Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Giáo dục đạo đức cho học sinh người dân tộc thiểu số qua dạy học phần công dân với đạo đức chương trình giáo dục công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.51 KB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


LÊ THỊ BÍCH THỦY

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ QUA DẠY HỌC PHẦN
“CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 10 TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
(Qua khảo sát tại trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Bình Thuận)

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn chính trị
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Lương Bằng

Tp. Hồ Chí Minh - năm 2012


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi gửi lời cảm ơn:
Trường đại học Vinh, khoa sau đại học, khoa Giáo dục chính trị đã tạo
điều kiện cho tôi có cơ hội học tập.
Các giảng viên đã tận tình giảng dạy. Đặc biệt là PGS. TS Nguyễn Lương
Bằng đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình chỉ bảo, định hướng, giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Ban Giám Hiệu và quý thầy cô trường PT. DTNT tỉnh Bình Thuận, đặc
biệt là thầy cô Tổ bộ môn Sử - Địa - GDCD đã hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện,


động viên, khuyến khích tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu khoa học.
Anh chị em tập thể lớp cao học khóa 18 đã chia sẻ, động viên tôi trong
suốt thời gian qua.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng luận văn cũng không tránh khỏi
những thiếu sót, tác giả rất mong sự thông cảm, góp ý chân thành của các nhà
khoa học, quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2012
Tác giả

LÊ THỊ BÍCH THỦY


BẢNG KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

DTNT

Dân tộc nội trú

DTTS

Dân tộc thiểu số

GDCD


Giáo dục công dân

ĐC

Đối chứng

GDĐĐ

Giáo dục đạo đức

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

PT

Phổ thông

THPT

Trung học phổ thông

TN

Thực nghiệm


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
B. NỘI DUNG ...................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRƯỜNG PHỔ
THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH BÌNH THUẬN .................................... 9
1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bình Thuận .............................................. 9
1.2. Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” trong giai đoạn hiện nay (Qua khảo
sát tại trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bình Thuận)................................. 29
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM VẬN DỤNG CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
QUA DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” TRONG
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 .................................. 51
2.1. Chuẩn bị thực nghiệm .................................................................................. 51
2.2. Nội dung thực nghiệm.................................................................................. 52
2.3. Kết quả thực nghiệm .................................................................................... 65
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ QUA DẠY HỌC
PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 10 TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH
BÌNH THUẬN ................................................................................................... 69
3.1. Phương hướng giáo dục đạo đức cho học sinh người dân tộc thiểu số qua
dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10 tại

trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bình Thuận ............................................ 69


3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh người dân tộc
thiểu số qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình giáo dục công
dân lớp 10 tại trường Phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bình Thuận ..................... 80
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................... 106
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................. 109
E. PHẦN PHỤ LỤC ........................................................................................ 112


1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chúng ta đã giành
được những thắng lợi oanh liệt và đầy tự hào. Sau hai mươi lăm năm đổi mới,
nước ta bước vào giai đoạn hội nhập. Bên cạnh việc phát triển nền kinh tế, bảo
vệ đất nước là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Sự quan tâm của
Đảng, nhà nước đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS cũng góp phần
đắc lực vào nhiệm vụ xây dựng vào bảo vệ Tổ Quốc.
Những năm gần đây, đời sống của vùng đồng bào DTTS ngày càng được
nhà nước quan tâm qua chương trình 135 - chương trình phát triển kinh tế, xã
hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng DTTS và miền núi nhằm tạo sự chuyển biến
nhanh về sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
sản xuất gắn với thị trường; cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
đồng bào DTTS một cách bền vững. Nhiều chương trình, dự án lớn được triển
khai thực hiện ở vùng đồng bào DTTS với mục tiêu đầu tư cho giáo dục và đào
tạo, y tế, giao thông, thủy lợi. Trong đó, công tác giáo dục ngày càng được chú
trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW khóa IX đã khẳng định:
“Thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân

lực; chăm lo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số”. Văn kiện Đại hội lần XI của Đảng
đã đánh giá: “Phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số được quan tâm”.
Đạo đức là cái gốc, là nền tảng để phát triển nhân cách con người. Trong Di
chúc, nói về Đoàn viên và thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những
người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Đây cũng là nhiệm vụ của giáo dục
dân tộc trong giai đoạn hiện nay.


2
Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc đòi hỏi thế hệ trẻ phải luôn rèn đức
luyện tài, đáp ứng yêu cầu của đất nước, phát triển kinh tế địa phương, chống lại
âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đó không chỉ là nghĩa
vụ, trách nhiệm mà còn là quyền lợi của thanh niên Việt Nam nói chung và
những người con đồng bào DTTS nói riêng.
Trong giai đoạn hiện nay, sự tác động sâu sắc từ nền kinh tế nhiều thành
phần đến tất cả các vùng miền trong cả nước là nguyên nhân làm cho đạo đức
của một bộ phận thanh thiếu niên, HS đang bị suy thoái. Nghị quyết TW 2 khóa
VIII nhấn mạnh: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có
tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng,
thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp”. HS người DTTS tỉnh Bình Thuận - lực
lượng có trình độ văn hóa ở vùng sâu, vùng xa của Tỉnh được Đảng và Nhà
nước quan tâm, đầu tư cho việc học tập cũng có những biểu hiện trên. Đặc biệt
là HS lớp 10. Bên cạnh đó, việc GDĐĐ cho HS người DTTS chưa được quan
tâm đúng mức, gây mâu thuẫn giữa việc đầu tư cho giáo dục dân tộc và thực
trạng đạo đức của HS người DTTS.
HS người DTTS là “rường cột”, lực lượng kế thừa công cuộc xây dựng
những vùng xa xôi của tỉnh Bình Thuận, góp phần thay đổi đời sống ở địa
phương. Nhưng hiện nay, một bộ phận HS người DTTS chưa xác định được

