giữ nhiều quyền hành và cũng có nhiều bổng lộc nhất, -
hoặc là quan liêu, hoặc là lợi dụng chức quyền để “đục nước béo cò”, gây nên những
thiệt hại lớn cho xã hội, cho nhà nước cả về vật chất lẫn tinh thần. Nạn tham nhũng

ngày càng phổ biến và đang trở thành quốc nạn, các tệ nạn khác, như quan liêu, sách
nhiễu dân, tham ô, lãng phí, bài bạc, buôn lậu, móc ngoặc, hối lộ, v.v., không những
không được giải quyết triệt để, mà trái lại, đang có chiều hướng gia tăng trong những
năm gần đây đã mang lại những hậu quả lớn không sao kể xiết. Những tệ nạn đó kéo
dài, chậm được giải quyết, một phần quan trọng là do các cơ quan quyền lực của Nhà
nước ta, từ các cơ quan lập pháp, hành pháp đến tư pháp hoạt động không đồng bộ,
nhất quán và kém hiệu quả, phần khác là do người dân chưa ý thức được đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân của mình trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Những tệ nạn đó đang gặm nhấm dần những thành quả mà nhân dân ta đã đạt được
trong nhiều năm qua, làm sa sút lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào các cơ quan
quyền lực của Nhà nước.
Như vậy, việc người dân chưa nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân
của mình có nguyên nhân sâu xa từ sự không đồng bộ của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng xã hội dân sự. Việc vượt trước của
Nhà nước pháp quyền với tư cách là một yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng
tầng so với cơ sở hạ tầng - cơ cấu kinh tế của xã hội, tức cái cốt lõi của xã hội dân sự,
là hoàn toàn có thể và cần thiết. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, sự vượt trước đó
không thể quá xa. Bài học về sự nôn nóng duy ý chí trong việc phát triển quan hệ sản
xuất vượt trước quá xa so với lực lượng sản xuất mà Đại hội VI của Đảng đã thừa
nhận, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Những tệ nạn đang hoành hành cùng với bài
học kinh nghiệm xương máu của “sự vượt trước quá xa” đó là lời cảnh báo cho việc
giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với
xây dựng xã hội dân sự ở nước ta hiện nay.
5. Có thể nói, cầu nối giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự
chính là việc giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân, là việc thực thi pháp
luật, thực hiện quyền dân chủ và công khai trong xã hội. Bởi vì, chỉ khi nào người

dân tự ý thức được quyền cũng như nghĩa vụ công dân của mình thì lúc đó dân chủ
hóa mới được thực thi trong xã hội và xã hội mới thực sự trở thành xã hội dân sự.
Điều này lại phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa mà chúng ta mới bắt đầu xây dựng. Trong điều kiện xã hội dân sự
chưa hình thành và phát triển như ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ giáo dục cho người
dân hiểu và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ công dân của họ chủ yếu thuộc về Nhà
nước và các đoàn thể xã hội. Nhà nước phải có trách nhiệm trong việc nâng cao sự
hiểu biết, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật của người dân, giúp và tạo điều kiện
cho họ rèn luyện thói quen sống, làm việc theo pháp luật; đồng thời, giúp họ tự ý
thức được các quyền cá nhân nói riêng, dân chủ nói chung, làm cho họ tự giác và chủ
động tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là đời sống chính trị của đất nước,
v.v
“Dân chủ hóa” luôn gắn liền với “công khai hóa”. Do vậy, để thực hiện dân chủ hóa
đời sống xã hội, cần phải tiến hành công khai hóa hoạt động của các cơ quan quyền
lực nhà nước, đặc biệt là về mặt tài chính và cơ chế hoạt động. Nhà nước cần tổ chức
một hệ thống truyền thông đại chúng đa dạng, chính xác, rộng rãi, cập nhật và có
định hướng để giúp cho người dân nắm bắt được một cách đúng đắn và kịp thời
những thông tin cần thiết, nhằm thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” và dân được hưởng. Có như vậy, người dân mới có cơ sở để thực hiện
quyền và nghĩa vụ công dân của mình đối với Nhà nước, đối với xã hội.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học trong Khoa học, Công nghệ và Môi
trường, Viện Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.76.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.13. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr.15.
(3) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.698.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, Hà Nội, 1995, tr.25.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.


Sđd., tr.45.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Sđd.,
tr.131 - 132.
(7) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.315 - 316.
(8) Hồ Chí Minh. Nhà nước và pháp luật. Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr.275.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.223.


QUAN ĐIỂM DUY VẬT VỀ XÃ HỘI CỦA C.MÁC VÀ PH.
ĂNGGHEN
TRONG HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC


NGUYỄN NGỌC HÀ (*)
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan điểm duy vật
về xã hội mà nhờ đó, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy tâm đã
bị “tống ra khỏi” lĩnh vực xã hội. Đó là: quan điểm về các hành vi lịch sử đầu tiên
của con người; quan điểm về tiêu chuẩn phân biệt con người với súc vật; quan điểm
về vai trò của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của xã hội; quan điểm về
hai quan hệ song trùng trong sự sản xuất ra đời sống; quan điểm về vai trò của quan
hệ giữa người và người về vật chất đối với quan hệ giữa người và người về tinh thần.

