Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

quản lý chất thải rắn và chất thải y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.68 KB, 32 trang )





LUẬN VĂN
QUẢN LÝ CHẤT RẮN VÀ
CHẤT THẢI Y TẾ
2. Nhận biết và phân loại đợc các loại chất thải rắn và nguồn gốc của chúng.
3. Trình bày đợc những tác động của chất thải rắn lên môi trờng và sức khoẻ con ngời.
4. Hiểu đợc các nguyên lý về quản lý chất thải và hạn chế sự phát sinh chất thải.
5. Trình bày đợc các vấn đề về chất thải rắn y tế và công tác quản lý chất thải y tế.
1. GIớI THIệU CHUNG
phơng pháp kiểm soát và quản lý chất thải rắn có hiệu quả cần phải
đợc áp dụng.
2. ĐịNH NGHĩA CHấT THảI RắN
ất thải rắn do hoạt động sản xuất
nông nghiệp đợc gọi là chất thải rắn nông nghiệp.
3. PHÂN LOạI Và THàNH PHầN CHấT THảI RắN
y có nhiều cách phân loại chất thải rắn. Sau đây là một số cách phân loại
thông dụng:
3.1. Theo vị trí hình thành
Ngời ta phân biệt rác hay chất thải rắn trong nhà, ngoài nhà, trên đờng phố, chợ
3.2. Theo thành phần hóa học và vật lý
ô cơ, cháy đợc/ không cháy
đợc, kim loại / phi kim, da, giẻ vụn, cao su, chất dẻo
Các hệ sinh thái về mặt bản chất là bền vững vì chúng có khả năng phân huỷ và
tái tạo các chất dinh dỡng bằng cách tái sử dụng các yếu tố trong hệ. Từ xa xa,
những ngời nguyên thuỷ và những nền văn minh cổ xa không phải đối đầu với
những vấn đề về chất thải rắn bởi vì chất thải chủ yếu trong những thời kỳ này là
những chất thải có nguồn gốc hữu cơ, dễ bị phân huỷ bởi các vi sinh vật. Hơn nữa, do
dân số thế giới trong thời gian này còn ít nên lợng chất thải tạo ra cũng không lớn.


Vấn đề chất thải rắn ngày càng trở nên phức tạp hơn khi dân số thế giới ngày càng
tăng, kèm theo đó là chất thải ngày càng gia tăng về số lợng cũng nh chủng loại:
chất thải hoá học, chất thải lỏng, chất thải rắn, chất thải hạt nhân và các chất thải độc
hại. Do vậy, các
Chất thải rắn là chất thải ở dạng rắn phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt,
thơng mại, dịch vụ đô thị, nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng v.v. Chất thải rắn do
hoạt động sinh hoạt, đô thị đợc gọi là chất thải rắn đô thị; chất thải rắn do hoạt động
công nghiệp đợc gọi là chất thải rắn công nghiệp; chất thải rắn do hoạt động phòng
bệnh và chữa bệnh đợc gọi là chất thải rắn y tế; ch
Hiện na
Ngời ta phân biệt theo các thành phần hữu cơ /v

111
3.3. Theo bản chất nguồn tạo thành, chất thải rắn đợc phân thành các loại
3.3.1
sử dụng,
x
v.v

iều kiện thời tiết nóng, ẩm. Ngoài các thức ăn d thừa từ

kho của các công sở, cơ quan, xí nghiệp, các loại xỉ than. Các chất
thải rắn khác từ đờng phố có thành phần chủ yếu nh lá cây, que, củi, nilon, vỏ
nghiệp. Các nguồn phát sinh chất thải công nghiệp gồm:
t công nghiệp, tro, xỉ trong các
nhà máy nhiệt điện.
Các phế thải trong quá trình công nghệ.
ẩm.
t động phá dỡ, xây
dựng công trình chất thải xây dựng gồm:

.Chất thải rắn sinh hoạt
Là những chất thải liên quan đến các hoạt động sinh hoạt của con ngời, nguồn
tạo thành chủ yếu từ các khu dân c, các cơ quan, trờng học, các trung tâm dịch vụ
thơng mại. Chất thải rắn sinh hoạt có thành phần bao gồm kim loại, sành sứ, thủy
tinh, gạch ngói vỡ, đất, đá, cao su, chất dẻo, thực phẩm d thừa hoặc quá hạn
ơng động vật, tre, gỗ, lông gà lông vịt, vải, giấy, rơm, rạ, xác động vật, vỏ rau quả
Theo phơng diện khoa học, các chất thải này có thể phân biệt nh sau:
Chất thải thực phẩm: bao gồm các thức ăn thừa, rau quả loại chất thải này
mang bản chất dễ phân huỷ sinh học, quá trình phân huỷ tạo ra các mùi khó
chịu, đặc biệt trong đ
gia đình còn có các thức ăn d thừa từ các bếp ăn tập thể, các nhà hàng, khách
sạn, ký túc xá, chợ
Chất thải trực tiếp của động vật chủ yếu là phân, bao gồm phân ngời và phân
của các động vật khác.
Chất thải lỏng chủ yếu là bùn ga cống rãnh, là các chất thải từ các khu vực sinh
hoạt của dân c.
Tro và các chất d thừa thải bỏ khác bao gồm: các loại vật liệu sau đốt cháy, các
sản phẩm sau khi đun nấu bằng than, củi và các chất thải dễ cháy khác trong gia
đình, trong
bao gói
3.3.2. Chất thải rắn công nghiệp
Là chất thải phát sinh từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
Các phế thải từ vật liệu trong quá trình sản xuấ
Các phế thải từ nhiên liệu phục vụ cho sản xuất.

Bao bì đóng gói sản ph
3.3.3. Chất thải xây dựng
Là các phế thải nh đất, đá, gạch, ngói, bê tông vỡ do các hoạ
Vật liệu xây dựng trong quá trình dỡ bỏ công trình xây dựng.
Đất đá do việc đào móng trong xây dựng.


112
Các vật liệu nh kim loại, chất dẻo
Các chất thải từ các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật nh trạm xử lý n ớc thiên
, bùn cặn từ các cống thoát nớc thành phố.
3.3.4
không thuộc về trách nhiệm của các công ty môi trờng đô thị của
3.4.1
ất một trong 4 đặc tính nguy hại nh sau: độc tính, dễ
ch
mức độc hại tiềm tàng đối với sức khoẻ

n. Các dung môi hữu cơ, dầu, chất dẻo và

chất tẩy

hích hợp, tránh không để lại tác động
con ngời.
3.4.2
ất và hợp
chất có một trong các đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc tơng tác thành phần.
nhiên, nớc thải sinh hoạt
. Chất thải nông nghiệp
Chất thải nông nghiệp là những chất thải và mẩu thừa thải ra từ các hoạt động
nông nghiệp, thí dụ nh trồng trọt, thu hoạch các loại cây trồng, các sản phẩm thải ra
từ chế biến sữa, chất thải của các lò giết mổ Hiện tại việc quản lý và xả các loại chất
thải nông nghiệp
các địa phơng.
3.4. Phân loại theo mức độ nguy hại
. Chất thải nguy hại