mục tiêu và không có động cơ học tập đúng đắn; vi phạm nội quy học tập, phá
hoại tài sản của nhà trường…Thực trạng vi phạm đạo đức của HS người DTTS
lớp 10 ở trường phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Bình Thuận là điều đáng lo ngại.
Nếu không được khắc phục kịp thời, nhiệm vụ giáo dục dân tộc do Bộ giáo dục
và đào tạo đề ra trong giai đoạn 2008 - 2020 rất khó thực hiện được, gây ra sự
lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước vào việc đầu tư cho giáo dục dân tộc
ở tỉnh Bình Thuận. Đây là sự cản trở rất lớn trong quá trình xây dựng nông thôn
mới, là nguyên nhân kéo dài thêm sự nghèo nàn, lạc hậu ở vùng đồng bào DTTS
của Tỉnh. Sự suy thoái đạo đức của HS người DTTS sẽ tạo điều kiện cho các thế


3
lực phản động thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, tiếp
tay cho kẻ xấu hủy hoại môi sinh nơi vùng xa xôi của Tổ Quốc.
GDĐĐ để HS người DTTS không ỷ lại vào chính sách của Đảng và Nhà
nước, có động cơ học tập đúng đắn, có lý tưởng sống đáp ứng yêu cầu, mục tiêu
mà Đảng, Nhà nước đã đặt ra là vấn đề quan trọng và hết sức cấp thiết.
Góp phần vào thực hiện công việc này, tác giả đã chọn vấn đề: Giáo dục
đạo đức cho học sinh người dân tộc thiểu số qua dạy học phần “Công dân với
đạo đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10 trong giai đoạn hiện nay.
(Qua khảo sát tại trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bình Thuận) làm đề
tài luận văn Thạc sĩ cho ngành Lý luận và phương pháp giảng dạy bộ môn chính
trị của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Cho đến nay, vấn đề đạo đức, GDĐĐ và dân tộc thiểu số được nghiên cứu
khá sâu sắc. Liên quan đến nội dung của đề tài nghiên cứu, có thể chia thành
nhóm các vấn đề sau:
Thứ nhất: Nhóm vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện
nay.
PGS. TS. Nguyễn Lương Bằng với bài viết “Tiêu chí giáo dục và đào tạo

cho học sinh phổ thông - Một số vấn đề đặt ra” để đánh giá, xếp loại đạo đức HS
phổ thông.
Bài viết “Giáo dục đạo đức cho học sinh” của Nguyễn Thị Minh Chiến đã
nêu được tầm quan trọng trong phối hợp GDĐĐ cho HS của gia đình, nhà
trường và xã hội.
Giáo viên Trần Quang Đại viết về “Giáo dục đạo đức cho học sinh - những
ngộ nhận” vào tháng 9 năm 2008. Tác giả đã nêu thực trạng đạo đức của HS và
cách GDĐĐ cho HS trong giai đoạn hiện nay.


4
Vấn đề GDĐĐ ngày càng được xã hội quan tâm và đưa ra nhiều giải pháp
để nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS, sinh viên, nhiều học viên cao học đã
chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình.
Võ Thế Anh với đề tài “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường”. Vũ Thị Hoa với đề tài “Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức cho sinh viên trường Cao đẳng nghề Du
lịch - Thương mại Nghệ An hiện nay”. Hồ Thị Thu Hà chọn đề tài “Nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên Nghệ An hiện nay”.
Hoàng Thị Nga “Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ thông ở
Nghệ An hiện nay”. Vấn đề “Giáo dục đạo đức cho HS THPT ở Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay” của tác giả Phạm Thị Thanh Ngoan.
Thứ hai: Nhóm nghiên cứu vấn đề dân tộc và giáo dục dân tộc
* Sách
“Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi” của
tác giả Bế Viết Đẳng (chủ biên) năm 1996, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Văn hóa dân tộc, Hà Nội phát hành.
Tác giả Trịnh Quang Cảnh với vấn đề “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các
dân tộc thiểu số nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay” do Nhà xuất bản

chính trị quốc gia Hà Nội phát hành năm 2005.
“Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay” của tác giả Lô Quốc Toản được Nhà xuất bản chính trị quốc
gia Hà Nội phát hành năm 2010.
*Tạp chí, báo
Tác giả Lê Như Hoa với vấn đề “Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thế kỷ
XX”, Tạp chí Văn hóa Thông tin, năm 2002.
“Thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát triển toàn
diện, bền vững vùng dân tộc thiểu số” của Chủ tịch hội đồng dân tộc Quốc hội