Trong Hệ tư tưởng Đức (chủ yếu ở chương “Phoiơbắc – sự đối lập giữa quan điểm
duy vật và quan điểm duy tâm”), khi phê phán Phoiơbắc và một số nhà triết học
khác, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày những quan điểm cơ bản của mình về xã
hội. Đây là những quan điểm duy vật mà nhờ đó, lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
chủ nghĩa duy tâm đã bị “tống ra khỏi” lĩnh vực xã hội. Trong số các quan điểm duy
vật đó, trước hết phải kể đến năm quan điểm sau đây.
Thứ nhất, quan điểm về các hành vi lịch sử đầu tiên. C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên
cứu xã hội bắt đầu từ việc xác định các hành vi lịch sử đầu tiên của con người, những

hành vi quyết định sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người,
những hành vi không phụ thuộc vào ý muốn tùy tiện của bất kỳ ai. Quan điểm này đã

được các ông khẳng định một cách rõ ràng:
“Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề lịch sử tùy tiện,
không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua
trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng
như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là
có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy”.
“Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá
nhân con người sống”.
“ Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi
lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có khả năng “làm ra lịch
sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất
trong
(**)
những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời
sống vật chất Vì vậy, khi làm sáng tỏ bất kỳ một hiện thực lịch sử nào, việc đầu
tiên là phải quan sát sự kiện cơ bản đó với toàn bộ ý nghĩa và phạm vi của nó, và
phải dành cho nó một vị trí xứng đáng”.
“Điểm thứ hai là bản thân cái nhu cầu đầu tiên đã được thỏa mãn, hành động thỏa
mãn và công cụ để thỏa mãn mà người ta đã có được - đưa tới những nhu cầu mới;
và sự sản sinh ra những nhu cầu mới này là hành vi lịch sử đầu tiên”.
“Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái
tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh
sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”(1).
Đúng như C.Mác và Ăngghen đã viết ở trên, việc con người sản xuất ra đời sống của
bản thân mình bằng lao động và sản xuất ra đời sống của người khác bằng việc sinh

con đẻ cái (cụ thể là hành vi lao động và hành vi sinh con đẻ cái) là hai hành vi lịch
sử đầu tiên của con người (có từ khi con người đầu tiên xuất hiện và vẫn còn biểu
hiện ra trong lịch sử). Hai hành vi này quyết định sự tồn tại của con người, cũng tức
là quyết định sự tồn tại của loài người và lịch sử loài người. Ngay từ khi có lịch sử
loài người cho đến nay và mãi về sau, con người không lúc nào ngừng sản xuất ra
đời sống của mình, tức là không ngừng lao động và sinh con đẻ cái. Lao động và sinh

con đẻ cái là hai hành vi của con người đã và đang quyết định sự tồn tại và phát triển
của loài người. Đây là một chân lý đơn giản và dễ hiểu đối với mọi người. Thế
nhưng, trong giới lý luận, chỉ đến C.Mác và Ph.Ăngghen, chân lý đó mới được phát
hiện. Các nhà lý luận trước Mác đã coi thường hoạt động thực tiễn, đặc biệt là hoạt
động sản xuất vật chất (tức là lao động)(2). Chẳng hạn, L.Phoiơbắc “chỉ coi hoạt
động lý luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn chỉ được ông xem
xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi”(3). Điều
đó đã cản trở các nhà lý luận trước Mác tiếp cận đến quan điểm duy vật về xã hội
loài người.
Thừa nhận quan điểm con người sản xuất “ra đời sống của bản thân mình bằng lao
động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái ”(4) đã và
đang quyết định sự tồn tại và phát triển của loài người là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng đối với việc tìm ra những quan điểm duy vật khác về lịch sử xã hội loài người.
Có thể so sánh ý nghĩa của quan điểm này đối với sự nghiên cứu xã hội giống như ý
nghĩa của quan điểm về hàng hóa đối với sự nghiên cứu nền kinh tế của xã hội tư bản
chủ nghĩa.
Thứ hai, quan điểm về tiêu chuẩn phân biệt con người với súc vật. C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, tiêu chuẩn phân biệt con người với súc vật là ở chỗ, con người
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, còn súc vật thì không làm được như
vậy. Các ông viết: “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
của mình”(5). Quan điểm thứ hai này là kết luận tất yếu suy ra từ quan điểm thứ nhất