Bao gồm các loại chất dễ gây phản ứng phụ, độc hại, chất thải sinh học dễ thối
rữa, các chất dễ cháy, nổ hoặc các chất thải phóng xạ, các chất thải nhiễm khuẩn, lây
lan có nguy cơ đe dọa tới sức khoẻ con ngời, động vật, cây cỏ v.v Chất thải nguy
hại là những chất mang ít nh
áy, ăn mòn, tính phản ứng.
Độc tính: độc tính ở đây mang nghĩa là
con ngời.
Dễ cháy: các hợp chất dễ cháy là các chất lỏng có điểm bốc cháy dới 60
o
C
hoặc các chất không phải dạng lỏng có khả năng gây cháy thông qua va chạm,
hút ẩm, hoặc thay đổi hoá học tự nhiê
sơn là những hợp chất dễ cháy.
Ăn mòn: các chất thải ăn mòn là những chất có pH dới 2 hoặc hơn 12,5; có thể
phá huỷ các mô sống hoặc ăn mòn các chất thông qua các phản ứng hoá học.
Những hợp chất ăn mòn này, chẳng hạn nh các chất acid, kiềm, các
rửa, chất thải của ắc quy là mối đe dọa lớn đối với sức khoẻ con ngời.
Tính phản ứng: các chất thải phản ứng gồm các loại đạn dợc cũ hoặc những
chất thải hoá học nhất định có khả năng phản ứng mạnh với không khí hoặc với
nớc. Chúng có thể nổ và tạo ra các khí độc hại.
Do tính nguy hiểm của chất thải rắn độc hại nh trên, chúng ta phải có các biện
pháp thu gom, bảo quản, vận chuyển, và xử lý t
xấu đối với môi trờng và sức khoẻ
. Chất thải không nguy hại
Chất thải không nguy hại là những loại chất thải không chứa các ch

113
Trong số các chất thải của thành phố, chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ chất thải có thể sơ
chế dùng ngay trong sản xuất và tiêu dùng, còn phần lớn là huỷ bỏ hoặc phải qua một
quá trình chế biến phức tạp, qua nhiều khâu mới có thể sử dụng lại nhằm đáp ứng nhu

cầu khác nhau của con ngời. Lợng chất thải trong thành phố tăng lên do tác động
của nhiều nhân tố nh: sự tăng trởng và phát triển của sản xuất, sự gia tăng dân số,
sự phát triển về trình độ và tính chất của tiêu dùng trong thành phố
4. CHấT THảI RắN ĐÔ THị
4.1. Khái niệm
Hiện nay vẫn cha có những định nghĩa rõ ràng về chất thải rắn đô thị. Nh
trên đã trình bày: chất thải rắn do hoạt động sinh hoạt, đô thị đợc gọi là chất thải rắn
đô thị. Theo khái niệm Ngân hàng Thế giới (World Bank), chất thải rắn đô thị là loại
chất thải rắn đợc phát sinh từ nhiều nguồn thải nh: sinh hoạt, thơng mại, công
nghiệp, xây dựng, từ các hoạt động sản xuất, phá huỷ hoặc các hoạt động khác tại đô
thị (WB,1999). Trong các loại chất thải rắn, chất thải rắn đô thị đợc coi là loại chất
thải có nguồn phát sinh đa dạng nhất.
4.2. Lợng phát sinh chất thải rắn đô thị (LPSCTRĐT)
Lợng chất thải tạo thành hay còn gọi là tiêu chuẩn tạo rác đợc định nghĩa là
lợng rác thải phát sinh từ hoạt động của một ngời trong một ngày đêm
(kg/ngời/ngày đêm).
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB, 1999), những nớc nghèo có tỷ lệ
phần trăm dân đô thị thấp nhất và lợng phát sinh chất thải rắn đô thị cũng thấp nhất,
khoảng từ 0,4 đến 0,9 kg/ngời/ngày đêm. Các nớc có GNP/ngời thấp hơn 400 USD
có lợng phát sinh chất thải rắn đô thị dới 0,7 kg /ngời/ngày đêm. Do vậy, nên đối với
các nớc có tỷ lệ GNP/ngời ở mức trung bình theo đánh giá của WB, tỷ lệ lợng phát
sinh chất thải rắn đô thị giao động trong khoảng 0,5 đến 1,1 kg/ngời/ngày. Trong khi
các nớc giàu, có GNP/ngời cao, tỷ lệ này khoảng 1,1 đến 5,07 kg /ngời/ ngày.
Bảng 5.1 cho thấy sự khác nhau về lợng rác thải rắn ở một số nớc, nó cho thấy
các nớc giàu chính là các nớc phải chịu trách nhiệm chính về tình trạng ô nhiễm
hiện nay trên phơng diện toàn cầu.

Bảng 5.1. Lợng phát sinh chất thải rắn tại một số nớc
Tên nớc GNP/ngời
(1995 USD)

Dân số đô thị
hiện nay (%tổng
sốt)
LPSCTRĐT hiện
nay
(kg/ngời/ngày)
Nớc thu nhập thấp 490 27,8 0,64

114
Nepal 200 13,7 0,5
Băngladesh 240 18,3 0,49
Việt Nam 240 20,8 0,55
ấn Độ
340 26,8 0,46
Trung Quốc 620 30,3 0,79
Nớc thu nhập trung bình 1410 37,6 0,73
Indonesia 980 35,4 0,76
Philippines 1050 54,2 0,52
Thái Lan 2740 20 1,1
Malaysia 3890 53,7 0,81
Nớc có thu nhập cao 30990 79,5 1,64
Hàn Quốc 9700 81,3 1,59
Hồng Kông 22990 95 5,07
Singapore 26730 100 1,10
Nhật Bản 39640 77,6 1,47
(Nguồn: World Bank, bảng 3, trang 7, 1999 )
Tiêu chuẩn tạo rác trung bình theo đầu ngời đối với từng loại chất thải rắn
mang tính đặc thù của từng địa phơng và phụ thuộc vào mức sống, văn minh của dân
c ở mỗi khu vực.
4.3. Những nguy cơ và những vấn đề liên quan tới rác thải rắn đô thị

Nếu rác thải không đợc quản lý một cách hợp lý, rác thải rắn đô thị sẽ gây ra
nhiều ảnh hởng xấu tới môi trờng và sức khoẻ con ngời. Dới đây trình bày một
trong số những ảnh hởng chính của sự ô nhiễm rác thải rắn tại đô thị.
Rác thải không đợc thu gom tại đầu cuối ở các cống thoát nớc của đô thị có
thể dẫn tới tắc các đờng cống thoát nớc, nguyên nhân gây lụt khi ma lớn và ảnh
hởng vệ sinh môi trờng.
Các loại côn trùng, sinh vật gây bệnh có thể phát triển trên một số loại chất thải.
Phân ngời và các động vật nuôi, các loại thức ăn thải bỏ là môi trờng thuận lợi cho
các loài côn trùng trung gian truyền bệnh nh: ruồi, nhặng, gián. Trên thực tế, phần
lớn chất thải rắn ở nớc ta đều có chứa phân ngời, giấy vệ sinh. Phân ngời là một
phơng tiện lan truyền bệnh nguy hiểm. Phân ngời lẫn trong rác thải chứa nhiều
mầm bệnh và rất dễ phát tán ra ngoài. Các mầm bệnh trực tiếp gây tác hại cho sức
khoẻ của các công nhân vệ sinh, những ngời nhặt rác, bới rác và trẻ em chơi trên sân.

115
Nớc ứ đọng tại các chất thải rắn nh can, chai, lọ bỏ đi là môi trờng thuận lợi
cho sự phát triển của các loại muỗi véc-tơ quan trọng trong việc truyền các bệnh sốt
rét và sốt xuất huyết.
Nơi c trú a thích của chuột là các đống rác và thức ăn thải bỏ. Chuột không
những là nguyên nhân truyền bệnh dịch hạch mà còn là nguyên nhân của nhiều sự khó
chịu khác đối với con ngời.
Đốt rác dẫn tới ô nhiễm không khí do những sản phẩm sau: trong quá trình đốt
có thể chứa các chất độc hại nh dioxin, khói từ những nơi đốt rác có thể làm giảm
tầm nhìn, nguy cơ gây cháy nổ những bình khí và nguy cơ gây hoả hoạn những vùng
lân cận.
Một nguy cơ nghiêm trọng đối với rác đô thị đó là các loại túi chất dẻo tổng
hợp, những loại túi này gây mất mỹ quan đô thị và là nguyên nhân gây chết những
động vật ăn phải.
Những chất thải nguy hiểm nh các vật sắc nhọn, các chất thải y sinh, các bình
chứa chất có khả năng cháy nổ, các hoá chất công nghiệp có thể dẫn đến những chấn