5
K’ Sor Phước được đăng trên tạp chí cộng sản số 797, tháng 3 năm 2009. Bài
viết khẳng định vai trò quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc trong quá trình
phát triển của các DTTS, nhằm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu.
Bài viết của Phó chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Sơn Phước Hoan “Thực hiện
một số chính sách xã hội ở vùng dân tộc thiểu số trong hội nhập và phát triển”
được đăng trên Tạp chí Cộng sản số 805, tháng 11 năm 2009.
Bài viết của Vân Hạnh: “Internet với học sinh dân tộc nội trú tỉnh Bình
Thuận” được đăng trên báo Bình Thuận năm 2010.
Chiến lược phát triển giáo dục được đề ra ở các trường dân tộc nội trú với
mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học có bài viết: “Chiến
lược phát triển giáo dục trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Lâm Đồng, giai
đoạn 2010- 2015” của tác giả Võ Tấn Hụê.
* Các bài luận văn
Trịnh Quang Cảnh đã chọn vấn đề “Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt
Nam trong công cuộc đổi mới” (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc), làm
luận án tiến sĩ năm 2002.
Năm 2011, Vũ Minh Thanh đã chọn vấn đề: “Vấn đề phát triển giáo dục ở
đồng bào dân tộc thiểu số” làm đề tài Thạc sĩ của mình. Luận văn đã đưa ra

những giải pháp nhằm phát triển giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho đồng
bào dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay.
Từng bước nâng cao chất lượng dạy học cho HS người DTTS có tác giả
Nguyễn Vinh Quang với đề tài luận văn thạc sĩ “Sử dụng phương pháp nêu vấn
đề trong dạy học phần “Công dân với kinh tế” chương trình Giáo dục công dân
lớp 11 THPT (Qua khảo sát trường trung học phổ thông dân tộc nội trú Tân Kỳ Nghệ An)
Các vấn đề nêu trên đã được các tác giả đề cập đến khá sâu sắc dưới nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu, khảo


6
sát về thực trạng đạo đức và GDĐĐ HS người DTTS ở trường phổ thông Dân
tộc nội trú nhằm đưa ra phương hướng và giải pháp cho vấn đề này.
Với tư cách là giáo viên dạy môn giáo dục công dân, đang nghiên cứu về lý
luận và phương pháp dạy học bộ môn chính trị, tôi chọn vấn đề: Giáo dục đạo
đức cho học sinh người dân tộc thiểu số qua dạy học phần “Công dân với đạo
đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10 trong giai đoạn hiện nay. (Qua
khảo sát tại trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bình Thuận) làm đề tài
luận văn Thạc sĩ cho mình.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Nghiên cứu thực trạng đạo đức của HS người DTTS, qua đó đề ra một số
giải pháp nhằm GDĐĐ cho HS người DTTS ở trường PT. DTNT tỉnh Bình
Thuận trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Xác lập cơ sở lý luận, thực tiễn của đạo đức, GDĐĐ cho HS người DTTS
trong giai đoạn hiện nay.
- Thông qua tìm hiểu đặc điểm của HS người DTTS lớp 10, làm rõ thực
trạng GDĐĐ cho HS người DTTS ở trường PT. DTNT tỉnh Bình Thuận.
- Tiến hành thực nghiệm GDĐĐ cho HS người DTTS qua dạy học phần

“Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm GDĐĐ cho HS người
DTTS qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10.
4. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN
CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
HS người DTTS lớp 10 trường PT. DTNT tỉnh Bình Thuận
Chương trình GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo đức”


7
4.2. Khách thể nghiên cứu
Việc giáo dục đạo đức cho HS người DTTS lớp 10.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bình Thuận
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu lý luận
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về GDĐĐ cho thanh
niên.
Phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu để xây
dựng cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu tiêu chí xếp loại đánh giá hạnh kiểm của HS THPT
Nghiên cứu một số bài học phần “Công dân với đạo đức” trong chương
trình GDCD lớp 10.
5.2. Nghiên cứu thực tiễn
Thống kê chất lượng rèn luyện đạo đức của HS lớp 10 trường PT. DTNT
tỉnh Bình Thuận.
Thống kê kết quả về nhận thức của GDĐĐ qua dạy học phần “Công dân
với đạo đức” ở trường PT. DTNT tỉnh Bình Thuận.

Thống kê kết quả thực nghiệm dạy học qua phần “Công dân với đạo đức”.
5.3. Các phương pháp xử lý thông tin
Dùng phương pháp toán học để xử lý kết quả thống kê, khảo sát.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu việc GDĐĐ được chú trọng và quan tâm đúng mức, kịp thời và đúng
hướng sẽ góp phần nâng cao ý thức học tập và rèn luyện đạo đức của HS người
DTTS, nâng trình độ dân trí cho thanh niên vùng đồng bào DTTS tại địa