ở trên. Trước đó, người ta thường định nghĩa “con người là động vật có tư duy” hoặc
“người là động vật xã hội”. Những định nghĩa như vậy không sâu sắc bằng định
nghĩa “con người là động vật sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”. Với tư
cách động vật sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, con người bao giờ cũng
là con người cụ thể, vì nó phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của việc sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo
ra con người đến mức ấy”(6). Chúng ta không thể đòi hỏi một người hoặc những
người nào đó phải có những tư tưởng (ý nghĩ, sự hiểu biết…) vượt ra ngoài điều kiện

cụ thể mà họ sống, những điều kiện này, suy cho cùng, bị quy định bởi việc sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt: “Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy.
Do đó, họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản
xuất ra cũng như với cách mà họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là như thế nào, điều
đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ”(7).
Thứ ba, quan điểm về vai trò của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của xã
hội. Đời sống tinh thần của xã hội được hình thành từ đời sống tinh thần của các cá
nhân. Đời sống tinh thần của các cá nhân cũng như của xã hội phụ thuộc vào đời
sống vật chất, tức là phụ thuộc vào việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt. Về điều
này, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan
niệm, ý niệm, v.v. của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành
động, đúng như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng
sản xuất của họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình
thức rộng rãi nhất của sự giao tiếp ấy. Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn
là sự tồn tại được ý thức, và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của
con người”(8).
Do không thấy được vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh
thần của xã hội, nên các nhà triết học và sử học trước Mác “chỉ có thể thấy lịch sử là
những hành động chính trị của vương công và của nhà nước, những cuộc đấu tranh
tôn giáo và đấu tranh lý luận nói chung”(9) mà không thấy được vai trò quyết định
của quần chúng nhân dân. Họ không quan niệm lịch sử diễn ra một cách tự nhiên, mà

lại hình dung lịch sử vận động một cách ngẫu nhiên, phụ thuộc vào sự xuất hiện của
một nhân vật lịch sử nào đó hoặc vào ý kiến của một cá nhân nào đó. C.Mác và
Ph.Ăngghen “không xuất phát từ những điều mà con người nói, tưởng tượng, hình
dung”, “cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý
nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những
con người bằng xương bằng thịt”, mà “xuất phát từ những con người đang hành
động, hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ” để
“mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá
trình đời sống ấy”. Theo các ông, “ngay cả những ảo tưởng hình thành trong đầu óc
con người cũng là những vật thăng hoa tất yếu của quá trình đời sống vật chất của

họ, một quá trình có thể xác định được bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền
đề vật chất. Như vậy thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ
tư tưởng cùng với những hình thái ý thức tương ứng với chúng, liền mất ngay mọi vẻ
độc lập bên ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển;
chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình,
đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của
mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý
thức”(10).
Quan điểm về vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của
xã hội, về thực chất, là quan điểm về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý
thức xã hội. Đây chính là quan điểm trọng tâm trong hệ thống các quan điểm duy vật
về xã hội loài người.
Thứ tư, quan điểm về hai quan hệ song trùng trong sự sản xuất ra đời sống. Trong
hoạt động sản xuất ra đời sống có hai quan hệ song trùng là quan hệ giữa người với
tự nhiên và quan hệ giưa người với người. Về điều này, C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
“Như vậy, sự sản xuất ra đời sống – ra đời sống của bản thân mình bằng lao động,
cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái biểu hiện ngay ra là
một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội,
quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều cá nhân, không kể là trong

những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì. Do đó chúng thấy rằng
một phương thức sản xuất nhất định hay một giai đoạn công nghiệp nhất định là luôn
luôn gắn liền với một phương thức hợp tác nhất định hay một giai đoạn xã hội nhất
định; rằng bản thân phương thức hợp tác ấy là một “sức sản xuất”; và cũng do đó mà
thấy rằng tổng thể những lực lực sản xuất mà con người đã đạt được, quyết định
trạng thái xã hội ”(11).
Trong quá trình sản xuất ra đời sống (không chỉ sản xuất ra đời sống của người
khác), con người phải có quan hệ với nhau, quan hệ này phát triển cùng với sự phát
triển của sản xuất. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sự sản xuất “có tiền đề là sự giao
tiếp (Verkehr) giữa những cá nhân với nhau. Hình thức của sự giao tiếp ấy, đến lượt
nó, lại do sự sản xuất quy định”; “ ngay từ đầu, đã có mối liên hệ vật chất giữa
người và người, mối liên hệ này bị quy định bởi những nhu cầu và những phương

thức sản xuất và cũng lâu đời như bản thân loài người, - một mối liên hệ không
ngừng mang những hình thức mới ”(12).
Giữa lực lượng sản xuất và quan hệ giao tiếp (quan hệ sản xuất) có thể có xung đột,
và sự xung đột ấy là nguyên nhân khách quan dẫn đến sự xung đột xã hội. “Tất cả
mọi sự xung đột trong lịch sử, - C.Mác và Ph.Ăngghen viết, - đều bắt nguồn từ mâu
thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp”(13).
Quan điểm thứ tư trên đây, về thực chất, chính là quan điểm về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Thứ năm, quan điểm về vai trò của quan hệ giữa người và người về vật chất đối với
quan hệ giữa người và người về tinh thần. Về điều này, C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
“Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống
trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì
cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư
liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất, thành thử nói
chung những tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng
đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối. Những tư tưởng thống trị không phải là
cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị,

chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới hình thức tư tưởng; do
đó là sự biểu hiện của chính ngay của những quan hệ làm cho một giai cấp trở thành
giai cấp thống trị; do đó, đó là những tư tưởng của sự thống trị của giai cấp ấy”(14).
Quan hệ giữa con người với con người có hai loại là quan hệ vật chất và quan hệ tinh
thần; trong đó, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh
thần. Quan điểm đúng đắn này của C.Mác và Ph.Ăngghen về xã hội là cơ sở phương
pháp luận khoa học vô cùng quan trọng để chúng ta xem xét và phân tích chính xác
các vấn đề quan trọng và phức tạp của triết học xã hội, như bản chất của chiến tranh,
bản chất của nhà nước và pháp luật, bản chất của chính trị, đạo đức và tôn giáo…
Trong lịch sử, từ xa xưa cho đến nay, vẫn thường xuyên xảy ra những cuộc chiến
tranh tàn khốc mà thoạt nhìn, chúng ta dễ lầm tưởng đó là những cuộc chiến tranh
thuần túy vì những tư tưởng nào đó (thuần túy vì tôn giáo, vì độc lập dân tộc, vì tự
do, vì nhân nghĩa ). Thực ra thì không phải như vậy. Nguyên nhân xâu sa của mọi
cuộc chiến tranh giữa người và người là sự tranh giành các tư liệu sinh hoạt (thức ăn,

thức uống, nhà ở, quần áo ). Tranh giành về tư tưởng nào đó nếu có thì chỉ là
nguyên nhân phái sinh chứ không phải là nguyên nhân sâu xa của các cuộc chiến
tranh. Thông thường, để gây ra một cuộc chiến tranh thì người gây chiến phải tìm
một lý do tư tưởng nào đó, tức là phải coi cuộc chiến chiến tranh ấy là “hợp lý”, “có
giá trị phổ biến”. Điều này cũng đúng đối với các hành vi bạo lực của nhà nước dùng
để trấn áp sự phản kháng của những người không chấp hành pháp luật của nhà nước.
“Thật ra, mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống trị trước mình, muốn thực hiện
được mục đích của mình, đều nhất thiết phải biểu hiện lợi ích của bản thân mình
thành lợi ích chung của mọi thành viên trong xã hội hay nói một cách trừu tượng:
phải gắn cho những tư tưởng của bản thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu
hiện những tư tưởng đó thành những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị
phổ biến”(15). Nhà nước tư sản “chẳng phải là cái gì khác mà chỉ là hình thức tổ
chức mà những người tư sản buộc phải dùng đến để bảo đảm lẫn cho nhau sở hữu và
lợi ích của họ, ở ngoài nước cũng như ở trong nước”, “nhà nước là hình thức mà các
cá nhân thuộc một giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là

hình thức dưới đó toàn bộ xã hội công dân của một thời đại được biểu hiện một cách
tập trung”(16).
Quan điểm thứ năm trên đây, về thực chất, chính là quan điểm về mối quan hệ giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Ngoài năm quan điểm trên đây, trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn
trình bày nhiều quan điểm duy vật khác về xã hội loài người. Tuy nhiên, năm quan
điểm ấy cũng đã tạo thành nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Vì thế, có
thể nói, với Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tạo nên một cuộc cách mạng
trong triết học.r

(*) Tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
(**) Có lẽ phải dịch là “sản xuất ra những tư liệu” chứ không phải là “sản xuất trong
những tư liệu”.
(1) C. Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.28 - 29, 39 – 40, 41.
(2) Sinh đẻ là một hoạt động của con người. Nó không phải là hoạt động tinh thần

mà là hoạt động vật chất. Nhưng nó có phải là hoạt động thực tiễn hay không? Vấn
đề này vẫn chưa được giải thích rõ ràng.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr. 9.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.42.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.29.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.55.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.30.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.37.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.57.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.37 –38.
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.42.
(12) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.30, 43.
(13) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.107.

(14) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.66 - 67.
(15) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.68.
(16) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.90.

"HỆ TƯ TƯỞNG Đ
ỨC” TRONG SỰ TIẾN TRIỂN QUAN NIỆM CỦA
C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ TÔN GIÁO




NGUYỄN QUANG HƯNG (*)
Để làm rõ giá trị lịch sử của “Hệ tư tưởng Đức“ trong sự tiến triển quan niệm của
C.Mác và Ph.Ăngghen về tôn giáo, trước hết, tác giả đã chỉ ra và phân tích bối
cảnh lịch sử hình thành quan niệm của các ông về tôn giáo. Tiếp đó, tác giả đã
luận giải những luận điểm chủ yếu của các ông về tôn giáo trong “Hệ tư tưởng
Đức“ để qua đó, khẳng định đây là tác phẩm đánh dấu bước đột phá trong quan
niệm của các ông về tôn giáo khi coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội bị chi
phối bởi cơ sở kinh tế và điều kiện xã hội, mang tính lịch sử –cụ thể và do vậy, khi

nghiên cứu quan niệm của các ông về tôn giáo, không nên tuyệt đối hoá, mà cần
có quan điểm lịch sử – cụ thể.

Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã xuất hiện không ít công trình nghiên
cứu quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và vai trò
của nó đối với chính sách tôn giáo của nhà nước ta(**). Tuy vậy, vì nhiều lý do
khách quan và chủ quan, các công trình nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này
chưa nhiều. Vấn đề có sự khác biệt hay không trong quan niệm về tôn giáo của
C.Mác, Ph.Ăngghen thời trẻ và sau này hầu như chưa được giới nghiên cứu quan
tâm. Phân tích quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về tôn giáo trong Hệ tư

tưởng Đức và một số tác phẩm trước Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, đồng thời
chỉ ra những bước tiến triển trong quan niệm của hai ông về tôn giáo là chủ đề của
bài viết này.
I. Bối cảnh lịch sử hình thành quan niệm C.Mác và Ph.Ăngghen về tôn giáo
Theo chúng tôi, khi phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới quan niệm về tôn giáo
của C.Mác và Ph.Ăngghen, cần nhấn mạnh hai điểm sau:
Thứ nhất, đó là hoàn cảnh chính trị - xã hội ở Đức và châu Âu sau Cách mạng tư
sản Pháp 1789 - 1794. Đương thời, Ph.Ăngghen từng ví triết học cổ điển Đức là lý
luận của người Đức về Cách mạng tư sản Pháp(1). Thực tế, cả triết học Mác cũng
chịu ảnh hưởng lớn của cuộc Cách mạng này. Nước Pháp và châu Âu nói chung,
sau Cách mạng tư sản Pháp đã xuất hiện khuynh hướng tách nhà nước khỏi giáo
hội, thậm chí có cả những khuynh hướng bài Công giáo. Không chỉ Công giáo, mà
cả Kitô giáo nói chung không còn được coi là quốc giáo ở nhiều nước. Giáo
hội tuy có ảnh hưởng lớn trong nhiều lĩnh vực xã hội, văn hoá, tâm thức
công chúng, nhưng phạm vi quyền năng đã bị thu hẹp lại trong một số lĩnh vực
chính trị - xã hội ở nhiều nước châu Âu. Ở Đức, khuynh hướng bài Kitô giáo trước
Mác đã có ở L.Phoiơbắc và cùng thời với C.Mác, Ph.Ăngghen là trường hợp của
Ô.Bixmác và O.Đuyrinh.
Ở đây, cũng cần lưu ý rằng, nước Đức là cái nôi diễn ra các cuộc cải cách tôn giáo
mà M.Luthe (1483 - 1546) là người khởi xướng khi ông kiên quyết đoạn tuyệt với
Giáo hoàng và Tòa thánh Rôma, thành lập đạo Tin lành. Cả C.Mác lẫn

Ph.Ăngghen đều sinh ra, sống và hoạt động ở miền Bắc nước Đức, nơi mà phong
trào Luthe giáo diễn ra rầm rộ nhất(2). Từ nửa cuối thế kỷ XIX, nước Đức đã được
Ốtto Bixmác (1815 - 1898) thống nhất. Và, như trên đã nói, Bixmac là nhân vật
không mấy thiện cảm với tôn giáo, thậm chí có thời kỳ còn chủ trương dùng bạo
lực để trấn áp giới tăng lữ và giáo hội.
Trong cuộc đời mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi nhiều nơi. Ngoài Đức, hai ông
chủ yếu sống và hoạt động ở Pháp, nhất là ở Anh. Ở Pháp, khuynh hướng bài Giáo
hội sau Cách mạng 1789 - 1794 đã diễn ra một cách quyết liệt. Còn ở Anh, nơi mà

số đông dân chúng theo Anh giáo, đã tỏ rõ sự mặc cảm với Công giáo(3). Một số
hoạt động tôn giáo - chính trị thiếu nhân đạo của Công giáo trước thế kỷ XX, như
các cuộc thập tự chinh, toà án dị giáo, liệt kê các sách khoa học vào dạng "sách
cấm" của Giáo hội từ thời trung cổ, giết hại hoặc cầm tù nhiều nhà khoa học đấu
tranh đòi tự do tư tưởng (Brunô, Galilê, v.v.) dễ làm cho các nhà tư tưởng nhân
đạo như C.Mác và Ph.Ăngghen mặc cảm(4).
Thứ hai, đó là sự phân hoá về mặt tư tưởng ở châu Âu và những yếu tố làm cho
C.Mác và Ph.Ăngghen ngả sang chủ nghĩa duy vật và vô thần. Năm 1837, C.Mác
theo học luật ở Đại học Béclin, nơi mà Hêghen (1770 - 1831) từng giảng dạy triết
học và học thuyết của ông được tôn vinh. Từ môi trường này, có thời cả
L.Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen đều tham gia phái Hêghen trẻ. Song, trong số
những người chịu ảnh hưởng của Hêghen, phái Hêghen già hoàn toàn trung thành
với các quan niệm của Hêghen, tán dương sự thống trị của “tinh thần tuyệt đối”
trong thế giới hiện thực. Phái Hêghen trẻ ít cực đoan hơn; họ thừa nhận sự thống
trị của tôn giáo, của “tinh thần tuyệt đối”, nhưng lại coi sự thống trị của chúng là
bất hợp pháp(5).
Chúng ta đều biết đến hai sự kiện đã khiến C.Mác và Ph.Ăngghen ngả sang lập
trường duy vật. Đó là: vào đầu năm 1839, C.Mác đã nghiên cứu triết học Hy Lạp
và hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài "Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của
Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya" (năm 1841). Ông đánh giá cao học
thuyết của hai nhà triết học này; thậm chí, vào năm 1839, ông còn có dự định viết
riêng một tác phẩm về triết học Êpiquya, triết học của phái Khắc kỷ và phái hoài
nghi luận(6). Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá cao các