thơng hoặc nhiễm độc, đặc biệt đối với trẻ em và những ngời tiếp xúc với rác thải.
Các chất ô nhiễm từ các bãi rác có thể ngấm vào mặt nớc ngầm gây ô nhiễm
nớc ngầm và ô nhiễm đất xung quanh.
Rác thải bệnh viện đợc đổ chung vào rác thải đô thị là nguồn nguy hiểm đáng
kể. Các mầm bệnh truyền nhiễm có thể theo đó mà lan truyền ra môi trờng xung
quanh. Đặc biệt, rác thải bệnh viện trực tiếp tác động lên sức khoẻ của những ngời
nhặt rác, bới rác hoặc xử lý rác.
Những tác động của chất thải rắn lên môi trờng và sức khoẻ của con ngời
cũng có thể đợc tóm tắt theo cách dới đây:
Tác động lên môi trờng đô thị:
Các bãi rác đổ đống ngoài trời và các bãi chôn lấp rác có thể gây ô nhiễm không
khí, tạo ra mùi khó chịu cho một khu vực rộng lớn quanh bãi rác. Trong quá trình
phân huỷ, một số chất tạo ra các loại khí độc có thể gây ảnh hởng xấu tới sức khoẻ
con ngời, các loại động vật và cây cối xung quanh.
Các bãi rác đổ đống ngoài trời và các bãi chôn lấp rác không đợc xây dựng
đúng tiêu chuẩn cũng là nguồn tiềm tàng gây ô nhiễm nguồn nớc, đặc biệt là nguồn
nớc ngầm. Một số chất độc, kim loại nặng đợc tạo ra và ngấm vào nguồn n
ớc, gây
nguy hại tới sức khoẻ cộng đồng và hệ sinh thái quanh khu vực.
Chất thải rắn cũng có nguy cơ cao gây nên ô nhiễm đất. Các khu vực đợc sử
dụng để chôn lấp rác, chất thải rắn bị ô nhiễm nặng nề, dẫn đến việc mất đất canh tác.
Những thay đổi này cũng dẫn tới sự thay đổi về mặt sinh thái học, dẫn đến sự phá vỡ
cân bằng của hệ sinh thái.

116
Tác động lên sức khoẻ con ngời:
Các mối nguy cơ gây ô nhiễm không khí, nớc, đất nói trên cũng ảnh hởng trực
tiếp đến sức khoẻ của con ngời, đặc biệt của dân c quanh khu vực có chứa chất thải
rắn. Việc ô nhiễm này cũng làm ảnh hởng tới nguồn thức ăn: các chất ô nhiễm có
trong đất, nớc, không khí nhiễm vào các loại thực phẩm của con ngời: rau, động vật

v.v qua lới và chuỗi thức ăn những loại chất ô nhiễm này tác động xấu tới sức khoẻ
con ngời.
Các bãi chôn lấp rác là nơi phát sinh các bệnh truyền nhiễm: tả, lỵ, thơng hàn
v.v Các loại côn trùng trung gian truyền bệnh (ruồi, muỗi, gián) và các loại gặm
nhấm (chuột) cũng a thích sống ở những khu vực có chứa rác thải.
Các bãi chôn lấp rác cũng mang nhiều mối nguy cơ cao đối với cộng đồng dân
c làm nghề bới rác. Các vật sắc nhọn, thuỷ tinh vỡ, bơm kim tiêm cũ v.v. có thể là
mối đe dọa nguy hiểm với sức khoẻ con ngời khi họ dẫm phải hoặc bị cào xớc vào
tay chân. Các loại hoá chất độc hại và nhiều chất thải nguy hại khác cũng là mối đe
dọa đối với những ngời làm nghề này. Các động vật sống ở các bãi rác cũng có thể
gây nguy hiểm tới sức khoẻ của những ngời tham gia bới rác.
Các bãi rác cũng làm thay đổi thẩm mĩ theo hớng tiêu cực, làm ảnh hởng đến
mĩ quan khu vực quanh bãi rác, tạo ra những mùi khó chịu cho kho vực xung quanh.
5. QUảN Lý CHấT THảI RắN
Cơ quan Bảo vệ Môi trờng Hoa Kỳ khuyến cáo rằng: để quản lý chất thải rắn
có hiệu quả, cần thực hiện đúng theo trật tự các bớc sau:
Giảm thiểu nguồn phát sinh.
Tái sử dụng - tái chế.
Thu hồi năng lợng từ chất thải rắn.
Chôn lấp hợp vệ sinh.
5.1. Giảm thiểu nguồn phát sinh
Để giảm thiểu nguồn phát sinh, cần thay thế hoặc loại bỏ hẳn những chất tạo ra
một lợng lớn chất thải bằng các chất tạo ra ít hoặc không tạo ra chất thải. Thay đổi
công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại để tạo ra ít chất thải hơn.

5.2. Tái sử dụng - tái chế
Để tái sử dụng - tái chế, cần phải phân loại, cách ly chất thải rắn ngay tại nguồn
phát sinh, không để các chất thải độc hại lẫn với các chất thải không độc hại. Đối với

117

các chất thải độc hại, cần có biện pháp xử lý riêng phù hợp. Đối với chất thải không
độc hại, chúng ta có thể tái sử dụng hoặc tái chế. Chẳng hạn, đối với các chai, lọ thuỷ
tinh, các thùng, đồ chứa nhựa/ kim loại có thể sử dụng lại để dùng vào mục đích khác.
Một số loại chất thải rắn khác có thể tái chế để sử dụng cho mục đích khác: tái chế
nhựa, thuỷ tinh, kim loại v.v
5.3. Thu hồi năng lợng từ chất thải rắn
Sử dụng lò đốt rác ở các khu đô thị là một biện pháp xử lý chất thải rắn. Nhiệt
độ trong lò rất cao (khoảng trên 1000-1200
o
C) để phòng ngừa ô nhiễm không khí.
Nhợc điểm của biện pháp này là chi phí xây dựng các lò đốt này rất cao và bắt buộc
phải có bộ phận xử lý tro. Việc đốt cháy chất thải rắn có thể tạo ra điện, nhiệt, hơi
nóng v.v để cung cấp cho ngành công nghiệp, khu dân c, sởi ấm các khu nhà cao
tầng v.v Việc thu hồi năng lợng này có thể giúp giảm bớt chi phí cho các lò đốt
hoạt động. Công nghệ này gọi là thu hồi năng lợng hoặc từ chất thải tới năng lợng.
5.4. Chôn lấp vệ sinh
Đây là phơng pháp xử lý chất thải rắn phổ biến nhất hiện nay. Trong một bãi
chôn lấp vệ sinh, chất thải rắn đợc chôn lấp và phủ đất lên trên. Xem chi tiết ở mục
7. Xử lý chất thải rắn tại Việt Nam (về chôn lấp rác).
6. THU GOM Và VậN CHUYểN CHấT THảI RắN
Thu gom là một khâu quan trọng trong quản lý chất thải rắn. Hiện tại ở Việt
Nam có hai phơng hớng thu gom chính.
Thu gom rác từ đờng phố do công nhân vệ sinh làm nhiệm vụ quét đờng. Các
công nhân dùng phơng tiện xe đẩy để thu gom rác. Rác đợc mang đến một
điểm tập trung rồi có xe chở rác mang đến điểm xử lý. Hiện nay tại các thành
phố lớn có xe chở rác chuyên dụng để thu gom rác theo giờ quy định.
Thu gom rác từ các khu tập thể: mỗi khu dân c có một địa điểm đổ rác hay bể
đựng rác. Các gia đình hoặc cơ quan mang rác đến đổ vào điểm tập kết rồi sau
đó có xe chở rác đi.
Việc vận chuyển rác chủ yếu là do xe chở rác chuyên dụng của các công ty vệ

sinh môi trờng đảm nhận. Công việc này thờng đợc thực hiện vào ban đêm.
Phân bùn từ các bể phốt định kỳ có các xe hút phân đến hút chở ra ngoại thành.