8
phương, tạo đội ngũ cán bộ nguồn, phát triển kinh tế, ổn định chính trị, thực hiện
mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN.
7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ quan niệm đạo đức trong giai đoạn hiện nay và
tầm quan trọng của GDĐĐ đối với sự phát triển của HS người DTTS tỉnh Bình
Thuận.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm GDĐĐ cho HS
người DTTS khối lớp 10 của tỉnh Bình Thuận, đáp ứng mục tiêu giáo dục cho
vùng đồng bào DTTS của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng để sử dụng nghiên cứu về đặc
điểm, thực trạng đạo đức của HS vùng DTTS tỉnh Bình Thuận làm cơ sở đề ra
các biện pháp giáo dục nhằm thực hiện giáo dục dân tộc một cách toàn diện, hài
hòa giữa “dạy chữ và dạy người”.
Kết quả của luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu cho việc tìm
hiểu, nghiên cứu về tính đặc thù của HS người DTTS nói chung và GDĐĐ cho
HS người DTTS nói riêng.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung

của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


9
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRƯỜNG
PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH BÌNH THUẬN
1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bình Thuận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Ngay từ khi mới ra đời, con người đã gắn mình với cộng đồng, xã hội như
một điều tất yếu để tồn tại, lao động và phát triển. Giữa những cá nhân ấy hình
thành mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Đó là mối quan hệ giữa cá nhân
với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Để dung hòa lợi ích bản thân mình với lợi
ích của tập thể, mỗi cá nhân phải tuân theo những “lề thói”, những “tập tục”. Lề
thói, tập tục được hiểu là đạo đức.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói (moralis
nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Đạo đức còn đồng nghĩa với “luân
lý” có nguồn gốc từ tiếng Hylạp là ethicos - lề thói, tập tục.
Ở phương Đông, đạo đức được đề cập trong xã hội Trung Quốc thời cổ đại.
Trong đó, quan niệm về “đạo” và “đức” được biểu hiện khá rõ nét trong đời
sống xã hội. Đạo là con đường, đường đi, đường sống của con người. Đức là
đức tính, tính cách của mỗi người. Đạo đức theo quan niệm của người Trung
Quốc cổ đại là những yêu cầu, nguyên tắc mà mỗi cá nhân phải tuân theo cho
phù hợp với yêu cầu, lợi ích của xã hội.
Ở phương Tây, đạo đức được đề cập đến trong triết học của Xôcrat (469399 TCN). Ông xem trí tuệ như đạo đức của con người. Còn Arixtôt quan niệm
rằng người có đạo đức, có đức hạnh là người biết định hướng để làm việc. Đạo
đức được xem như là phẩm hạnh, hướng con người đến sự tự do.



10
Quan niệm đạo đức được hình thành khi nhận thức của con người đạt đến
một trình độ nhất định. Ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội. Ph.Ăngghen cho rằng: “Chúng ta khẳng định rằng, xét cho đến
cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của
tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ” [5; 137]. Nó biến đổi cùng với sự biến đổi
của tồn tại xã hội và có tính độc lập tương đối.
Con người khi bị tách khỏi cộng đồng, xã hội thì không thể bàn đến đạo
đức của họ. Đạo đức được sinh ra khi con người giao tiếp với người khác thông
qua các hoạt động xã hội, trong quan hệ xã hội.
Có nhiều cách tiếp cận để đi đến khái niệm đạo đức. Theo từ điển triết học:
“Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực
hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội…Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu lợi ích của xã
hội, hoặc của các giai cấp biểu hiện dưới những hình thức, những quy định và
những sự đánh giá đã được mọi người thừa nhận và đã thành hình một cách tự
phát, được củng cố bằng sức mạnh của tấm gương của quần chúng, của thói
quen, phong tục, dư luận xã hội…” [38; 156, 157].
Theo Trần Đăng Sinh, đạo đức được khái quát là “Một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của xã hội” [33; 6].
Trần Hậu Kiêm đưa ra khái niệm đạo đức là “một hình thái ý thức xã hội
đặc biệt, bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã
hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi
ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa con

người với con người, giữa cá nhân và xã hội” [16; 12].


11
Trong từng giai đoạn của lịch sử, quan niệm về đạo đức vận động, biến đổi,
phát triển cùng với sự biến đổi của những nấc thang chuẩn mực xã hội theo
hướng ngày càng phát triển nhưng không hề tách rời và bỏ quên những giá trị
truyền thống dân tộc. Qua đó, đạo đức được hiểu là một hình thái ý thức xã hội,
là hệ thống các quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó, con người tự
giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng,
xã hội trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục “là sự truyền thụ kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài
người nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người” [15; 5]. Đó là hoạt
động có ý thức, có mục đích của chủ thể nhằm điều chỉnh, định hướng, tác động
đến quá trình hình thành nhân cách của đối tượng giáo dục.
Con người không thể tự hoàn thiện và phát triển nhân cách, có hành vi ứng
xử tự nguyện, tự giác phù hợp với chuẩn mực đạo đức khi không có quá trình
giáo dục. GDĐĐ là quá trình tác động có mục đích, nội dung và phương pháp
khoa học nhằm giúp con người hình thành và phát triển nhân cách, hướng hành
vi ứng xử theo đúng chuẩn mực xã hội.
Giáo dục đạo đức là “quá trình chuyển văn hóa đạo đức xã hội thành văn
hóa đạo đức cá nhân. Đó là quá trình chuyển những tri thức, những kinh nghiệm,
những chuẩn mực và lý tưởng đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá
nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá và thực hiện hành vi đạo
đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức” [33; 164].
“Giáo dục đạo đức là lĩnh vực kỳ diệu bậc nhất của xây dựng tâm hồn và tư
tưởng cho con người” [1; 61]. Nhân cách con người được hình thành, hoàn thiện
trong quá trình giáo dục. Hệ thống kinh nghiệm xã hội, chuẩn mực, đánh giá đạo
đức đã được hình thành trong lịch sử cộng đồng biến thành kinh nghiệm của cá

