Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.26 KB, 12 trang )

BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

TIỂU LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài 2:
Làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và
chiến lược trồng người. Theo tiêu chí của con người Việt Nam mới,
anh/chị cần phải có những phẩm chất và năng lực gì đáp ứng yêu
cầu xây dựng, bảo vệ đất nước và hội nhập quốc tế?

1


DẪN LUẬN
Mục tiêu độc lập, dân tộc và CNXH mà Hồ Chí Minh xác định cho cách mạng Việt Nam
là nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để đi đến giải phóng con người. Con người
vừa là chủ thể của cách mạng, vừa là mục tiêu cao nhất của cách mạng, đó là sợi chỉ đỏ
xun suốt tồn bộ cuộc đời cách mạng của Người.
Mặc dù Hồ Chí Minh khơng có tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người có một vị trí đặc biệt, được coi trọng như
mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng, nó thấm đượm và thường trực trong
tồn bộ cuộc đời hoạt động của Người, nó được tỏa sáng trong từng việc làm, cử chỉ, hành
vi ân cần, tôn trọng, quan tâm đến từng người và mọi người.
NỘI DUNG
Chương 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
1.1. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng.


Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời khơng q bằng nhân dân. trong thế giới khơng gì
mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân". Vì vậy, 'Vơ luận việc gì, đều do người làm ra,
và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". Người cho rằng "việc dễ mấy khơng có nhân
dân cũng chịu, việc khó mẩy có dân liệu cũng xong". Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá
trị vật chất và tinh thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tổt lắm. Người phân tích
phẩm chất tốt đẹp của dân từ lịng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng,
không sợ gian khố, tù đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm bọc, bảo
vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.
Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn,
mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi khơng ra"'.
Đặc biệt là lịng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí
Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc
ta, với lịng u nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta
có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. "Lịng u nước và sự đồn kết
của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi"
1.2.

Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng: phải coi trọng, chăm
sóc, phát huy nhân tố con người

Vì sống gần dân, với dân, giữa lịng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ Chí Minh
thấy rõ u cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội. Nhân
dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911, giữa lúc đất nước đang bị
xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Người ra đi với ý chí "quyết giải phóng gơng
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo

2



mặc, ai cũng được cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của Người
cũng là của Đảng và Chính phủ là "làm sao cho nước học hành".
Thứ nữa, theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có ăn, mặc, ở, đi lại...
Nhưng đời sống con người không chỉ dừng lại ở vật chất, mà cịn những nhu cầu tinh thần,
văn hóa là những đặc trưng của con người. Tất cả nhu cầu về vật chất và tinh thần đó được
đáp ứng hay khơng, lại hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào hình thái kinh tế - xã hội
mà con người đang sống. Người nói: “Người ta ai cũng cần có ăn, có mặc...” vì đây là
những điều thiết yếu để tồn tại. Người vẫn nhớ và thường nhắc lại “Dân vi thực vi thiên”
(dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là khơng có trời). Lại có câu “có thực mới vực được
đạo” (khơng có ăn thì chẳng làm được việc gì cả). Từ đó ta thấy việc quan tâm đến cái ăn,
cái mặc, cái ở của nhân dân luôn luôn đặt lên hàng đầu trong quan tâm của Hồ Chí Minh.
Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng khổ
và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thơng kiểu tơn giáo; ngược lại, người có
niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của chính
bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu
tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con người là mục
tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nơ lệ, lầm than
thì mục tiêu trước hết trên hết là giải phóng dân tộc. giành độc lập dân tộc. Sau khi chính
quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu
tiên hơn, bởi vì, "nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho
dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đến Di chúc, Người viết:
"Đầu tiên là công việc đối với con người".
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
lãnh đạo nhân dân, lãnh đạo đất nước..., Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm đối với đời
sống của nhân dân. Đó là những việc cần phải làm ngay “1- Làm cho dân có ăn, 2- Làm cho
dân có mặc, 3- Làm cho dân có chỗ ở, 4- Làm cho dân có học hành, cái mục đích chúng ta
đi đến 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho
tự do, độc lập”(5). Người căn dặn: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm lo đến đời sống của nhân dân”. Nếu dân đói, dân rét, dân dốt là Đảng có lỗi. Trách