7. Xử Lý CHấT THảI RắN TạI VIệT NAM
Cho mãi tới tận gần đây, chất thải rắn vẫn đợc đổ đống ngoài bãi rác, chôn, đốt
và một số loại rác thải từ nhà bếp, nhà hàng đợc sử dụng làm thức ăn cho động vật.

118
Cộng đồng vẫn cha nhận thức đợc mối liên hệ giữa chất thải rắn với chuột, ruồi,
gián, muỗi, rận, ô nhiễm đất và nớc. Ngời ta không biết rằng, chất thải rắn trong các
bãi rác là nơi sinh sống của một số loại véc-tơ truyền các bệnh: sốt thơng hàn, sốt
vàng, sốt xuất huyết, sốt rét, tả v.v Do vậy, những phơng pháp xử lý chất thải rắn rẻ
nhất, nhanh nhất và thuận tiện nhất đã đợc sử dụng. Các khu vực nông thôn và các thị
trấn nhỏ sử dụng các bãi rác ngoài trời. Các thị xã và các thành phố lớn hơn sử dụng
các lò đốt nhỏ. Mãi sau này, chôn lấp vệ sinh mới trở thành một biện pháp xử lý chất
thải rắn đợc nhiều nơi lựa chọn. ở Việt Nam, có nhiều phơng pháp xử lý rác nhng
chủ yếu là đổ vào bãi rác, chôn lấp rác, ủ rác và đốt rác.
7.1. Bi rác
Đổ rác vào bãi không có xử lý là một biện pháp hiện tại còn phổ biến ở Việt
Nam. Những đô thị có một hoặc nhiều khu đất đợc dùng để đổ rác. Rác đợc đổ chất
đống gây ô nhiễm đất, nguồn nớc ngầm, ô nhiễm không khí và là nơi c trú của các
vật chủ trung gian truyền bệnh nh ruồi, muỗi chuột, gián. Đây là phơng pháp rẻ tiền
nhng rất nguy hiểm về mặt sức khoẻ.
7.2. Chôn lấp rác
Phơng pháp chôn lấp rác đợc áp dụng ở nhiều nớc phát triển. Ngời ta chọn
các vùng đồi núi, thung lũng để bố trí bãi chôn lấp. Đáy của bãi rác đợc ngăn cách
với đất và nớc ngầm bằng những lớp chất dẻo không thấm nớc. Rác đợc đổ vào các
ô chia sẵn. Khi các ô rác này đầy thì đợc lấp lại bằng đất và dùng xe lu nén chặt lại
sau đó đổ tiếp lên cho đến khi đầy hố rồi phủ đất (khoảng 60cm) và trồng cây lên trên.
Nớc trong bãi chôn lấp đợc thu gom về một chỗ và đợc xử lý trớc khi cho vào

sông, hồ. Đây là phơng pháp xử lý chất thải hợp vệ sinh nhng tốn kém. Thành phố
Hà Nội hiện đã xây dựng bãi chôn lấp rác tại Sóc Sơn với thời gian sử dụng
30 năm.
7.3. Xử lý chất thải rắn bằng phơng pháp ủ phân (composting)
Để xử lý chất thải và tận dụng nguồn phân bón cho nông nghiệp ngời ta xây
dựng các xí nghiệp xử lý rác thải thành phân trộn compôt. Hiện tại, ở Việt Nam có hai
nhà máy rác ở Cầu Diễn (Hà Nội) và Hóc Môn (Thành phố Hồ Chí Minh). Sau một
quá trình ủ, lên men, chất thải hữu cơ trở nên vô hại và là nguồn phân bón tốt. Tuy
vậy, công suất các nhà máy này còn rất nhỏ, không đáp ứng nổi nhu cầu xử lý chất
thải của các thành phố lớn. Về mặt vệ sinh, phơng pháp composting có thể đảm bảo
nhiệt độ lên tới 60C - 65C, do đó tiêu diệt đợc hầu hết mầm bệnh và trứng
giun sán.
7.4. Đốt rác

119
Phơng thức đốt có thể giảm thể tích xuống tới 75%, do đó tiết kiệm đợc diện
tích đất chôn lấp. Quá trình đốt cũng tiêu diệt đợc toàn bộ vi trùng gây bệnh. Nhiệt
lợng đốt rác có thể đợc tái sử dụng để đun nớc nóng cho các nhà tắm công cộng.
Nhợc điểm của phơng pháp này là chi phí cao và có nguy cơ ô nhiễm không khí.
7.5. Thu hồi và tái sử dụng
Trong chất thải rắn thành phố vẫn còn chứa nhiều vật liệu có thể thu hồi và tái
sử dụng. ở Việt Nam vấn đề này cha đợc chú trọng lắm vì hiện tại chúng ta có một
số lợng ngời đào bới rác và thu hồi phế liệu rất đông đảo. Tuy vậy, việc quản lý sức
khoẻ của những ngời bới rác lại là một mối quan tâm lớn.
8. QUảN Lý CHấT THảI RắN Y Tế
8.1. ảnh hởng của chất thải rắn y tế lên sức khỏe
8.1.1. Những nguy cơ của chất thải rắn y tế
Chất thải rắn y tế bao gồm một lợng lớn chất thải nói chung và một lợng nhỏ
hơn các chất thải có tính nguy cơ cao. Chất thải rắn y tế có thể tạo nên những mối
nguy cơ cho sức khỏe con ngời.

a. Các kiểu nguy cơ
Việc tiếp xúc với các chất thải rắn y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thơng.
Bản chất mối nguy cơ của chất thải rắn y tế có thể đợc tạo ra do một hoặc nhiều đặc
trng cơ bản sau đây:
Chất thải y tế chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm.
Là chất độc hại có trong rác thải y tế.
Các loại hoá chất và dợc phẩm nguy hiểm.
Các chất thải phóng xạ.
Các vật sắc nhọn.
b. Những đối tợng có thể tiếp xúc với nguy cơ
Tất cả các cá nhân tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những ngời có nguy
cơ tiềm tàng, bao gồm những ngời làm việc trong các cơ sở y tế, những ngời ở
ngoài các cơ sở y tế làm nhiệm vụ vận chuyển các chất thải y tế và những ngời trong
cộng đồng bị phơi nhiễm với chất thải do hậu quả của sự sai sót trong khâu quản lý
chất thải. Dới đây là những nhóm chính có nguy cơ cao:
Bác sĩ, y tá, hộ lý và các nhân viên hành chính của bệnh viện.
Bệnh nhân điều trị nội trú hoặc ngoại trú.

120
Khách tới thăm hoặc ngời nhà bệnh nhân.
Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ phục vụ cho các cơ sở khám
chữa bệnh và điều trị, chẳng hạn nh: giặt là, lao công, vận chuyển bệnh nhân.
Những ngời làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải (tại các bãi đổ rác thải, các
lò đốt rác) và những ngời bới rác, thu gom rác.
Ngoài ra còn có các mối nguy cơ liên quan với các nguồn chất thải y tế quy mô
nhỏ, rải rác, dễ bị bỏ quên. Chất thải từ những nguồn này có thể sản sinh ra từ những
tủ thuốc gia đình hoặc do những kẻ tiêm chích ma tuý vứt ra.
8.1.2. Các nguy cơ từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn
Các vật thể trong thành phần của chất thải rắn y tế có thể chứa đựng một lợng
rất lớn bất kỳ tác nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm nào. Các tác nhân gây bệnh

