Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

giáo dục là quốc sách hàng đầu, hiền dữ đâu phải tính sẵn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.65 KB, 14 trang )

Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

TIỂU LUẬN
MÔN: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Sinh viên:
Mã số sinh viên:
Ngành:
Lớp tín chỉ:

Hà Nội - 2021
LỜI CẢM ƠN


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

Lời đầu tiên em xin trân thành cảm ơn giảng viên bộ môn đã giúp đỡ em
cũng như cả lớp hết sức tận tình truyền tải cho em những kiến thức q báu, bổ
ích trong q trình học tập cũng như đã luôn sẵn sàng giải quyết giúp đỡ những
thắc mắc đồng thời cho em những lời khuyên hữu ích để em có thể hồn thiện
tốt nhất bài tiểu luận này.
Qua học phần này em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức gắn với thực
tiễn được tích lũy từ những bài giảng trên lớp, đồng thời kết hợp và tổng hợp
được với những bài học đã học trước đây, từ đó giúp em có thêm sự hiểu biết để
tiếp thu các học phần về sau này cũng như chuẩn bị tích cực nhất cho cơng việc
chun ngành mà em hướng tới.
Cuối cùng, em xin chúc cô luôn vui vẻ, hạnh phúc và có sức khỏe thật tốt.
Em xin trân thành cảm ơn!



Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

MỤC LỤC


4

Câu 1: Em hãy cho biết tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại coi “ Giáo dục là quốc
sách hàng đầu”? Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu chúng ta cần làm gì?
I. Lý do Đảng Cộng sản Việt Nam coi “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”
Ở mỗi thời đại, giáo dục ln có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xã
hội. Trong giai đoạn hiện nay hơn bao giờ hết, giáo dục càng có ý nghĩa quyết định
khơng chỉ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội mà cả đối với công cuộc bảo vệ độc
lập, chủ quyền quốc gia. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều coi trọng giáo dục, trong
đó có Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước luôn coi
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Mặc dù nền kinh tế đất nước cịn nhiều khó khăn,
song Đảng, Nhà nước và tồn bộ hệ thống chính trị quyết tâm thực hiện tốt quan điểm
chỉ đạo trên và nỗ lực để xã hội hóa giáo dục, làm cho giáo dục trở thành “quốc sách
hàng đầu” như đã đề ra.
Để hiểu tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “giáo dục là quốc sách
hàng đầu”, trước tiên ta cần nhận thức rõ về quan điểm này. Giáo dục là q trình tác
động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa
học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình
thành nhân cách (lý tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách, hành vi,
thói quen ứng xử) cho họ thơng qua các hoạt động và giao lưu, Chính sách giáo dục là
chính sách do Đảng đặt ra nhằm điều chỉnh lĩnh vực giáo dục và thực hiện những mục
tiêu yêu cầu của giáo dục. Đảng ta khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu có
nghĩa xem giáo dục là chính sách trọng tâm có vai trị chủ chốt của quốc gia, giáo dục

luôn dành được sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt của Đảng, của Chính phủ, được
thể hiện qua hệ thống các chính sách, các biện pháp, phạm vi thực hiện và nguồn ngân
sách chi cho chính sách này.
Vậy tại sao giáo dục lại nhận được sự ưu tiên đặc biệt của toàn Đảng và được
xem là quốc sách hàng đầu của quốc gia? Là bởi những giá trị, vai trị to lớn mà nó
mang lại cho xã hội dưới đây:
Trước hết, giáo dục là điều kiện để phát triển kinh tế. Để xây dựng một nền
kinh tế vững mạnh, khơng ngừng tăng trưởng thì một quốc gia cần có năm yếu tố cơ
bản đó là: Con người, vốn, cơ cấu kinh tế, khoa học và cơng nghệ, thể chế chính trị và


5
sự quản lý của nhà nước. Trong đó yếu tố con người được xem là quan trọng nhất, chi
phối tới các yếu tố còn lại. Muốn phát huy nguồn lực con người để đáp ứng được nhu
cầu phát triển không ngừng của nền kinh tế đất nước thì phải đẩy mạnh sự nghiệp giáo
dục và đào tạo hiện nay.
Thứ hai, giáo dục góp phần bảm đảm tình hình chính trị của quốc gia, dân tộc.
Việc giáo dục đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động khơng những có trình độ
cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội mà cịn có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ
sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính q trình hội nhập
quốc tế và tồn cầu.
Thứ ba, giáo dục nâng cao dân trí cho người dân. Trong nền kinh tế tri thức
hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục, đồng thời là tài sản quý giá nhất của cá
nhân và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất được các quốc gia
thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc từ
tài nguyên, sức lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức
là cơ bản nhất. Giáo dục sẽ cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao góp phần phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Giáo dục - đào tạo nhằm phát rút ngắn thời gian cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam khẳng định giáo dục cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện phấn đấu để đến năm 2025 Việt Nam cơ
bản trở thành nước công nghiệp.