nhiệm đối với đời sống của nhân dân hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào giai tầng
lãnh đạo xã hội. Các mối quan hệ xã hội không phải nhất thành bất biến, cho nên bản chất
của con người cũng biến đổi cùng với biến đổi của các quan hệ xã hội. Quan điểm duy tâm
siêu hình cho rằng: “Bản chất hay bản tính của con người là bất biến”. C.Mác đã bác bỏ:
“Toàn bộ lịch sử chỉ là sự biến đổi liên tục của bản tính con người” cho nên cần phải nghiên
cứu “bản chất đó thay đổi như thế nào trong mỗi thời đại lịch sử nhất định”.
Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích
trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với hoạt
động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân,
dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.

3


1.3.

Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của
quần chúng

Lòng tin của Hồ Chí Minh vào nhân dân là do thấm nhuần sâu sắc truyền thống lịch sử
dân tộc về phẩm chất của con người Việt Nam: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó
là truyền thống q báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Trong các yếu tố đảm bảo
cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, theo Hồ Chí Minh yếu tố hàng đầu là lực lượng
cách mạng, là quần chúng nhân dân, cơng nhân, nơng dân, trí thức... được tổ chức thành một
khối thống nhất, thành lực lượng cách mạng hùng hậu xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tháng
8-1961, nói chuyện với Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp toàn miền Bắc nhằm
quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Người đã đưa ra một luận điểm

quan trọng và khẳng định: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người
XHCN”. Đối với chúng ta luận điểm này đã trở thành luận điểm kinh điển khi xây dựng
CNXH, phải có con người XHCN. Con người mới XHCN là con người phát triển toàn diện.
Xây dựng CNXH là một cuộc cách mạng lâu dài, phức tạp, sâu sắc và triệt để nhất trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa... nên nó địi hỏi con người mới XHCN phải là
những con người đủ phẩm chất, năng lực về trí tuệ, đạo đức, sức khỏe, giác ngộ lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa, quyết tâm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - XHCN.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: "Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", "có dân thì có tất cả"...
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ
lực lượng: nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo
nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân
hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo
nên sức mạnh vơ địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng
chục triệu quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh tin ở dân cịn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là nguời cộng sản thì
phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. Người
nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân
dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân: không hiểu biết nhân dân; không yêu thương
nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm
- bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là "hỏng việc".
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể
đồng bào, song trước hết là ở giai cấp cơng nhân và nơng dân. Điều này có ý nghĩa to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh lấy cơng - nơng - trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng

4



Tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại mới,đó
là giai cấp cơng nhân. Chỉ có giai cấp cơng nhân với những đặc điểm chung và riêng mới
lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy giai cấp cơng nhân chỉ có
liên minh với giai cấp nơng dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những. con người được
giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được ni dưỡng trên
nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàne ngàn năm của dân tộc Việt Nam... Chính trị, văn
hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo.
Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Chương 2. Quan điểm của Hồ Chính Minh về chiến lược trồng người
2.1. "Trồng người" là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng.
Xuất phát từ quan niệm coi con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định đối với sự
thành bại của cách mạng, là mục tiêu và động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh hết sức coi
trọng chiến lược con người. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển,
nhằm phát huy cao nhất mọi tiềm năng của con người. Chiến lược “trồng người” vừa mang
tính thường xuyên, cấp bách, vừa mang tính cơ bản lâu dài, phải làm công phu, tỉ mĩ như
người làm vườn vậy.
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người nói đến
“lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm
vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả những điều này
phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người: tất cả vì
con nguời, do con người.
Như vậy con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm
trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong

chiến lược giáo dục và đào tạo theo nghĩa hẹp.
2.2.

Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa

Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây
trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Điều này cần đươc hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có
những phẩmchất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn
xã hội. Công việc này là một q trình lâu dài, khơng ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc
về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người.

5


Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và "con người xã hội
chủ nghĩa".
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt
chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và
phương Đơng). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa:
có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội,
thiên nhiên...); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lịng nhân ái, vị tha, độ lượng.
2.3.

Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội

Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào

tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương
lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
Nội dung và phương pháp giáo dục phải tồn diện về cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo
đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức,
tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng
phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm… có như vậy mới
có thể “học để làm người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, khơng thể nóng vội “một sớm một chiều”,
khơng phải làm một lúc là xong cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận thức và
giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người,
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học khơng bao
giờ cùng, cịn sống cịn phải học”.
Trong sự nghiệp trồng người, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh đề cao vai trò của
giáo dục - đào tạo, coi đó là một chiến lược lâu dài và Người khẳng định: Tiền đồ của dân
tộc ta sẽ ra sao một phần quan trọng là do sự nghiệp giáo dục trực tiếp quyết định. Trong thư
gửi ngành giáo dục đào tạo ngày 15-10-1968, Người nhấn mạnh "Giáo dục nhằm đào tạo
những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành,
các cấp Đảng ủy và chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp
này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước
phát triển mới".
Vận dụng tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh địi hỏi mỗi người giảng viên
lý luận chính trị chúng ta cần phải góp phần làm tốt hơn nữa cơng việc “trồng người”, công
tác đào tạo bồi dưỡng phải đạt cho được mục tiêu giáo dục toàn diện để người học sau khi
đào tạo đủ sức phục vụ nhân dân. Xây dựng được những con người và thế hệ có đạo đức
trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức, có tư
duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong cơng nghiệp, có tính tổ chức và kỷ
luật, có sức khoẻ - là những người kế thừa xây dựng CNXH vừa "hồng" vừa "chuyên" như
lời căn dặn của Bác.
6



Chương 3: Những phẩm chất và năng lực gì đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ đất nước và
hội nhập quốc tế
Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng con người mới tồn diện có đủ “đức” đủ “tài” địi
hỏi mỗi giảng viên lý luận chính trị cần phải có tấm lịng u nghề, u người một cách thực
sự, cùng với lương tâm nghề nghiệp để đầu tư trí tuệ, công sức lên mỗi trang giáo án, bài
giảng. Cần phải củng cố niềm tin của người học vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ và
hiện thực ngày càng tốt đẹp của công cuộc đổi mới đất nước. Khi họ đã có niềm tin vững
chắc thì sẽ quyết định khuynh hướng, mục đích, hiệu quả hoạt động của mình và sẽ hoạt
động hăng say, tích cực trong học tập, cơng tác, đóng góp thiết thực cho đất nước, xã hội.
Bên cạnh đó, phải tăng cường giáo dục cho họ tình cảm yêu nước nồng nàn. Yêu nước, tức
là yêu độc lập của đất nước; yêu chủ nghĩa xã hội; là phải làm giàu cho gia đình và đất
nước; phải trung với Đảng, với nước, hiếu với nhân dân. Trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường và giao lưu quốc tế hiện nay thì "trung" và "hiếu" phải được coi là giá trị nổi bật
để học viên không dễ sa vào cạm bẫy của kẻ thù, luyện rèn ý chí tự lực tự cường, say mê
trong học tập và cơng tác.
Để góp phần hình thành và củng cố lý tưởng sống đúng đắn cho người học, yêu cầu cấp
thiết đối với việc giảng dạy lý luận chính trị hiện nay là phải kết hợp giữa giáo dục đạo đức,
lý tưởng với giáo dục lý luận. Kết hợp giữa giáo dục những phẩm chất truyền thống như yêu
nước, lòng nhân ái, vị tha, trung hiếu, cần, kiệm,... với các giá trị đạo đức mới như chủ
động, sáng tạo, tự lập, tự chủ, vượt khó,... Quan tâm giáo dục ý thức cộng đồng, để mỗi cá
nhân hăng say phấn đấu trong lao động, học tập và khẳng định mình, gắn mình với cộng
đồng, với xã hội, nhằm giúp họ khẳng định bản thân và hòa nhập vào xã hội hiện đại. Muốn
vậy, mỗi một giảng viên cần phải tự vượt lên trên chính bản thân mình. Phải nỗ lực khơng
ngừng, thường xun trau dồi, nâng cao trình độ chun mơn, cập nhật tri thức và công
nghệ mới vào công việc nghiên cứu giảng dạy. Bên cạnh đó, mỗi giảng viên còn phải là tấm
gương sáng, tâm huyết với nghề với sự nghiệp đào tạo của mình. Đó là những cơng việc
thiết thực để làm theo tư tưởng nhân văn và chiến lược xây dựng con người của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.