này có thể xâm nhập vào cơ thể ngời thông qua các cách thức sau:
Qua da (qua một vết thủng, trầy sớc hoặc vết cắt trên da).
Qua các niêm mạc (màng nhầy).
Qua đờng hô hấp (do xông, hít phải).
Qua đờng tiêu hoá.
Các ví dụ về sự nhiễm khuẩn gây ra do tiếp xúc với chất thải y tế đợc liệt kê
trong bảng 5.2 qua đờng truyền là các dịch thể nh máu, dịch não tuỷ, chất nôn,
nớc mắt, tuyến nhờn.
Một mối nguy cơ rất lớn hiện nay đó là virus gây hội chứng suy giảm miễn dịch
(HIV) cũng nh các virus lây qua đờng máu nh viêm gan B, C có thể lan truyền ra
cộng đồng qua con đờng rác thải y tế. Những virus này thờng lan truyền qua vết
tiêm hoặc các tổn thơng do kim tiêm có nhiễm máu ngời bệnh.
Do sự quản lý yếu kém các chất thải y tế tại các cơ sở y tế, một số vi khuẩn đã
có tính đề kháng cao đối với các loại thuốc kháng sinh và các hoá chất sát khuẩn.
Điều này đã đợc minh chứng, chẳng hạn các plasmit từ các động vật thí nghiệm có
trong chất thải y tế đã đợc truyền cho vi khuẩn gốc qua hệ thống xử lý chất thải. Hơn
nữa, vi khuẩn E. coli kháng thuốc đã cho thấy nó vẫn còn sống trong môi trờng bùn
hoạt mặc dù ở đó có vẻ nh không phải là môi trờng thuận lợi cho loại vi sinh vật
này trong điều kiện thông thờng của hệ thống thải bỏ và xử lý rác, nớc.
Độ tập trung của các tác nhân gây bệnh và các vật sắc nhọn bị nhiễm các vi sinh
vật gây bệnh (đặc biệt là những mũi kim tiêm qua da) trong rác thải y tế thực sự là
những mối nguy cơ tiềm ẩn đối với sức khoẻ. Những vật sắc nhọn trong rác thải y tế
đợc coi là một loại rác thải rất nguy hiểm bởi nó gây những tổn thơng kép: vừa có
khả năng gây tổn thơng lại vừa có khả năng lây truyền các bệnh truyền nhiễm.
Bảng 5.2. Một số ví dụ về sự nhiễm khuẩn gây ra do tiếp xúc với các loại chất thải y tế,
các loại vi sinh vật gây bệnh và phơng tiện lây truyền

121
Loại nhiễm khuẩn Vi sinh vật gây bệnh Phơng tiện lây truyền
Nhiễm khuẩn tiêu hoá Nhóm Enterobacteria: Salmonella,

Shigella spp.; Vibrio cholerae; các
loại giun, sán
Phân và /hoặc chất nôn
Nhiễm khuẩn hô hấp Vi khuẩn lao, virus sởi,
Streptococcus pneumoniae, bạch
hầu, ho gà.
Các loại dịch tiết, đờm
Nhiễm khuẩn mắt Virus Herpes Dịch tiết của mắt
Nhiễm khuẩn sinh dục Neisseria gonorrhoeae, virus
herpes
Dịch tiết sinh dục
Nhiễm khuẩn da Streptococcus spp. Mủ
Bệnh than Bacillus anthracis Chất tiết của da (mồ hôi,
chất nhờn)
Viêm màng não mủ do
não mô cầu
Não mô cầu (Neisseria meningitidis) Dịch não tuỷ
AIDS HIV Máu, chất tiết sinh dục
Sốt xuất huyết Các virus: Junin, Lassa, Ebola,
Marburg
Tất cả các sản phẩm
máu và dịch tiết
Nhiễm khuẩn huyết do tụ
cầu
Staphylococcus spp. Máu
Nhiễm khuẩn huyết (do
các loại vi khuẩn khác
nhau)
Nhóm tụ cầu khuẩn
(Staphylococcus spp.

Staphylococcus aereus);
Enterobacter; Enterococcus;
Klebssiella; Streptococcus spp.
Máu
Nấm Candida
Candida albican
Máu
Viêm gan A Virus viêm gan A Phân
Viêm gan B, C Virus viêm gan B, C Máu, dịch thể
8.1.3. Những mối nguy cơ từ loại chất thải hoá chất và dợc phẩm
Nhiều loại hoá chất và dợc phẩm đợc sử dụng trong các cơ sở y tế là những
mối nguy cơ đe dọa sức khoẻ con ngời (các độc dợc, các chất gây độc gen, chất ăn
mòn, chất dễ cháy, các chất gây phản ứng, gây nổ, gây sốc phản vệ). Các loại chất này
thờng chiếm số lợng nhỏ trong chất thải y tế, với số lợng lớn hơn có thể tìm thấy
khi chúng quá hạn, d thừa hoặc hết tác dụng cần vứt bỏ. Những chất này có thể gây
nhiễm độc khi tiếp xúc cấp tính và mạn tính, gây ra các tổn thơng nh bỏng, ngộ
độc. Sự nhiễm độc này có thể là kết quả của quá trình hấp thụ hoá chất hoặc dợc
phẩm qua da, qua niêm mạc, qua đờng hô hấp hoặc đờng tiêu hoá. Việc tiếp xúc với
các chất dễ cháy, chất ăn mòn, các hoá chất gây phản ứng (formaldehyd và các chất

122
dễ bay hơi khác) có thể gây nên những tổn thơng tới da, mắt hoặc niêm mạc đờng
hô hấp. Các tổn thơng phổ biến hay gặp nhất là các vết bỏng.
Các chất khử trùng là những thành phần đặc biệt quan trọng của nhóm này,
chúng thờng đợc sử dụng với số lợng lớn và thờng là những chất ăn mòn. Cũng
cần phải lu ý rằng những loại hoá chất gây phản ứng có thể hình thành nên các hỗn
hợp thứ cấp có độc tính cao.
Các loại hoá chất diệt côn trùng quá hạn lu trữ trong các thùng bị rò rỉ hoặc túi
rách thủng có thể ảnh hởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khoẻ của bất cứ ai tới gần
và tiếp xúc với chúng. Trong những trận ma lớn, các hoá chất diệt côn trùng bị rò rỉ

có thể thấm sâu vào đất và gây ô nhiễm nớc ngầm. Sự nhiễm độc có thể xảy ra do
tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm, do hít phải hơi độc hoặc do uống phải nớc hoặc ăn
phải thức ăn đã bị nhiễm độc. Các mối nguy cơ khác có thể là các vụ hỏa hoạn hoặc ô
nhiễm do việc xử lý chất thải không đúng cách, chẳng hạn nh thiêu huỷ hoặc
chôn lấp.
Các sản phẩm hoá chất đợc thải thẳng vào hệ thống cống thải có thể gây nên
các ảnh hởng bất lợi tới hoạt động của hệ thống xử lý nớc thải sinh học hoặc gây
ảnh hởng độc hại tới hệ sinh thái tự nhiên nhận đợc sự tới tiêu bằng nguồn nớc
này. Những vấn đề tơng tự nh vậy cũng có thể bị gây ra do các sản phẩm của quá
trình bào chế dợc phẩm bao gồm các kháng sinh và các loại thuốc khác, do các kim
loại nặng nh thuỷ ngân, phenol và các dẫn xuất, các chất khử trùng và tẩy uế.
8.1.4. Những nguy cơ từ chất thải gây độc gen (genotoxic)
Đối với các nhân viên y tế chịu trách nhiệm tiếp xúc và xử lý loại chất thải gây
độc gen, mức độ ảnh hởng của những mối nguy cơ bị chi phối bởi sự kết hợp giữa
bản chất của chất độc và phạm vi, khoảng thời gian tiếp xúc với chất độc đó. Quá trình
tiếp xúc với các chất độc trong công tác y tế có thể xảy ra trong lúc chuẩn bị hoặc
trong quá trình điều trị bằng các thuốc đặc biệt hoặc bằng hoá trị liệu. Những phơng
thức tiếp xúc chính là hít phải dạng bụi hoặc dạng phun sơng qua đờng hô hấp; hấp
thụ qua da; qua đờng tiêu hoá do ăn phải thực phẩm nhiễm thuốc, hoá chất hoặc chất
bẩn có tính độc. Việc nhiễm độc qua đờng tiêu hoá là kết quả của những thói quen
xấu chẳng hạn nh dùng miệng để hút ống pipet trong khi định lợng dung dịch. Mối
nguy hiểm cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch thể và các chất tiết của
những bệnh nhân đang đợc điều trị bằng hoá trị liệu.
Độc tính đối với tế bào của nhiều loại thuốc chống ung th là tác động đến các
chu kỳ đặc biệt của tế bào, nhằm vào các quá trình đặc biệt trong nội bào nh quá
trình tổng hợp ADN hoặc phân bào nguyên phân. Các thuốc chống ung th khác,
chẳng hạn nh nhóm alkyl hoá, không phải là pha đặc hiệu, chỉ biểu hiện độc tính tại
một vài điểm trong chu kỳ tế bào. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nhiều loại
thuốc chống ung th lại gây nên ung th và gây đột biến. Khối u thứ phát, xảy ra sau