nhân. Qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của mỗi cá nhân, quá


12
trình giáo dục trở thành tự giáo dục. GDĐĐ là một quá trình thống nhất biện
chứng giữa giáo dục và tự giáo dục.
Như vậy, giáo dục đạo đức là quá trình truyền thụ kinh nghiệm một cách có
mục đích của con người nhằm chuyển văn hóa đạo đức xã hội thành văn hóa
đạo đức cá nhân giúp hình thành, phát triển ý thức đạo đức và năng lực thực
hiện hành vi đạo đức của con người.
GDĐĐ có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người.
Nó cung cấp cho con người nhân sinh quan phù hợp với chuẩn mực xã hội, làm
cho các chuẩn mực đạo đức lành mạnh trở thành nhu cầu, tình cảm đạo đức, ý
thức tự nguyện, tự giác giúp bản thân tự củng cố, xem xét, đánh giá hành vi của
mình, trau dồi đạo đức. Nói cách khác, đó là quá trình tự GDĐĐ.
1.1.1.3. Đặc trưng của giáo dục đạo đức
Đặc trưng thứ nhất: Giáo dục đạo đức là giáo dục ý thức đạo đức nhằm
điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội
Ý thức đạo đức và hành vi đạo đức có mối quan hệ biện chứng với nhau. Ý
thức đạo đức là “hình thái ý thức xã hội” [33; 51], bao gồm toàn bộ những quan
niệm về cái thiện, ác, nghĩa vụ, danh dự, nhân phẩm, lương tâm, hạnh phúc,
công bằng và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử của con người.
Ý thức đạo đức là sản phẩm của quá trình nhận thức đạo đức, phản ánh hiện
thực đạo đức một cách phong phú và nhiều cấp độ. Qua hoạt động thực tiễn, ý
thức đạo đức tác động tích cực, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng hành vi đạo
đức, giúp hành vi thể hiện đúng với yêu cầu, chuẩn mực xã hội.
Hành vi đạo đức là “hoạt động của con người chịu ảnh hưởng của niềm tin,
ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức” [33; 165], được chi
phối bởi ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức phù hợp với hệ thống các nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội sẽ điều chỉnh hành vi con người phù hợp với lợi ích chung của

xã hội. Ngược lại, ý thức đạo đức không hình thành được hệ thống các nguyên


13
tắc, chuẩn mực xã hội, con người không thể thực hiện hành vi đạo đức và tự
điều chỉnh bản thân. Khi đó, hành vi của con người mang tính ích kỷ, tính đố kỵ,
hẹp hòi, vụ lợi và là nơi nảy sinh những điều ác.
Giáo dục đạo đức phải tác động cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đồng bộ đến
lý tưởng, chuẩn mực, tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen đạo đức cũng như
khả năng đánh giá hành vi đạo đức giúp tri thức đạo đức sâu sắc và bền vững.
Bao gồm:
Thứ nhất, giáo dục ý thức đạo đức là quá trình giáo dục tri thức đạo đức
Tri thức đạo đức “là sự phản ánh đời sống đạo đức của xã hội và con
người” [33; 167]; là sự hiểu biết về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, hành vi
phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Đây là nhân tố cơ bản,
cốt lõi trong quá trình hình thành nhân cách, chỉ đạo hành vi đạo đức.
Giáo dục tri thức đạo đức là giáo dục cách ứng xử cho phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức đã quy định. Đây là giáo dục ở mức độ “thông thường” [33;
34], giáo dục “những giá trị đạo đức đơn lẻ được hình thành trực tiếp trong đời
sống hằng ngày” [33; 34]. “Chẳng hạn như những nguyên tắc trong đối nhân xử
thế như: “Trên kính dưới nhường”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”…[33; 34]
Giáo dục ý thức “đạo đức ở trình độ lý luận” [33; 35] là giáo dục một cách
có hệ thống những nguyên tắc đạo đức XHCN trong mối quan hệ với truyền
thống đạo đức dân tộc trên cơ sở những phạm trù cơ bản của đạo đức học. Tri
thức đạo đức lý luận khái quát đạo đức xã hội ở trình độ sâu sắc, bao quát hơn.
Tri thức đạo đức từ trình độ thông thường được nâng lên trình độ lý luận
biểu hiện bằng sự phát triển của ý thức cá nhân, đáp ứng yêu cầu đạo đức của xã
hội thông qua quá trình giáo dục. Quá trình ấy phải được tiến hành từng bước,
từng giai đoạn, phù hợp với từng độ tuổi và năng lực nhận thức của cá nhân.
Thứ hai, giáo dục ý thức đạo đức là giáo dục tình cảm đạo đức

Giáo dục tri thức đạo đức tạo tiền đề cho sự hình thành ý thức đạo đức.
Giáo dục tri thức đạo đức phải gắn liền với bồi dưỡng tình cảm đạo đức.