nhà duy vật, bênh vực quan niệm của họ trước sự phê phán của nhà thần học
M.Stiếcnơ (1806 - 1856) - người theo phái Hêghen trẻ. Các ông cho rằng,
“Êpiquya là một nhà khai sáng cấp tiến thực sự của thời cổ, ông công khai công
kích tôn giáo thời cổ, và chủ nghĩa vô thần của người La Mã - trong chừng mực nó
tồn tại ở họ – cũng bắt nguồn từ ông”(7).
Tiếp đó là tư tưởng bài Kitô giáo của một số nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII,

trong đó phải kể tới Đ.Điđơrô (1713 - 1784). Theo Ph.Ăngghen, "những vĩ nhân ở
Pháp … rất cách mạng. Họ không thừa nhận một thứ uy quyền nào cả. Tôn giáo,
quan niệm về tự nhiên, xã hội, tổ chức nhà nước, tất cả đều được đem ra phê phán
hết sức nghiêm khắc"(8). Sau này, ông còn thừa nhận rằng, "xét hình thức lý luận
của nó thì chủ nghĩa xã hội hiện đại (học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ
nghĩa xã hội – T.G) lúc đầu xuất hiện như một sự phát triển tiếp tục và dường như
triệt để hơn những nguyên lý mà các nhà triết học Khai sáng vĩ đại Pháp hồi thế kỷ
XVIII đã nêu lên"(9). Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chịu
ảnh hưởng của quan niệm của các nhà Khai sáng Pháp cho rằng chủ nghĩa duy tâm
và tôn giáo thống trị là do người ta còn thiếu hiểu biết và do vậy, chỉ cần tăng
cường giáo dục, nâng cao dân trí cũng có thể xoá bỏ được chủ nghĩa duy tâm và
tôn giáo. Các ông viết: “Tất cả những nhà duy tâm, cả về triết học lẫn tôn giáo, cả
cũ lẫn mới, đều tin vào linh cảm, khải thị, chúa cứu thế, người sáng tạo kỳ diệu; sự
tín ngưỡng ấy mang hình thức thô sơ, tôn giáo hay hình thức văn minh, triết học,
thì điều đó chỉ tuỳ thuộc vào trình độ giáo dục của họ”(10).
Sự kiện tiếp theo là, vào năm 1841, L.Phoiơbắc (1804 - 1872) đã cho xuất bản tác
phẩm Bản chất của đạo Cơ đốc. C.Mác và Ph.Ăngghen chịu ảnh hưởng sâu sắc
những quan niệm duy vật của L.Phoiơbắc: “không phải chúa Trời sáng tạo ra con
người, mà chính con người sáng tạo ra chúa Trời”. Theo nhà duy vật Đức, “con
người đang khách quan hóa bản chất của mình và biến mình thành đối tượng của
cái bản chất đã bị khách quan hóa này – và đây chính là bí mật của tôn giáo”(11).
Luận điểm của L.Phoiơbắc - “bản chất của thần thánh không là cái gì khác ngoài
bản chất của con người bị khách quan hóa, tách biệt khỏi con người cá thể, nghĩa
là tách biệt khỏi con người hiện thực bằng xương bằng thịt”(12) - đã trở thành “sợi
chỉ đỏ” trong quan niệm của C.Mác và Ph. Ănghen về tôn giáo. C.Mác đã bày tỏ

sự ủng hộ Phoiơbắc, thể hiện một tình cảm bái phục nhà duy vật này trong cuộc
tranh luận giữa ông với nhà thần học, nhà triết học theo phái Hêghen trẻ -
Đ.Stơrauxơ (1808 - 1874) năm 1842. Sau đó, C.Mác đoạn tuyệt với nhóm Béclin
trong phái Hêghen trẻ.