123
khi ung th nguyên phát đã bị tiêu diệt, đợc biết hình thành do sự kết hợp của các
công thức hoá trị liệu.
Nhiều loại thuốc có độc tính gây kích thích cao độ và gây nên những hậu quả
huỷ hoại cục bộ sau khi tiếp xúc trực tiếp với da hoặc mắt (bảng 5.3). Chúng cũng có
thể gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu hoặc viêm da.
Cần phải đặc biệt cẩn thận trong việc sử dụng và vận chuyển chất thải genotoxic,
việc đào thải những chất thải nh vậy vào môi trờng có thể gây nên những hậu quả
sinh thái thảm khốc.
Bảng 5.3. Các thuốc độc hại tế bào gây nguy hiểm cho mắt và da
Nhóm alkyl hoá:
Các thuốc gây rộp da
(
*
)
Aclarubicin, chlormethin, cisplatin, mitomycin
Các thuốc gây kích thích Carmustin, cyclophosphamid, dacarbazin, ifosphamid,
melphalan, streptozocin, thiotepa
Nhóm thuốc xen kẽ
Các thuốc gây rộp da Asacrin, dactinomycin, daunorubicin, doxorubicin,
epirubicin, pirarubicin, zorubicin
Các thuốc gây kích thích Mitoxantron
Các alkaloid thuộc nhóm vinca và các dẫn xuất
Các thuốc gây rộp da Vinblastin, vincristin, vindesin, vinorelbin
Epipodophyllotoxins.
Các thuốc gây kích thích Teniposid
(
*
)
Tạo thành các mụn nớc


8.1.5. Những nguy cơ từ các chất thải phóng xạ
Loại bệnh gây ra do chất thải phóng xạ đợc xác định bởi loại chất thải và phạm
vi tiếp xúc. Nó có thể là đau đầu, hoa mắt, chóng mặt và nôn nhiều bất thờng. Bởi
chất thải phóng xạ cũng nh loại chất thải dợc phẩm, là một loại độc hại gen, nó
cũng có thể ảnh hởng đến các yếu tố di truyền. Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ có
hoạt tính cao, ví dụ nh các nguồn phóng xạ của các phơng tiện chẩn đoán (máy X
quang, máy chụp cắt lớp) có thể gây ra một loạt các tổn thơng (chẳng hạn nh phá
huỷ các mô, từ đó đòi hỏi phải dẫn đến việc xử lý loại bỏ hoặc cắt cụt các phần cơ thể)
Các nguy cơ từ những loại chất thải có hoạt tính thấp có thể phát sinh do việc
nhiễm xạ trên phạm vi bề mặt của các vật chứa, do phơng thức hoặc khoảng thời gian
lu giữ loại chất thải này. Các nhân viên y tế hoặc những ngời làm nhiệm vụ thu gom
và vận chuyển rác phải tiếp xúc với loại chất thải phóng xạ này là những ngời thuộc
nhóm có nguy cơ cao.

124
8.1.6. Tính nhậy cảm xã hội
Ngoài việc lo ngại đối với những mối nguy cơ tác động lên sức khoẻ, cộng đồng
thờng cũng rất nhạy cảm với những ấn tợng khi nhìn thấy loại chất thải thuộc về
giải phẫu, các bộ phận của cơ thể ngời bị cắt bỏ nh tứ chi, rau thai bào nhi.
Đối với một số nền văn hoá, đặc biệt là ở châu á, những niềm tin tôn giáo và
đời sống tâm linh đòi hỏi các phần của cơ thể phải đợc trả lại cho gia đình ngời
bệnh trong những chiếc quan tài nhỏ và đợc mai táng trong nghĩa địa.
8.2. ảnh hởng của chất thải y tế đối với sức khỏe cộng đồng
8.2.1. ảnh hởng của loại chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn
Đối với những bệnh nguy hiểm do virus gây ra nh HIV/AIDS, viêm gan B hoặc
C, các nhân viên y tế, đặc biệt là các y tá là những đối tợng có nguy cơ nhiễm cao
nhất, do họ phải thờng xuyên tiếp xúc với những vật sắc nhọn bị nhiễm máu bệnh
nhân gây nên. Các nhân viên bệnh viện khác và những ngời vận hành quản lý chất
thải xung quanh bệnh viện cũng có nguy cơ đáng kể, chẳng hạn nh những nhân viên

quét dọn, những ngời bới rác tại các bãi đổ rác (mặc dù những mối nguy cơ này
không có tài liệu đáng tin cậy để chứng minh). Nguy cơ của loại bệnh truyền nhiễm
này trong số các bệnh nhân và cộng đồng thấp hơn nhiều.
Các trờng hợp tai nạn riêng lẻ hoặc nhiễm trùng thứ phát do chất thải y tế gây
ra đã đợc chứng minh bởi những tài liệu đáng tin cậy. Tuy vậy, nhìn chung, rất khó
đánh giá trực tiếp ảnh hởng của chất thải rắn y tế, đặc biệt là ở các nớc đang
phát triển.
Tỷ lệ các tổn thơng hàng năm do các vật sắc nhọn trong chất thải y tế và dịch
vụ vệ sinh môi trờng cả trong và ngoài các bệnh viện gây ra đã đợc cơ quan đăng ký
các độc chất và Bệnh tật Hoa Kỳ (ATSDR) đánh giá. Nhiều tổn thơng gây ra do kim
tiêm trớc khi vứt bỏ vào các thùng chứa, do những thùng chứa đó không kín hoặc
đợc làm bằng những loại vật liệu dễ bị rách, thủng.
Một số nghiên cứu tại Mỹ đã cho thấy, số nhiễm virus viêm gan B hàng năm ở
Mỹ do tiếp xúc với chất thải y tế vào khoảng từ 162 đến 321 ca so với tổng số 300.000
trờng hợp do tất cả các nguyên nhân mỗi năm.
Có những dữ liệu về các trờng hợp nhiễm trùng khác liên quan tới chất thải y tế
nhng không đầy đủ để có thể cho phép đa ra bất kỳ một kết luận nào. Nhiều khi dựa
trên cơ sở các chỉ số viêm gan B cho thấy tất cả các nhân viên làm nhiệm vụ tiếp xúc
và vận chuyển chất thải y tế nên đợc tiêm chủng chống lại bệnh tật.
Nh đã trình bày ở trên, y tá và những nhân viên bệnh viện là những nhóm nguy
cơ chính bị tổn thơng, tỷ lệ tổn thơng hàng năm của những đối tợng này vào
khoảng 10 - 20 phần nghìn. Các nhân viên lao công và nhân viên xử lý chất thải là
những đối tợng có tỷ lệ tổn thơng nghề nghiệp cao nhất trong số các nhân viên làm