14
“Tình cảm đạo đức là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại xã hội”
[33; 169], “là những thái độ rung cảm của cá nhân đối với hành vi của người
khác và hành vi của chính mình” [14; 165]. Tình cảm là động lực quan trọng
thúc đẩy con người hành động, nó khơi dậy “những nhu cầu đạo đức” [1; 57].
Các chuẩn mực đạo đức được thể hiện qua hành vi của chủ thể một cách hài hòa,
tự nguyện. Thái độ và tình cảm đạo đức giúp con người “nhạy cảm trước cái
thiện, cái ác” [33; 169]. Thiếu tình cảm đạo đức, con người trở nên thờ ơ, vô
cảm trước các hiện tượng xã hội, không định hướng được thái độ, dần mất đi
năng lực đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức.
Tình cảm đạo đức được hình thành từ tâm hồn của mỗi người, từ trái tim
yêu cái thiện và căm ghét cái ác. Qua đó, hành vi đạo đức khi được thể hiện sẽ
mang tính nhân văn sâu sắc. Tình cảm đạo đức hình thành khi con người chưa
tiếp nhận được tri thức một cách hệ thống chuẩn mực đạo đức. Nó hình thành
khi cá nhân được giáo dục cách biết cảm thương những mảnh đời bất hạnh,
khâm phục những hành động quả cảm, yêu thương con người, căm ghét những
hành vi xấu làm hại đến người khác, đến xã hội.
Tình cảm đạo đức được nhen nhóm và bùng cháy khi kết hợp với tri thức,
lý tưởng đạo đức. Từ đây, ý thức đạo đức được hình thành tạo nên năng lực thực
hiện hành vi đạo đức và đánh giá hành vi đạo đức.
Thứ ba, giáo dục ý thức đạo đức là giáo dục lý tưởng đạo đức
Lý tưởng là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành ý thức đạo đức cá
nhân. Lý tưởng đạo đức là sự “định hướng các giá trị đạo đức. Giá trị đạo đức
bao gồm: giá trị truyền thống của dân tộc, giá trị đạo đức cách mạng và tinh hoa
văn hóa nhân loại” [33; 171].
Giáo dục lý tưởng tạo ra khát vọng và động cơ thúc đẩy con người thực

hiện hành vi đạo đức. “Ngày nay, hoài bão, ước mơ, niềm tin không thiên về
tính sử thi mà thiên về tính nhân văn… Tuy nhiên không phải vì thế mà người ta
không lựa chọn những giá trị chung như hòa bình, tự do, công lý, lao động cần


15
cù, xây dựng đất nước” [42; 221]. Lý tưởng đạo đức là sự lựa chọn các giá trị
đạo đức, giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc, khát khao vươn lên chinh
phục những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống.
GDĐĐ không thể tách rời giáo dục lý tưởng đạo đức. Lý tưởng đạo đức
giúp tình cảm đạo đức không chệch hướng, tác động mãnh liệt đến tri thức đạo
đức chỉ đạo hành vi đạo đức của cá nhân, phù hợp với lý tưởng của dân tộc. Đó
là sự hòa quyện tinh tế, là dòng chảy hài hòa nhưng mãnh liệt trong mỗi cá nhân.
Thứ tư, giáo dục hành vi và thói quen đạo đức
Ý thức khi được phát triển thành năng lực thực hiện hành vi đạo đức, nó
giúp con người tự soi rọi mình trong hành vi đạo đức.
Giáo dục hành vi đạo đức thành thói quen đạo đức, như phản xạ có điều
kiện trong ứng xử. “Thói quen đạo đức là những hành vi đạo đức ổn định của
con người” [14; 167]. Hành vi đạo đức được thực hiện một cách tự giác, tự
nguyện, thường xuyên và liên tục. Xét ở góc độ khác, nó còn là nhu cầu của con
người mà khi không thực hiện nó, con người cảm thấy khó chịu và cắn rứt lương
tâm. Macarencô khẳng định: “Dù anh có xây được bao nhiêu quan niệm đúng
đắn về điều phải làm, tôi có quyền nói với anh rằng, anh chẳng giáo dục được gì
hết nếu anh không giáo dục thói quen cho các em” (Trích lại [14;167]).
Hành vi của con người được thực hiện dưới sự tác động, chi phối của ý thức
đạo đức. Hành vi đạo đức được thể hiện một cách tích cực tác động trở lại ý thức
đạo đức, làm cho ý thức đạo đức xã hội chuyển hóa thành ý thức đạo đức cá
nhân. Quá trình giáo dục trở thành quá trình tự giáo dục khi nhận thức về tri
thức đạo đức được kiểm nghiệm qua thực tiễn hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức
của cá nhân ngày càng hoàn thiện trở thành “văn hóa đạo đức” [1; 57].

Đặc trưng thứ hai: Giáo dục đạo đức qua việc làm rõ giá trị thiện - ác
Trong bất kỳ thời đại nào, thiện và ác luôn là cặp phạm trù đối lập nhau.
Quan niệm về thiện - ác luôn vận động, biến đổi theo sự vận động của lịch sử,