3.1.

Những phẩm chất để xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện

Thứ nhất, tăng cường cơng tác tun truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên,
nhân dân về vị trí, vai trị của con người trong sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững đất
nước. Cổ vũ tinh thần yêu nước, thương người, tự hào, tơn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Thứ hai, đổi mới cơng tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị, khắc phục giáo điều, máy
móc, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tôn trọng đối thoại, phản biện xã hội, tăng tính thuyết
phục từ kết quả đổi mới đất nước, tạo sự nhất trí trong Đảng, đồng thuận xã hội về chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
xây dựng thế giới quan khoa học.
Thứ ba, tiếp tục rà soát, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý giải
phóng mọi tiềm năng xã hội chăm lo, phát triển con người. Đổi mới cơ chế và phương pháp

7


giáo dục nhân cách, tư tưởng, lý luận chính trị, đạo đức cách mạng phù hợp với từng đối
tượng, ngay từ cấp học mầm non.
Khẩn trương đúc kết và sớm ban hành hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Xây dựng lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, tuân thủ pháp
luật, bảo vệ môi trường, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, tương thân, tương ái,
quan tâm giúp đỡ người khác, tôn vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp, nhân văn.
Thứ tư, phổ cập rộng rãi các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các chương trình giáo dục văn
hóa, nghệ thuật truyền thống và hiện đại nhằm nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ, bồi
dưỡng tâm hồn, tình cảm nhân văn, tạo bản lĩnh và sức đề kháng giúp người dân chủ động
hội nhập quốc tế về văn hóa, bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Giáo dục thể
chất, đưa phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” lan tỏa sâu

rộng trong cuộc sống.
Thứ năm, phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi người, mỗi chủ thể văn hóa, phối hợp và
có giải pháp đồng bộ đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, nội dung trái thuần
phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến xây dựng con người.
Thứ sáu, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, các khuynh hướng sáng tác phản tiến
bộ, nhân văn, tha hóa con người trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật. Chủ động phát
hiện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ
cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ bảy, tập trung nghiên cứu làm rõ những mặt hạn chế của con người Việt Nam, có
giải pháp khắc phục. Từng bước khắc phục mâu thuẫn trong nhận thức, lối sống giữa các thế
hệ người Việt Nam, tạo sự kết nối, đồng thuận cao trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cụ thể, tập trung đẩy mạnh các hoạt động giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống trong gia
đình, nhà trường và xã hội với các đặc tính "yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trọng đạo lý,
trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo". Tăng cường giáo dục nâng cao ý thức, ứng xử và
hành vi chuẩn mực văn hóa trong nhân dân, đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
Phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc định hướng thị hiếu, thẩm mỹ, bồi
dưỡng tâm hồn, tình cảm, trí tuệ, kỹ năng sống, hướng tới sự hoàn thiện nhân cách của mỗi
cá nhân và xã hội; xây dựng và phát huy lối sống có ý thức tự chủ, tự giác, ý thức tơn trọng
và chấp hành pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, ý thức bảo vệ môi
trường; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tơn
vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
3.2.