II. Sự tiến triển trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về tôn giáo
C.Mác và Ph.Ăngghen không có tác phẩm chuyên bàn về tôn giáo, nhưng vấn đề
tôn giáo đã được các ông đề cập ngay trong những tác phẩm đầu tay. Tiếp thu
quan niệm duy vật của Phoiơbắc - “Chúa trời chẳng qua chỉ là cái bản chất chủ
quan của con người đã bị tách biệttheo cách riêng của mình và do vậy, những hành
động cao đẹp của con người hoá ra lại không phải xuất phát từ con người, mà từ
Chúa trời”(13), nhưng đi xa hơn Phoiơbắc, C.Mác đã nhận thấy mối quan hệ giữa
tôn giáo và các thế lực chính trị - xã hội. Trong Về vấn đề Do Thái(1843), C.Mác
đã phê phán mối quan hệ giữa nhà nước và Giáo hội ở châu Âu. Theo ông, “cái gọi
là nhà nước Cơ đốc giáo là một nhà nướckhông hoàn bị, và đạo Cơ đốc là sự bù
đắp và thần thánh hoá sự không hoàn bị đó… Còn nhà nước dân chủ, một nhà
nước thật sự, thì không cần đến tôn giáo để bù đắp về mặt chính trị cho mình"(14).
Trong khi Brunô Bauơ - người không tán thành phân biệt người Đức gốc Do Thái
theo đạo Do thái với người Đức gốc Đức theo đạo Kitô, đòi giải phóng người Do
Thái khỏi đạo Kitô, và tách rời những vấn đề tôn giáo khỏi những vấn đề chính trị,
thì C.Mác lại khẳng định sự gắn kết giữa giải phóng tôn giáo và giải phóng chính
trị. Ông đặt vấn đề xoá bỏ chế độ tư hữu, xoá bỏ chế độ người bóc lột người cùng
với tất cả những gì là sản phẩm, là tàn dư của chế độ đó, trong đó có tôn giáo,
nhằm xây dựng một nhà nước hoàn toàn thế tục(15).
Trong Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu (1843),
C.Mác còn khẳng định rằng “nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo Tôn
giáo là lý luận chung của thế giới ấy, là cương yếu bách khoa của nó, là lôgíc dưới
hình thức phổ cập của nó“(16). Ở đây, C.Mác đề xuất tư tưởng xoá bỏ tôn giáo và
coi việc xoá bỏ tôn giáo là “xoá bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu
thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân… Do đó, nhiệm vụ của lịch sử - sau khi
cái chân lý của thế giới bên kia đã mất đi - là xác lập chân lý của thế giới bên
này"(17). Từ lập trường duy vật và vô thần, C.Mác còn khẳng định: "Con người

sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người… Tôn giáo
là thuốc phiện của nhân dân"(18).

Trong Tình cảnh nước Anh (1844), Ph.Ăngghen viết: "Chúng ta muốn xoá bỏ tất
cả những gì tự xưng là siêu nhiên và siêu nhân… Chính vì vậy mà chúng ta vĩnh
viễn tuyên chiến với tôn giáo… Chúng ta cho rằng lịch sử không phải là sự mặc
khải của "Thượng đế", mà là sự mặc khải của con người… Ngược lại, cái gì càng
"mang tính chất Thượng đế bao nhiêu", tức là càng không có tính chất con người
bao nhiêu, thì chúng ta càng không thể khâm phục nó bấy nhiêu"(19). Trong Bản
thảo kinh tế - triết học năm 1844, khi nói về mối quan hệ giữa chủ nghĩa cộng sản
và chủ nghĩa vô thần, C.Mác cho rằng, "chủ nghĩa cộng sản bắt đầu ngay lập tức từ
chủ nghĩa vô thần (Ôoen), còn chủ nghĩa vô thần trong những thời kỳ đầu thì hoàn
toàn chưa phải là chủ nghĩa cộng sản"(20).
Sự không thể khoan nhượng của chủ nghĩa cộng sản với tôn giáo còn được C.Mác
và Ph.Ăngghen tiếp tục trong Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846). Bênh vực chủ nghĩa
duy vật của Phoiơbắc trước sự phê phán của các nhà duy tâm Đức theo phái
Hêghen trẻ, các ông cho rằng, “trong tôn giáo, người ta biến thế giới kinh nghiệm
của mình thành một cái gì đó chỉ có trong tư tưởng, trong tưởng tượng đối lập với
họ như một cái gì đó xa lạ. Để giải thích điều đó, không thể lại dùng những khái
niệm khác, không thể lại dùng “tự ý thức“, hoặc những cái nhảm nhí tương tự như
thế được, mà phải xuất phát từ toàn bộ phương thức sản xuất và giao tiếp hiện
đang tồn tại“(21).
Đối tượng phê phán chủ yếu của C.Mác và Ph.Ăngghen là Kitô giáo. Hai ông
không chỉ phê phán tôn giáo này về phương diện chính trị – xã hội, mà còn phê
phán cả đức tin Kitô giáo. Khi phê phán các quan niệm duy tâm về lịch sử của nhà
Hêghen trẻ Xăngsô, các ông còn đề cập tới cả Kinh thánh - nền tảng của đức tin
Kitô giáo. Các ông cho rằng, “trong Tân ước, chúng ta sẽ lại gặp cũng chính cái
đạo đức giả thấm đầy trong Cựu ước. Hệt như trong Cựu ước, những tài liệu lịch
sử chỉ được dùng làm tên gọi cho một số phạm trù giản đơn, ở đây trong Tân ước
cũng vậy, tất cả những quan hệ thế tục chỉ là những điều ngụy trang, những tên gọi
khác của cái nội dung nghèo nàn mà chúng ta đã cóp nhặt lại được trong “Hiện
tượng học“ và “Lôgíc““(22). Lần đầu tiên, trong Hệ tư tưởng Đức, với quan niệm