Cuối cùng, giáo dục góp phần bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động
có trình độ chun mơn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan
trọng phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri thức. Kinh tế
tri thức được hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là
yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng
cuộc sống. Tất cả các quốc gia phát triển đều có chiến lược phát triển giáo dục. Từ
những vai trị to lớn trên, có thể thấy Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “giáo dục là
quốc sách hàng đầu” là một tất yếu và đây là một quan điểm thực sự đúng đắn, cấp
thiết.
II. Phương hướng đưa giáo dục thực sự trở thành quốc sách hàng đầu
Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu của quốc gia, chúng ta cần thực hiện
những chủ trương, chính sách dưới đây:


6
Trước hết, Đảng và Nhà nước cần xác định giáo dục là động lực thúc đẩy và
một điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây
dựng và bảo vệ đất nước. Cần phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những mục
tiêu tiên quyết của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên
các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của
Nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân bằng
cách củng cố các trường cơng, khuyến khích mở các trường lớp dân lập; khuyến khích
mở rộng các loại hình giáo dục và đào tạo khơng chính quy để đa dạng hóa các loại
hình giáo dục; khuyến khích hoạt động tự học, bảo đảm cho mọi cơng dân trong khn
khổ pháp luật có quyền được học, được thi, được chọn trường, chọn thầy, chọn nghề,
được học tập ở trong nước và đi học ở nước ngoài. Đất nước cần thực hiện mở rộng
hợp lý quy mô đào tạo đại học, phát triển hệ cao học, đẩy mạnh đào tạo nghiên cứu
sinh.

Thứ ba, gắn chặt giáo dục với yêu cầu phát triển đất nước để phù hợp với xu thế
tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục xuyên suốt cho mọi người, xác định
việc học tập là việc làm suốt đời và đây là quyền lợi, trách nhiệm của mỗi công dân.
Bên cạnh đó, cần phải đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ,
nghiên cứu những vấn đề về khoa học giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát triển sự
nghiệp giáo dục. Chú trọng tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với sự
nghiệp giáo dục, quán triệt sâu sắc nghị quyết này trong Đảng, trong các ngành, các
cấp; xây dựng Đảng vững mạnh và bồi dưỡng lại cán bộ Đảng, cán bộ quản lý trong
ngành giáo dục.
Thứ tư, thực hiện đổi mới trong giáo dục. Trong đó, cần đổi mới phương pháp
dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học kết hợp với đổi mới quản lý giáo dục. Xác
định rõ quyền hạn, trách nhiệm quản lý giáo dục và đào tạo của Bộ Giáo dục và đào
tạo, của các bộ và các tỉnh, thành phố, các huyện, quận và cơ sở về các khâu: quy
hoạch, kế hoạch, tổ chức và cán bộ, tài chính, thanh tra và kiểm tra.
Cuối cùng, cần phải xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục chất
lượng. Thực hiện chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với giáo viên,


7
khuyến khích người giỏi làm nghề dạy học. Có chính sách ưu đãi đặc biệt về tiền
lương và phụ cấp đối với giáo viên dạy ở những nơi khó khăn thuộc vùng cao, vùng
sâu, hải đảo và một số vùng miền núi. Nhà nước có chính sách thu hút những học sinh
giỏi vào học trường sư phạm; tăng mức đầu tư và tăng cường chỉ đạo để tạo ra những
chuyển biến về chất ở các trường sư phạm.
Trên đây, ta đã hiểu được tầm quan trọng của giáo dục và vì sao Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Như chúng ta đã thấy, để
giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu không phải là việc làm dễ dàng mà cần có sự
đồng sức, đồng lịng của tồn Đảng, tồn dân ta. Cùng nhau thực hiện đúng những
chính sách, đường lối phát triển giáo dục của Đảng, đất nước sẽ sớm phát triển và sánh
vai với các cường quốc năm châu.