16
tùy thuộc vào đặc điểm hình thành và phát triển của từng quốc gia, dân tộc.
“Quan niệm thiện - ác có tính lịch sử - xã hội” [16; 123].
Trước Mác, quan niệm về thiện - ác là cái sẵn có, là bản chất của con người
hoặc do một lực lượng siêu nhiên nào đó ban tặng. Nhưng quan niệm đạo đức
học Mác - Lênin mang tính hiện thực và biện chứng, lý giải đúng đắn quan niệm
thiện - ác. Quan niệm Macxít về thiện và ác được hiểu rằng “ý thức của con
người về thiện - ác không phải là sản phẩm của sự trừu tượng thuần túy” [30;
88], đó là kết quả của sự phản ánh vào trong bộ óc của con người từ những điều
kiện kinh tế - xã hội của một thời đại nhất định, của một giai cấp nhất định. Ph.
Ăngghen nêu rõ: “Con người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra
những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở
cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế” [5; 136]. Quan
niệm này không phải là cái bất biến, chung chung, nó mang tính xã hội - lịch sử.
Thiện là tất cả những gì tốt đẹp, mang đến lợi ích, hạnh phúc cho con người
phù hợp với các quan niệm đạo đức tiến bộ. Cái thiện được biểu hiện bằng lòng
chân thành, sự ngay thẳng, sự trong sáng trong tâm hồn mỗi con người. “Thiện
là một giá trị đạo đức tổng hợp những giá trị đạo đức tốt đẹp khác ở mỗi thời đại
hướng tới sự phát triển” [30; 90]. Đối lập với cái thiện là cái ác, là tất cả những
gì gây trở ngại, đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Cái ác biểu
hiện bằng những hành vi giả dối, hủy hoại nhân cách con người. Thiện và ác tồn
tại đan xen lẫn nhau, làm điều kiện và tiền đề tồn tại cho nhau. Đôi khi cái ác ẩn
mình dưới vỏ bọc là cái thiện để thực hiện những hành vi đen tối. Ngược lại,
một kẻ độc ác, trong cuộc đời họ cũng có thể làm những việc tốt đẹp. “Sự đối
lập giữa thiện và ác chỉ mang tính tương đối trong đời sống hiện thực” [30; 91].

Vì thế, GDĐĐ với chức năng làm rõ giá trị thiện - ác như một sự định hướng
cho nhận thức và hành động, mang lại nhân sinh quan cho con người để phân
biệt thiện, ác; phân biệt điều hay, lẽ phải với sự sai trái làm cơ sở cho quá trình
giáo dục. GDĐĐ qua việc làm rõ các giá trị thiện - ác là khâu đầu tiên nhưng


17
xuyên suốt trong suốt quá trình giáo dục. Nó cung cấp những tri thức cơ bản của
quá trình nhận thức hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, được ví như
xương sống cho sự hoàn thiện nhân cách.
“Giữa các thời đại lịch sử khác nhau cũng có những điểm tương đồng về
thiện,…nghĩa là sự đem lại lợi ích và hạnh phúc cho mọi người” [16; 124]. Quan
niệm về thiện - ác cũng có sự thay đổi, nhưng giữa thời đại trước với thời đại
sau, nó luôn có sự tương đồng mà tâm điểm là lợi ích chung của xã hội, được
xác định từ lợi ích chung của quảng đại quần chúng nhân dân.
Làm rõ các giá trị thiện - ác nhằm khích lệ, tuyên dương những việc làm
tốt; lên án, ngăn ngừa những hành động sai trái. Đặc trưng của GDĐĐ không
phải là sự trừng phạt, xử lý những hành vi sai phạm khi con người đã nhúng tay
vào điều ác. Giá trị của cái thiện ở chỗ nó luôn soi sáng để dẫn đường cho con
người, chinh phục những người có hành vi không lương thiện. GDĐĐ giúp con
người nắm vững giá trị của cái thiện, lựa chọn nó trong mỗi hành vi ứng xử của
mình với người khác và với cộng đồng.
1.1.2. Quan niệm đạo đức và giáo dục đạo đức của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Kế thừa tính khoa học và khắc phục những hạn chế các quan niệm trước đó,
quan niệm về đạo đức và GDĐĐ của triết học Mác - Lênin đi từ sự luận giải về
bản chất con người.
Lao động là tiền đề đầu tiên làm cho các cá nhân gắn kết lại với nhau. Như
một sự tất yếu khách quan, mối quan hệ giữa những con người được hình thành.
Đó là quan hệ xã hội. Vì vậy, con người không phải là con người chung chung,
phi hiện thực mà là con người trong hiện thực, gắn liền với những điều kiện sinh

hoạt vật chất của họ, do điều kiện kinh tế - xã hội quy định. C. Mác khẳng định:
“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng


18
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội” [4; 11].
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: “Sự
phát triển của một cá nhân được quyết định bởi sự phát triển của tất cả những cá
nhân khác mà cá nhân ấy đang trực tiếp hoặc gián tiếp giao tiếp, rằng các thế hệ
của những cá nhân quan hệ với nhau, bị ràng buộc với nhau…, điều đó quyết
định những mối quan hệ qua lại của chính thế hệ ấy. Tóm lại, chúng ta thấy rằng
sự phát triển đang diễn ra và lịch sử của một cá nhân riêng lẻ tuyệt nhiên không
thể tách rời với lịch sử của những cá nhân trước kia hoặc cùng thời với mình, mà
là do lịch sử ấy quyết định” [4; 642]. Con người không thể tồn tại như những cá
nhân riêng lẻ, mà tồn tại trong cộng đồng, cùng với những cá nhân khác, kế thừa
từ những thế hệ trước làm nên sự phát triển của xã hội. Trong quá trình ấy, chế
độ tư hữu xuất hiện. Mối quan hệ giữa người với người là mối quan hệ bóc lột
giữa giai cấp thống trị và bị trị. Bản chất của con người bị biến dạng và đạo đức
theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen là đạo đức gắn liền với nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa, gắn với sự bóc lột: “Con người với sự quy định của hàng hóa;
nó sản xuất ra con người theo quy định ấy, như là một thực thể mất tính chất
người cả về mặt tinh thần lẫn thể xác. - Tính vô đạo đức, sự biến chất, sự đần
độn của cả công nhân lẫn nhà tư bản” [6; 269].
Trong xã hội tư bản, đạo đức bị chi phối và bóp méo bởi quan hệ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Chỉ có xóa bỏ tình trạng bóc lột thì mới giải phóng giai
cấp công nhân và giải phóng con người. Đạo đức theo quan điểm Mác - Lênin là
đạo đức gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, vì sự
phát triển toàn diện của con người. Đạo đức ấy mang ý nghĩa nhân đạo, nhân
văn sâu sắc. Nó có được khi “Chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự xóa bỏ một