Phát triển văn hóa con người Việt Nam

Xác định rõ xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ


8


vững chắc Tổ quốc. Chú trọng tính đặc thù của văn hóa, vừa bảo đảm để văn hóa, văn học,
nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng
tạo của cá nhân. Khắc phục tình trạng bng lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự
do sáng tạo.
Khẩn trương hồn thiện việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt
Nam. Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người Việt
Nam có thế giới quan khoa học, có nhân cách, lối sống đẹp "yêu nước, nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo".
Tăng cường giáo dục thẩm mỹ, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng
xã hội cho các tầng lớp nhân dân. Xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật, tôn trọng đạo lý
"uống nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", "tương thân tương ái". tôn vinh, nhân rộng các
giá trị tốt đẹp, nhân văn.
Chấn chỉnh việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo để truyền bá duy tâm thần bí, mê
tín dị đoan, gây mất an ninh trật tự. Đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, truyền
bá tư tưởng sai trái, lối sống thực dụng, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Đẩy mạnh xây dựng môi trường và đời sống văn hóa lành mạnh. Có cơ chế phối hợp chặt
chẽ hơn giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường. Thực hiện
tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh. Huy động nguồn
lực, góp phần thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, các tầng lớp
trong xã hội.
Tăng cường xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Thực hiện có hiệu quả cơng tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Coi trọng xây dựng văn hóa
từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước.
Đẩy mạnh việc "học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; thực
hiện nghiêm các quy định về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, nhất là với cán bộ lãnh
đạo, đội ngũ những người làm công tác giáo dục, văn nghệ sĩ và cán bộ lãnh đạo, quản lý
văn hóa, lãnh đạo doanh nghiệp và những người có tầm ảnh hưởng quan trọng trong cộng

đồng và xã hội.
Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các biểu hiện suy thóai về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", hành vi tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực. Đẩy mạnh việc triển khai xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tinh thần khởi nghiệp,
xây dựng đội ngũ doanh nhân giỏi, kinh doanh đúng pháp luật, đóng góp có trách nhiệm cho
cộng đồng và xã hội.
Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa. Xử lý hài hoà giữa bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch
bền vững. Chú trọng phục hồi, bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ
mai một. Tạo điều kiện, khuyến khích sự tìm tịi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Đổi mới
phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật, nâng cao tính chuyên nghiệp. Đầu
tư nhiều hơn cho hoạt động nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Tập trung

9


thực hiện quy hoạch và quản lý báo chí tồn quốc. Phát huy vai trị của báo chí, nâng cao
hiệu quả hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên mơi trường mạng
Internet.
3.3.

Phát huy văn hóa giữ nước của con người Việt Nam

Tiếp tục tăng cường giáo dục, bồi đắp giá trị văn hóa giữ nước cho mọi tầng lớp nhân dân
nhằm nâng cao niềm vinh dự, tự hào và ý thức trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, trực tiếp tác động đến nhận thức, tình cảm,
thơi thúc mỗi cá nhân, cộng đồng thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với Tổ
quốc. Trong quá trình giáo dục, phải bám sát và giữ vững định hướng của Đảng, phối hợp
đồng bộ của các ngành, các cấp và mọi tầng lớp nhân dân; trong đó, cơ quan chủ trì cơng tác
tư tưởng văn hóa của Đảng ở các cấp là nịng cốt; các cơ quan báo chí, truyền thơng, văn