125
tại các cơ sở y tế, tỷ lệ hàng năm ở Mỹ là 180 phần nghìn. Cho đến thời điểm hiện nay
thì ở Việt Nam vẫn cha có một công trình nghiên cứu nào phản ảnh đợc tình trạng
tổn thơng do nghề nghiệp của các nhân viên y tế.
8.2.2. ảnh hởng của chất thải hoá chất và dợc phẩm
Trong khi không có tài liệu khoa học nào cho thấy mức độ phổ biến của bệnh tật

gây ra do chất thải hoá chất hoặc dợc phẩm từ các bệnh viện đối với cộng đồng, thì
nhiều trờng hợp nhiễm độc quy mô lớn do chất thải hoá chất công nghiệp đã xảy ra.
Ngoài ra đã có nhiều vụ tổn thơng hoặc nhiễm độc do việc vận chuyển hoá chất và
dợc phẩm trong bệnh viện không bảo đảm. Các dợc sĩ, bác sĩ gây mê, y tá, kỹ thuật
viên, cán bộ hành chính có thể có nguy cơ mắc các bệnh đờng hô hấp, bệnh ngoài da
do tiếp xúc với các loại hoá chất dạng chất lỏng bay hơi, dạng phun sơng và các dung
dịch khác. Để hạn chế tới mức thấp nhất loại nguy cơ nghề nghiệp này nên thay thế
hoặc giảm lợng hoá chất độc hại xuống bất cứ lúc nào có thể và cung cấp các phơng
tiện bảo hộ cho tất cả những ngời tiếp xúc trực tiếp với hoá chất. Những nơi sử dụng
và bảo quản loại hoá chất nguy hiểm cũng nên đợc thiết kế hệ thống thông gió phù
hợp, huấn luyện các biện pháp phòng hộ và các trờng hợp cấp cứu cho những ngời
có liên quan.
8.2.3. Những ảnh hởng của các chất thải gây độc gen
Cần phải có thời gian để thu thập những dữ liệu về ảnh hởng lâu dài đối với sức
khoẻ của các chất thải gây độc gen trong y tế, bởi vì rất khó đánh giá ảnh hởng của
loại độc chất phức tạp này lên mối nguy cơ đối với con ngời. Một nghiên cứu đợc
tiến hành ở Phần Lan đã tìm ra một dấu hiệu liên quan giữa sảy thai trong 3 tháng đầu
của thai kỳ và tiếp xúc nghề nghiệp với các thuốc chống ung th, nhng các nghiên
cứu tơng tự tại Pháp và Mỹ lại không xác nhận kết quả này.
Có rất nhiều nghiên cứu đã điều tra mối liên quan giữa nguy cơ đối với sức khoẻ
và việc tiếp xúc với thuốc chống ung th, biểu hiện của mối liên quan này là sự tăng
đột biến các thành phần trong nớc tiểu ở những ngời đã tiếp xúc và tăng nguy cơ
sẩy thai. Đã có một số nghiên cứu cho thấy rằng những nhân viên quét dọn trong bệnh
viện phải tiếp xúc với nguy cơ, có lợng nớc tiểu tăng vợt trội so với những y tá và
các dợc sĩ trong bệnh viện đó. Mức độ tập trung các thuốc gây độc gen trong bầu
không khí bên trong bệnh viện cũng đã đợc xem xét trong một số nghiên cứu nhằm
đánh giá các ảnh hởng đến sức khoẻ với việc tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ. Hiện
vẫn cha có một bằng chứng khoa học nào ghi nhận những hậu quả bất lợi đối với sức
khoẻ do công tác quản lý yếu kém đối với các chất thải gây độc gen.
8.2.4. Những ảnh hởng của chất thải phóng xạ


126
Nhiều tai nạn đã đợc ghi nhận do việc thanh toán và xử lý các nguyên liệu
trong trị liệu hạt nhân cùng với số lợng lớn những ngời bị tổn thơng do tiếp xúc
với yếu tố nguy cơ. ở Brazil ngời ta đã phân tích và có đầy đủ tài liệu để chứng minh
một trờng hợp ảnh hởng của ung th lên cộng đồng có liên quan tới việc rò rỉ chất
thải phóng xạ trong bệnh viện. Một bệnh viện chuyên về trị liệu bằng phóng xạ trong
khi chuyển địa điểm đã làm thất thoát tại địa điểm cũ một nguồn xạ trị đã đợc niêm
phong; một ngời dân chuyển đến địa điểm này đã nhặt đợc nó và mang về nhà. Hậu
quả là đã có 249 ngời tiếp xúc với nguồn phóng xạ này, nhiều ngời trong số đó hoặc
đã chết hoặc gặp hàng loạt các vấn đề về sức khoẻ (IAEA-1988). Ngoại trừ biến cố
xảy ra tại Brazil, còn lại không có dữ liệu khoa học đáng tin cậy nào có giá trị về ảnh
hởng của chất thải phóng xạ bệnh viện. Có thể đã có nhiều trờng hợp tiếp xúc với
chất thải phóng xạ bệnh viện có liên quan đến các vấn đề về sức khoẻ, song không
đợc ghi nhận. Chỉ có những báo cáo các vụ tai nạn có liên quan đến việc tiếp xúc với
các chất phóng xạ ion hoá trong các cơ sở điều trị do hậu quả từ các thiết bị X quang
hoạt động không an toàn, do việc chuyên chở các dung dịch xạ trị không đảm bảo
hoặc thiếu các biện pháp giám sát trong xạ trị liệu.
8.3. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế nguy hại
8.3.1. Phân loại chất thải rắn y tế theo nguồn phát sinh
Định nghĩa: chất thải rắn y tế nguy hại là chất thải dạng rắn phát sinh trong các
cơ sở y tế, từ các hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng bệnh,
nghiên cứu, đào tạo.
Việc phân loại và xác định chất thải y tế có thể đợc tóm tắt nh sau:
Chất thải lâm sàng bao gồm các nhóm A (chất nhiễm khuẩn: vật liệu thấm máu,
dịch, băng gạc, bông băng, túi đựng dịch dẫn lu), nhóm B (các vật sắc nhọn),
nhóm C (chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phát sinh từ các phòng xét nghiệm
nh găng tay, lam kính, bệnh phẩm), nhóm D (chất thải dợc phẩm bao gồm
dợc phẩm quá hạn, bị nhiễm khuẩn, thuốc gây độc tế bào) và nhóm E (các mô
và cơ quan ngời, động vật).

Chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chẩn đoán, hoá trị liệu và nghiên
cứu nh ống tiêm, bơm tiêm, giấy thấm, gạc sát khuẩn
Chất thải hoá học bao gồm các chất không gây nguy hại và nguy hại nh
formaldehyd, hoá chất quang học, các dung môi, hoá chất dùng để tiệt khuẩn y
tế và dung dịch làm sạch, khử khuẩn.
Các bình chứa khí có áp suất.
Chất thải sinh hoạt nh giấy loại, vật liệu đóng gói, thức ăn d thừa và chất thải
ngoại cảnh.
8.3.2. Khối lợng chất thải phát sinh

127
Khối lợng chất thải y tế thay đổi theo từng khu vực địa lý, theo mùa và phụ
thuộc vào các yếu tố khách quan khác nh:
Cơ cấu bệnh tật, dịch bệnh.
Loại, quy mô bệnh viện.
Lợng bệnh nhân khám, chữa bệnh; tỷ lệ bệnh nhân nội và ngoại trú.
Điều kiện kinh tế xã hội của khu vực.
Phơng pháp và thói quen của nhân viên y tế trong việc khám, điều trị và chăm sóc.
Số lợng ngời nhà đợc phép đến thăm bệnh nhân.
Tham khảo tài liệu nớc ngoài cho thấy khối lợng chất thải hàng năm thay đổi
theo mức thu nhập (các bảng 5.4, 5.5 và 5.6).
Bảng 5.4. Lợng chất thải theo đầu ngời
Nguồn thải Mức độ thải
Nớc có thu nhập cao
Chất thải bệnh viện nói chung 1,2 - 12 kg/ngời
Chất thải y tế nguy hại 0,4 - 5,5 kg/ngời
Nớc có thu nhập trung bình
Chất thải bệnh viện nói chung 0,8 - 6kg/ ngời
Chất thải y tế nguy hại 0,3- 0,4kg/ngời
Nớc có thu nhập thấp