cách tích cực chế độ tư hữu - sự tự tha hóa ấy của con người…; do đó với tính
cách là việc con người hoàn toàn quay trở lại chính mình với tính cách là con


19
người xã hội, nghĩa là có tính chất người - sự quay trở lại này diễn ra một cách
có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển trước đó” [6; 287].
V.I.Lênin khẳng định: “Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ
của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh
giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản… là đạo
đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động
chống mọi sự bóc lột” [19; 369]. Hành vi đạo đức được thể hiện như nhiệm vụ
của mỗi cá nhân, góp phần vào công cuộc chống lại sự bóc lột. Đạo đức cộng
sản gắn liền với lợi ích của giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp ấy vì sự
phát triển của con người. “Cuộc đấu tranh giai cấp còn tiếp tục…Và đạo đức
cộng sản của chúng ta cũng phải phục tùng nhiệm vụ này” [19; 369].
V.I.Lênin chú trọng vào giáo dục lý tưởng, lập trường của giai cấp vô sản,
giáo dục niềm tin, giáo dục tinh thần lao động, đoàn kết, giáo dục tri thức để
thanh niên trở thành những người thấm nhuần đạo đức cộng sản, biến mục tiêu
của xã hội thành hiện thực vì “Đạo đức giúp xã hội loài người tiến lên cao hơn,
thoát khỏi ách bóc lột lao động” [19; 371]. “Giáo dục thanh niên cộng sản không
phải là nói cho họ nghe những bài diễn văn êm dịu hay là những phép tắc đạo
đức. Không phải cái đó là giáo dục. Khi người ta thấy được cha mẹ mình sống
dưới ách của bọn địa chủ và bọn tư bản thế nào, khi chính người ta chịu chung
nỗi đau khổ với những người mở đầu cuộc chiến đấu chống bọn bóc lột…,- thì
khi đó, người ta tự rèn luyện mình trong hoàn cảnh này để trở thành những
người cộng sản. Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và
hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Đó cũng là cơ sở của việc
rèn luyện, học tập và giáo dục cộng sản… Chúng ta không tin vào việc rèn
luyện, giáo dục và học tập nếu những việc đó chỉ đóng khung trong nhà trường

và tách rời cuộc sống sôi nổi” [19; 371, 372]. Giáo dục những tri thức đạo đức
phải gắn liền giữa lý luận và thực tiễn, cuộc sống sôi nổi sẽ dạy cho thanh niên


20
nhiều điều mà ở sách vở không có. Từ đó, đạo đức được hình thành đi đôi với
nhận thức, trưởng thành và trải nghiệm, hoàn thiện nhân cách con người.
Kế thừa quan niệm về đạo đức Phương Đông và Chủ nghĩa Mác - Lênin,
theo quan niệm của Hồ Chí Minh đạo đức là đạo đức cách mạng, là “trung với
nước, hiếu với dân”.
“Trung với nước” là vì lợi ích của Tổ Quốc, quyền lợi và sự sinh tồn của
dân tộc, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân. Hồ Chí Minh khẳng định “Chúng ta
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ” [22; 480]. Ngày nay, trung với nước là chấp hành chủ trương chính sách
của Đảng và pháp luật của nhà nước, xây dựng đất nước. “Hiếu với dân” là vì
nhân dân mà phục vụ. “Được phục vụ nhân dân là rất vẻ vang” [25; 463]. Cán
bộ cũng từ dân mà ra. Cán bộ làm cách mạng cũng để phục vụ nhân dân, chứ
không phải để đè đầu cưỡi cổ nhân dân.
Con người cần phải có tính cách của một người cách mạng. “Người có bốn
đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính... Thiếu một đức thì không thành người” [23;
321]. Thiếu một đức không thể trung với nước, hiếu với dân.
Trong mối quan hệ giữa mình với người, theo Hồ Chí Minh: “chữ Người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả
nước. Rộng nữa là cả loài người… ta phải yêu quý, kính trọng giúp đỡ… Việc gì
dù có lợi cho mình,… mà có hại cho nước thì quyết không làm” [23; 326]. Quan
niệm về đạo đức của Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc rèn luyện tu dưỡng đạo
đức bản thân mà còn được biểu hiện trong mối quan hệ của bản thân với gia
đình, mọi người, với Tổ Quốc.
Ngoài những đức tính: cần; kiệm; liên; chính, con người cần phải có nhân;
nghĩa; trí; dũng; liêm. “Đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực

hành chủ nghĩa tập thể, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau,... nghiêm khắc chống chủ
nghĩa cá nhân như tự tư, tự lợi, tự kiêu, tự mãn” [28; 99].


×