Tài liệu tham khảo
1. Hà Thị Mai (2013), giáo trình “Giáo dục học đại cương” – Trường đại học Đà Lạt
2. Nguyễn Thị Minh Trang (10/06/2021), “Quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng
đầu”

của

Đảng

Cộng

sản

Việt

Nam”.

Truy

cập

từ:

/>3. Đảng Cộng sản Việt Nam (04/11/2013), “Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Truy cập từ:
/>Câu 2: Bằng kiến thức giáo dục học em hãy phân tích và chứng minh hai câu thơ sau:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn; phần nhiều do giáo dục mà nên”. Giáo dục Việt Nam
cần làm gì để phát triển nhân cách học sinh?

I. Phân tích và chứng minh hai câu thơ của Bác Hồ
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ uyên bác, tài ba của đất nước Việt Nam. Sinh thời,
Bác Hồ luôn quan tâm tới công tác giáo dục đào tạo, xem đây là điều kiện tiên quyết
để phát triển đất nước. Giáo dục được Bác nhắc đến nhiều trong các tác phẩm thơ của


8
mình. Trong bài thơ “Nửa đêm” trích trong tập thơ “Nhật ký trong tù “ của Người, có
hai câu thơ như sau:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
Hai câu thơ trên là sự chiêm nghiệm của Bác về sự giáo dục. Trong câu “Hiền
dữ đâu phải tính sẵn”, Người phủ định quan điểm cho rằng, nhân cách của mỗi người
khơng phải là hồn tồn do bẩm sinh, khơng phải là “tính sẵn” mà nhân cách con
người được hình thành và hồn thiện qua sự giáo dục và qua mơi trường sống, “hiền
dữ” phải có được qua sự rèn luyện, phấn đấu học tập của mỗi người để có thể đạt
được. Nhân cách của con người có thể được hiểu là tồn bộ các thuộc tính tâm lý, tạo
nên giá trị và nét riêng duy nhất của mỗi con người, nói đến nhân cách là nói đến bộ
mặt tinh thần, đời sống tâm lý của mỗi cá nhân. Do vậy ở trẻ mới sinh thì chưa có
nhân cách, nhân cách chỉ được hình thành khi con người tham gia vào đời sống xã hội,
khi sự phát triển về mặt tâm lý và xã hội đến mức độ nhất định. Có thể nói nhân cách
là sản phẩm của xã hội và khi con người mất đi thì nhân cách vẫn cịn tồn tại.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và đứng trên lập trường của giáo
dục học, nhân cách được hình thành dưới sự tác động của bốn nhân tố chính bao gồm
di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân. Các yếu tố này có mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động đồng bộ của chúng sẽ tạo ra những điều kiện cần và đủ
cho sự phát triển nhân cách.
Thứ nhất là nhân tố di truyền. Đây là nhân tố quan trọng đối với giáo dục. Sự di
truyền sẽ mang lại những tư chất, năng lực, phẩm chất để con người tham gia tốt vào
một hoạt động nào đó. Trẻ em có gen di truyền về một lĩnh vực hoạt động nào đó sẽ

sớm bộc lộ những thiên hướng về lĩnh vực hoạt động đó, nhưng để nó thực sự trở
thành một tài năng cần phải có sự giáo dục hợp lý, môi trường phát triển thuận lợi và
sự học hỏi tích cực của cá nhân đó. Để cho những tư chất di truyền có kết quả trong
lĩnh vực tương ứng thì cịn phụ thuộc vào những yếu tố như điều kiện sống, điều kiện
giáo dục và hoạt động cá nhân.
Thứ hai là nhân tố mơi trường, nó ảnh hưởng to lớn đến nhân cách con người.
Sự hình thành và phát triển chỉ được thực hiện trong một môi trường xã hội nhất định.
Mơi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho hoạt