duy vật về lịch sử, các ông đã coi tôn giáo cũng như khoa học, nghệ thuật, chính
trị, pháp quyền, v.v. là những dạng hình thái ý thức xã hội và do vậy, bị chi phối
bởi các điều kiện kinh tế - xã hội và trong xã hội có giai cấp, chúng đều mang tính
giai cấp. Đây là đặc trưng phân biệt hai ông với nhiều nhà tư tưởng, nhà khoa học
khác trong phương pháp tiếp cận khi nghiên cứu bản chất tôn giáo(23). Dưới nhãn
quan của các ông, cũng như các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII, tôn giáo nói
chung, Kitô giáo nói riêng là hình thái ý thức xã hội có vai trò tiêu cực, cản trở sự
phát triển xã hội. Khẳng định điều này, các ông viết: “Đạo Cơ Đốc không đi quá
những thuyết giáo đạo đức trống rỗng không mang lại hiệu quả gì trên thực
tế“(24).
Như vậy, có thể nói, trong Hệ tư tưởng Đức với quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm chín muồi về tôn giáo. Quan niệm này
tương đối nhất quán với quan niệm sau này của các ông về tôn giáo ở bốn điểm
sau: Thứ nhất, "tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu
óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày
của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức
những lực lượng siêu trần thế"(25). Thứ hai, tôn giáo không tồn tại vĩnh viễn, mà
là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử khi mà con người còn bị chế ước bởi
những điều kiện tự nhiên và xã hội, như thiên tai, chiến tranh, đói nghèo, v.v Thứ
ba, tôn giáo thuộc về kiến trúc thượng tầng và do vậy, bị quy định bởi các điều
kiện kinh tế và cơ sở hạ tầng của xã hội. Thứ tư, tôn giáo mang tính giai cấp, các
giai cấp thống trị thường sử dụng tôn giáo để mê hoặc quần chúng đấu tranh chống
lại áp bức và bất công xã hội nhằm bảo vệ sự thống trị của chúng và do vậy, vấn
đề tôn giáo gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản vì một chế độ xã hội
mới.
Tuy nhiên, trong Hệ tư tưởng Đức nói riêng, trong các tác phẩm viết trước Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản nói chung, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đề cập tới các
biện pháp mà những người cộng sản cần thực hiện để xoá bỏ tôn giáo. Hai ông
mới chỉ đề cập tới những vấn đề mang tính nguyên tắc, không có sự dung hợp giữa
chủ nghĩa cộng sản và tôn giáo. Ph.Ăngghen chủ trương thay thế nền đạo đức Kitô

giáo bằng đạo đức cộng sản chủ nghĩa(26). Khi phê phán một nhóm các nhà cánh

tả Pháp cổ vũ cho cái công thức "le Christianisme est le Communisme", ông còn
khẳng định rằng, giữa chủ nghĩa cộng sản và Kitô giáo, ngoài một số tương đồng
trong các quan niệm về nhân đạo, về cơ bản là đối lập nhau. Ông viết: "Nếu như
có một vài đoạn trong Kinh thánh có thể được giải thích có lợi cho chủ nghĩa cộng
sản, thì toàn bộ tinh thần của đạo lý Kinh thánh vẫn hoàn toàn đối địch với chủ
nghĩa cộng sản"(27).
Chỉ từ sau năm 1850, trong bối cảnh lịch sử nước Đức và châu Âu sau Cách mạng
Pháp 1848 - 1850, với thực tiễn của phong trào cộng sản và công nhân các nước
châu Âu, C.Mác và Ph.Ăngghen mới đề xuất sách lược mang tính mềm dẻo hơn
trong chủ trương xoá bỏ tôn giáo. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa các ông thời
trẻ với giai đoạn chín muồi trong sách lược đối với tôn giáo, khi những người cộng
sản cần có một sách lược mềm dẻo, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của cuộc đấu
tranh giai cấp của mình. Trong Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen còn phê phán lập
trường quá tả của E.Đuyrinh trong vấn đề tôn giáo. Thực tế là các biện pháp bạo lực
của Bixmác đối với các tôn giáo ở Đức đã dẫn đến những hệ quả tai hại cho chính
chính quyền Bixmác, khiến ông ta từ chỗ cứng rắn đến chỗ buộc phải khoan nhượng
đối với giới tăng lữ (một minh chứng điển hình là không thể dùng bạo lực để xoá bỏ
tôn giáo).
Từ sự phân tích trên, chúng tôi tạm đưa ra mấy nhận xét sau:
1. Hệ tư tưởng Đức có thể coi là tác phẩm đánh dấu bước đột phá trong quan niệm
của C.Mác và Ph.Ăngghen về tôn giáo, khẳng định tôn giáo là một hình thái ý thức
xã hội, bị chi phối bởi các cơ sở kinh tế và điều kiện xã hội. Nhưng, khác với các
hình thái ý thức xã hội khác, như khoa học, nghệ thuật, v.v., tôn giáo nói chung
mang tính tiêu cực, là sản phẩm của xã hội có giai cấp và do vậy, vấn đề tôn giáo
không tách rời cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai. Đây là điểm phân biệt các ông
với những nhà duy vật trước đây, kể cả L.Phoiơbắc, trong quan niệm về tôn giáo.
2. Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về tôn giáo là một quá trình tiến triển về
tư tưởng của hai ông. Không có sự khác biệt nhiều giữa hai giai đoạn trước và

sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong lập trường không khoan nhượng đối với
tôn giáo về nguyên tắc. Nhưng, do bối cảnh lịch sử châu Âu nửa sau thế kỷ XIX và
sự trưởng thành về mặt tư tưởng, các quan niệm mang tính sách lược của các ông về

×