học, nghệ thuật,… là lực lượng tiên phong; mỗi cá nhân, gia đình, nhà trường và tổ chức
trong xã hội là cơ sở nền tảng bảo đảm cho những giá trị văn hóa nói chung, văn hóa giữ
nước nói riêng thường xuyên được giáo dục, tuyên truyền ngay từ mỗi gia đình, dịng tộc
đến nhà trường và xã hội. Từ đó, làm cho tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, thủy chung, đoàn
kết, gắn bó cộng đồng, ý thức tự lực tự cường, tự tôn dân tộc,… luôn thấm sâu vào đời sống,
hoạt động của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng và tồn xã hội, chuyển hóa thành hành
động thực tiễn, chung sức, đồng lòng.
Quán triệt và thực hiện tốt đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy vai trị của văn hóa giữ
nước hiện nay nằm trong chiến lược xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; gắn xây dựng, phát triển văn hóa với phát triển các lĩnh vực đời sống xã hội,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Đồng thời, xây dựng, rèn luyện giá trị
đạo đức mới, thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đấu tranh
phê phán, ngăn chặn, đẩy lùi quan điểm sai trái, tiêu cực, cái xấu, cái ác… núp dưới các
danh nghĩa khác nhau để lợi dụng lôi kéo, kích động, chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân tộc,
bảo vệ lợi ích quốc gia và đường lối cách mạng của Đảng ta trong giai đoạn hội nhập quốc
tế ngày càng sâu, rộng.
Thường xuyên củng cố, tăng cường khối đại đồn kết tồn dân tộc, tích cực kế thừa, phát
triển sáng tạo giá trị văn hóa giữ nước. Cụ thể hóa và tiến hành hiệu quả các quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đồn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng để
phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giải quyết hài hịa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã
hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đề cao tinh thần dân tộc,
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung và tơn trọng những giá trị văn hóa, phong
tục, tập quán của đồng bào các dân tộc anh em khơng trái với lợi ích chung của quốc gia,
dân tộc.


10


KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người là một hệ thống quan điểm chặt chẽ,
phong phú, hợp logic trong tiến trình phát triển tư tưởng của Người. Tư tưởng đó vừa thể
hiện tính khoa học, vừa mang tính cách mạng và là một nội dung quan trọng trong tồn bộ
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về con người và giải phóng con người.
Sự nghiệp đổi mới đã đi qua được hơn 25 năm, chúng ta đã giành được những thắng lợi to
lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, vị thế của đất nước không ngừng được tăng cao trên
trường quốc tế, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, tuy vậy tiềm lực của chúng ta
còn rất lớn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa
– hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế tri thức,để có một thế hệ tương lai đủ đức, đủ tài
gánh vác các trọng trách lớn lao của dân tộc, đưa Việt Nam “sánh vai với các cường quốc
năm châu”.
Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và truyền bá văn
hóa Việt Nam ra thế giới; tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài, các tổ
chức quốc tế tham gia phát triển văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam;
tăng cường các chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người
nước ngoài ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tăng cường giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống
chống giặc ngoại xâm của dân tộc; khai thác, vận dụng những kinh nghiệm phát huy sức
mạnh nhân tố chính trị tinh thần trong bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, kiên quyết khắc phục
những hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hóa xã hội và ngăn chặn có hiệu quả sự chống
phá của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, văn hóa để “văn hóa thực sự trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.

11



MỤC LỤC

DẪN LUẬN........................................................................................................................... 2
NỘI DUNG............................................................................................................................ 2
Chương 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của con người.....................................2
1.1. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng.2
1.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng: phải coi trọng, chăm
sóc, phát huy nhân tố con người......................................................................................2
1.3. Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của
quần chúng...................................................................................................................... 4
Chương 2. Quan điểm của Hồ Chính Minh về chiến lược trồng người...............................5
2.1.

"Trồng người" là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. 5

2.2. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa 6
2.3. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội........................................................................................6
Chương 3: Những phẩm chất và năng lực gì đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ đất nước
và hội nhập quốc tế.............................................................................................................7
3.1.

Những phẩm chất để xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện..............8

3.2.


Phát triển văn hóa con người Việt Nam.................................................................9

3.3.

Phát huy văn hóa giữ nước của con người Việt Nam...........................................11

KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 12
MỤC LỤC............................................................................................................................ 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................13

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Baochinhphu.vn
Tạp chí Tổ chức Nhà nước
Tạp chí Nhân dân cuối tuần

12



×