9
động và giao lưu của cá nhân. Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với
sự phát triển nhân cách tùy vào lập trường, quan điểm và thái độ của cá nhân đối với
ảnh hưởng đó cũng như phụ thuộc vào xu hướng năng lực và mức độ của cá nhân tham
gia vào việc cải tạo môi trường.
Thứ ba là nhân tố giáo dục, giáo dục giữ vai trị chủ đạo trong việc hình thành
và hồn thiện nhân cách. Giáo dục sẽ vạch ra phương hướng cho sự phát triển nhân
cách và làm rõ chiều hướng phát triển nhân cách, đồn thời tổ chức, dẫn dắt sự hình
thành và phát triển nhân cách theo chiều hướng đó. Giáo dục vạch ra đường hướng cho
sự phát triển nhân cách của người học và thúc đẩy quá trình hình thành nhân cách theo
chiều hướng đó.
Nhân tố thứ tư là hoạt động cá nhân và sự tự giáo dục, đây là nhân tố quyết định
trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Con người hoạt
động thế nào thì nhân cách sẽ phát triển thế ấy. Nhân cách chỉ được hình thành và phát
triển khi con người tham gia vào hoạt động và tích cực chiếm lĩnh tri thức do hoạt
động đem lại.
Nội dung hai câu thơ trên đã thể hiện đầy đủ nhất những suy nghĩ của Người về
vai trò giáo dục trong quá trình phát triển nhân cách con người. Hồ chủ tịch đề cao vai
trị của giáo dục trong việc hình thành nhân cách bởi giáo dục đóng vai trị chủ đạo
trong việc hoàn thiện nhân cách. Kẻ hiền, người dữ trên đời đều không phải khi sinh ra

đã là như thế, mà đó là kết quả trực tiếp của sự giáo dục trong xã hội: “Phần nhiều do
giáo dục mà nên”. Quan điểm này cũng hướng đến một mục tiêu đó là nếu xã hội
chúng ta muốn có nhiều người hiền tài, hạn chế những điều ác, thì xã hội cần quan tâm
đến việc giáo dục, đến việc đào tạo thế hệ mai sau.
Trong mỗi con người đều có những năng lực tiềm ẩn và nhiệm vụ cao cả của
giáo dục chính là phát hiện, khơi dậy và phát huy những năng lực tiềm ẩn cao quý ấy.
Giáo dục là sự tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành lý
tưởng, động cơ, niềm tin, hành vi và thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội. Hai câu
thơ ngắn gọn, súc tích của Hồ Chí Minh đã thực sự làm sáng rõ về vai trị của q trình
giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Từ hai câu thơ
ấy, mỗi người trẻ cần nhận thức rõ vai trò của giáo dục và nỗ lực rèn luyện, tự hoàn
thiện bản thân để phần “hiền” ngày càng lấn át phần “dữ”, chiến thắng những thói hư,


10
tật xấu trong chính bản thân mỗi người và hướng tới giá trị “chân - thiện - mỹ - ích”,
góp phần xây dựng một môi trường lành mạnh, trong sáng hơn nữa.
II. Biện pháp phát triển nhân cách học sinh cho nền giáo dục Việt Nam
Như chúng ta đã thấy, nhân cách có vai trị đặc biệt quan trọng đối với mỗi
người. Nhân cách sẽ được hình thành và hồn thiện chủ yếu trong giai đoạn chúng ta
còn là học sinh – cịn ngồi trên ghế nhà trường. Chính vì vậy, cần phải tập trung đẩy
mạnh giáo dục trong giai đoạn này để hình thành nhân cách tốt đẹp, lý tưởng và niềm
tin cao đẹp cho mỗi học sinh để làm hành trang bước vào xã hội. Để đạt được mục tiêu
đó, giáo dục Viêt Nam cần thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, thực hiện chính sách giáo dục phát triển toàn diện cho học sinh. Theo
đó, cần phải chỉ đạo đến tồn bộ giáo viên chú trọng đến hoạt động của học sinh, trước
hết, giáo viên phải có trình độ sư phạm, có phương pháp giảng dạy đổi mới để phát
huy khả năng tự học hỏi, tự tư duy để tìm ra phương pháp học tập tốt để đem lại kiến
thức, chú ý đến việc xây dựng nhân cách cho bản thân từng học sinh. Thông qua giáo
viên, học sinh nắm được cách ứng xử với mọi người xung quanh. Chất lượng đạo đức,

lý tưởng, trách nhiệm học sinh phụ thuộc phần nhiều vào đội ngũ giáo viên ở trường
lớp.
Thứ hai, phối kết hợp giữa ba mơi trường: gia đình, nhà trường và xã hội để
hình thành nhân cách cho học sinh. Nhà trường cần đẩy mạnh công tác trao đổi với
phụ huynh để nắm được tâm tư, nguyện vọng, năng lực, tài năng của học sinh để có kế
hoạch phát triển tồn diện cho học sinh. Bên cạnh đó, qua đây, phụ huynh cũng nắm
được tình hình học tập của con trẻ mình. Tuy nhiên, hiện nay mức độ quan tâm tham
gia trao đổi, nắm bắt và phản ánh giữa nhà trường, giáo viên và phụ huynh học sinh
hiện nay vẫn còn chưa được cao.
Thứ ba, chúng ta cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của phụ
huynh học sinh để họ nhận thức rõ vai trò, quan tâm đến việc học hành của con em
một cách đúng mức. Nên tạo cho con em một môi trường học tập thật phù hợp và nên
dành thời gian trị chuyện, tìm hiểu, nắm bắt tâm tư tình cảm của con em, tạo bầu
khơng khí thoải mái cho các em.
Cuối cùng, về phía chính quyền, cần xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng một
môi trường xã hội lành mạnh để các em không bị ảnh hưởng bởi những hiện tượng tiêu


11
cực của xã hội. Ngoài ra, cần tham gia cùng nhà trường bảo vệ khu vực trường học,
kịp thời thông báo về gia đình học sinh những vi phạm cũng như dùng biện pháp giáo
dục học sinh có biểu hiện quá đà sa ngã để hướng mọi học sinh đến con đường đúng
đắn, có nhân cách cao đẹp.
Tài liệu tham khảo
1. Hà Thị Mai (2013), giáo trình “Giáo dục học đại cương” – Trường đại học Đà Lạt
2. Lương Thị Nguyệt (25/05/2011), “Một số biện pháp xây dựng, giáo dục và hình
thành nhân cách cho học sinh”. Truy cập từ: />Câu 3: Tính giai cấp của giáo dục được biểu hiện như thế nào? Theo em giáo dục Việt
Nam hiện nay có mang tính giai cấp hay khơng? Hãy chứng minh.
I. Biểu hiện của tính giai cấp trong giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt của lồi người, là độc quyền sáng

tạo của con người. Nó là một hiện tượng xã hội thể hiện ở việc thế hệ trước truyền đạt
kinh nghiệm mà loài người đã tích lũy được cho thế hệ sau. Thế hệ sau sẽ tiếp thu một
cách năng động, sáng tạo nhằm phân tích, hồn thiện và sáng tạo ra những giá trị mới,
làm phong phú thêm những kinh nghiệm sống. Đây là quy luật của tiến bộ xã hội.
Giáo dục có ba tính chất cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, giáo dục là một hiện tượng phổ biến và vĩnh hằng. Giáo dục mang
tính chất này bởi nó xuất hiện mọi lúc, mọi nơi và ở bất kì nơi nào có sự hiện diện của
lồi người thì ở đó sẽ có giáo dục. Hiện tượng này chỉ có ở xã hội lồi người, nó xuất
hiện, tồn tại và phát triển cùng với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Giáo dục được xem như là điều kiện, con đường đặc trưng cơ bản để loài người
tồn tại và phát triển. Giáo dục sẽ chỉ mất đi khi xã hội lồi người mất đi.
Thứ hai, giáo dục mang tính lịch sử. Giáo dục là một hoạt động gắn liền với
tiến trình đi lên của xã hội, mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử đều có nền giáo dục
tương ứng, khi hình thái kinh tế - xã hội thay đổi thì hệ thống giáo dục cũng sẽ thay
đổi theo. Bên cạnh đó, giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội trong những điều kiện cụ thể.


12
Mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì giáo dục cũng khác nhau về mục đích, nội dung,
phương pháp và hình thái tổ chức giáo dục.
Thứ ba, giáo dục cịn mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nắm
quyền luôn sử dụng giáo dục để phục vụ lợi ích của giai cấp và làm cho hệ tư tưởng
của giai cấp mình là tư tưởng chỉ đạo giáo dục. Biểu hiện của tính giai cấp trong giáo
dục được biểu hiện ở những điểm sau đây:
- Giáo dục là công cụ truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, quan điểm, chính sách,..
của giai cấp cầm quyền. Các chính sách giáo dục đều được xây dựng trên cơ sở tư
tưởng của giai cấp nắm quyền. Có thể thấy, Nhà nước ta theo hệ tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin nên các chính sách giáo dục đều nhằm ca ngợi và phổ biến hệ tư
tưởng này tới mọi người dân trong đất nước.

- Giáo dục là đặc quyền, đặc lợi của giai cấp cầm quyền. Chẳng hạn, trong xã
hội phong kiến, khi mà phát triển về nông nghiệp, thủ cơng, thương nghiệp, trong xã
hội khi này có sự phân chia giai cấp: phong kiến phương Đông là sự phân chia giữa
quý tộc, địa chủ, quan lại với giai cấp nông dân; phong kiến phương Tây là lãnh chúa
phong kiến với các nơng nơ. Trong thời kì này, giáo dục chỉ tập trung vào những người
thuộc tầng lớp bên trên, những người có quyền lực, điều kiện về mặt kinh tế. Chỉ họ
mới được thụ hưởng những thành tựu của giáo dục và giáo dục là để phục vụ nhu cầu
cho giai cấp thống trị.
- Giáo dục đào tạo ra những người trung thành với lợi ích của giai cấp cầm
quyền. Quan điểm này được thể hiện rõ rệt ở thời kì phong kiến phương Đơng, khi q
tộc, quan lại được học về đạo Khổng, Nho giáo, tất cả những tư tưởng đó nhằm phục
vụ quyền lợi cho giai cấp thống trị, được thể hiện ở tư tưởng “trung quân, ái quốc”, tư
tưởng “vua là thiên tử”.
Trong xã hội, luôn có các giai cấp đối kháng, khơng thể có một nền giáo dục
trung lập hoặc đứng ngoài cuộc đấu tranh giai cấp, thoái li hệ tư tưởng giai cấp. Tuy
nhiên ngày nay, nhiều quốc gia đang hướng tới sự hòa hợp về lợi ích giữa các giai cấp,
xây dựng nền giáo dục bình đẳng cho mọi người, trong đó có Việt Nam.


13
II. Chứng minh giáo dục Việt Nam mang tính giai cấp
Theo quan điểm của em, nền giáo dục Việt Nam hiện nay có mang tính chất giai
cấp. Điều này được chứng minh bởi giáo dục Việt Nam vẫn mang những biểu hiện của
tính giai cấp trong nền giáo dục của mình:
Thứ nhất, giáo dục Việt Nam là cơng cụ truyền bá đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ trương, chính sách của Nhà nước, các trường đại học
đều có các học phần Triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa
học nhằm cung cấp kiến thức cho sinh viên, học viên về chủ nghĩa Mác – Lênin bởi
đây là nền tảng tư tưởng, “kim chỉ nam” trong phương hướng lãnh đạo của Đảng ta,
chúng ta đang trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội và con người trong xã hội

này hành động theo hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây chính là con đường
giải phóng con người, giải phóng dân tộc theo chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định.
Thứ hai, giáo dục Việt Nam luôn đào tạo ra những người trung thành với lợi ích
của giai cấp cầm quyền, ở đây là giai cấp công nhân với đội quân tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Chúng ta hướng tới một xã hội bình đẳng, một Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên mọi người đều được giáo dục là luôn trung
thành với Tổ quốc, trung thành với sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới đất
nước theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, xã hội Việt Nam có sự phân chia giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội nên giáo dục Việt Nam mang tính giai cấp. Tuy nhiên, giữa các giai cấp khơng cịn
có mâu thuẫn đối kháng nên tính giai cấp của giáo dục Việt Nam hiện nay khác về bản
chất so với tính giai cấp của giáo dục Việt Nam trong xã hội cũ.
Thêm vào đó, ngày nay các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam hướng
đến một nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, ai cũng có quyền được học tập,
thụ hưởng nền giáo dục của đất nước. Chính vì vậy, giáo dục khơng cịn là đặc quyền,
đặc lợi của giai cấp cầm quyền hay bất kì một giai cấp nào khác.
Nói tóm lại, nền giáo dục Việt Nam hiện nay mang tính giai cấp nhưng đã được
loai bỏ những yếu tố lạc hậu, bất cập của nền giáo dục cũ. Qua đây, chúng ta cần tránh
hai quan điểm cực đoan, sai lầm: phủ nhận sạch trơn nền giáo dục cũ; tư tưởng hoài
cổ, luyến tiếc quá khứ, trì trệ, bảo thủ vào khơng chịu đổi mới và cần kế thừa có chọn


14
lọc, phê phán, sáng tạo; tiếp nhận những yếu tố tích cực, mạnh dạn xóa bỏ những yếu
tố lạc hậu của nền giáo dục cũ để hướng tới nền giáo dục Việt Nam ngày càng tân tiến.
Tài liệu tham khảo
1. Hà Thị Mai (2013), giáo trình “Giáo dục học đại cương” – Trường đại học Đà Lạt
2. Phạm Tường Huy (05/03/2021), “Tính chất của giáo dục”. Truy cập từ:
/>%A7a-giao-d%E1%BB%A5c




×