Chất thải bệnh viện nói chung 0, 5- 3kg/ngời
Lợng chất thải thay đổi theo từng loại bệnh viện
Bệnh viện đại học y dợc 4 1- 8,7kg/giờng/ngày
Bệnh viện đa khoa 2,1- 4,2kg/giờng/ngày
Bệnh viện huyện 0,5 - 1,8kg/giờng/ngày
Trung tâm y tế 0,05-0,2kg/giờng/ngày
Trong mỗi bệnh viện, khối lợng chất thải bệnh viện phát sinh khác nhau từ các
khoa, phòng
Điều dỡng y tế 1,5 kg/giờng/ngày
Khoa điều trị 1,5 - 3 kg/giờng/ngày
Khoa hồi sức cấp cứu 3 - 5kg /giờng/ngày
Bệnh phẩm 0,2kg/giờng/ngày
Bảng 5.5. Lợng chất thải phát sinh tại các nớc trên thế giới

128
Tuyến bệnh viện Tổng lợng chất thải y tế
(kg/giờng bệnh/ngày)
Chất thải y tế nguy hại
(kg/giờng bệnh/ngày)
Bệnh viện trung ơng 4,1 - 8,7 0,4 -1,6
Bệnh viện tỉnh 2,1 - 4,2 0,2 - 1,1
Bệnh viện huyện 0,5 - 1,8 0,1 - 0,4
Bảng 5.6. Lợng chất thải phát sinh tại Việt Nam
Tuyến bệnh viện Tổng lợng chất thải y tế
(kg/giờng bệnh/ngày)
Chất thải y tế nguy hại
(kg/giờng bệnh/ngày)
Bệnh viện trung ơng 0,97 0,16
Bệnh viện tỉnh 0,88 0,14
Bệnh viện huyện 0,73 0,11

Chung 0,86 0,14
Hiện nay (số liệu năm 1999), toàn bộ các cơ sở do ngành y tế quản lý từ bệnh
viện, viện nghiên cứu, khu điều dỡng, nhà hộ sinh, phòng khám đa khoa, phòng
khám chuyên khoa, khu điều trị phong đến trạm y tế xã là 12.772 cơ sở với số giờng
để điều trị, an dỡng trong 1 năm là 174.077 giờng. Trong đó có trên 830 bệnh viện
và viện có giờng (29 bệnh viện trung ơng, 198 bệnh viện tỉnh, 551 bệnh viện huyện
và 58 bệnh viện ngành) với tổng số 104.065 giờng bệnh. Tổng số lần khám bệnh
trong một năm là 127.824.420 ca, số ngời điều trị nội trú là 5.331.241, số ngoại trú
là 4.958.430, số ca phẫu thuật là 1.008.966. Tổng số ngày nằm viện trong một năm
(1999) là 43.782.221. Đấy là cha kể tới các bệnh viện của quân đội, công an, các
bệnh viện liên doanh, phòng khám t nhân. Tổng khối lợng chất thải rắn từ các bệnh
viện đó khoảng 240 tấn mỗi ngày, trong đó từ 12% đến 25 % là chất thải y tế nguy hại
cần phải xử lý đặc biệt. Riêng thành phố Hà Nội mỗi ngày có trên 12 tấn chất thải rắn
bệnh viện cần xử lý. Lợng chất thải rắn bệnh viện ngày càng tăng dần do sự gia tăng
dân số, mức sống, sự nâng cao chất lợng khám chữa bệnh.
8.3.3. Thành phần chất thải rắn bệnh viện
Ngoài bệnh nhân và nhân viên y tế trong bệnh viện của chúng ta hiện nay luôn
có một số lợng ngời nhà đến thăm, trông nom và phục vụ bệnh nhân tơng đơng
hoặc nhiều hơn số lợng bệnh nhân nằm viện. Chính hiện trạng này làm cho hệ thống
xử lý chất thải của bệnh viện hoạt động tới mức quá tải và nhiều khi chính các đối
tợng này góp phần làm phát tán rác thải nguy hiểm ra môi trờng xung quanh.

129
Theo một số kết quả điều tra năm 1998 - 1999 của các đơn vị nghiên cứu, đặc
biệt là của dự án hợp tác giữa Bộ Y tế và WHO, thành phần một số rác thải bệnh viện
ở Việt Nam đợc thống kê trong bảng 5.7.
Bảng 5.7. Thành phần rác thải bệnh viện ở Việt Nam
Thành phần rác thải bệnh viện Tỷ lệ %
Giấy các loại 3
Kim loại, vỏ hộp 0,7

Thuỷ tinh, ống tiêm, chai lọ thuốc, bơm kim tiêm nhựa 3,2
Bông băng, bột bó gãy xơng 8,8
Chai, túi nhựa các loại 10,1
Bệnh phẩm 0,6
Rác hữu cơ 52,57
Đất đá và các vật rắn khác 21,03
Tuy vậy, đấy chỉ là tình hình chung, còn thành phần chất thải rắn cụ thể của
từng bệnh viện phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện cụ thể nh: cấp bệnh viện trung
ơng hay địa phơng, mức thu nhập của khu vực, thói quen tập quán, chế độ thăm
viếng bệnh nhân, loại chuyên khoa v.v.
8.4. Hiện trạng chung về công tác quản lý chất thải rắn y tế nguy hại tại các
bệnh viện trên toàn quốc
8.4.1. Nhận định chung
Phần lớn các bệnh viện ở Việt Nam trong quá trình thiết kế và xây dựng nằm
trong giai đoạn đất nớc còn nghèo, trải qua chiến tranh lại cha có nhận thức đúng
nên đều không có phần xử lý chất thải nghiêm túc, đúng quy trình và ngày nay vấn đề
này đã trở nên bức xúc, gây ô nhiễm, bệnh tật nghiêm trọng cho môi trờng bệnh viện
và xung quanh bệnh viện, gây ra sự không đồng tình của nhân dân mà các cơ quan báo
chí, truyền hình đã phản ánh dới dạng các phóng sự điều tra.
Cơ sở vật chất kỹ thuật để xử lý triệt để loại rác độc hại này thiếu nghiêm trọng.
Việc thu gom và vận chuyển rác phế thải bệnh viện chủ yếu bằng phơng pháp thủ
công và chuyển rác ra các bể rác, thùng chứa rác hở, với thời gian lu trữ chờ chuyển
đi từ 1 đến 7 ngày. Thời gian này đủ để quá trình phân huỷ chất thải diễn ra và gây ô
nhiễm nghiêm trọng, nhất là trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của Việt Nam. Thêm
nữa, với sự tham gia của chuột, bọ, côn trùng và ngời bới rác làm tăng khả năng lây
nhiễm, gây mất vệ sinh ngay tại bệnh viện và môi trờng sống xung quanh.

130
Nhận thức của cộng đồng nói chung và nhân viên y tế nói riêng về những nguy
cơ tiềm ẩn trong chất thải bệnh viện còn rất kém do công tác giáo dục, tuyên truyền

cha đợc chú trọng đúng mức. Hiện tợng dân vào bới rác tại các hố rác của bệnh
viện để thu nhặt ống nhựa, kim tiêm, găng tay phẫu thuật thậm chí do nhân viên y tế
đa rác ra ngoài để tái chế, sử dụng lại diễn ra ở một số nơi đã đợc các cơ quan báo
chí, truyền hình phản ánh chính là do thiếu quản lý chặt chẽ và cha có quy trình xử
lý rác triệt để.
Số lợng bệnh viện và cơ sở khám chữa bệnh rất lớn nên đây là vấn đề không chỉ
của riêng các bệnh viện, vốn thuộc diện các cơ quan hoạt động công ích, rất nghèo về
vốn và quá tải vì các công việc hàng ngày nên sự quan tâm của xã hội và chính phủ
hết sức quan trọng.
Nhà nớc đã tổ chức nhiều đợt tuyên truyền, vận động cán bộ quản lý, chuyên
môn để thấy rõ trách nhiệm trong vấn đề thu gom, phân loại và xử lý sơ bộ, giảm thiểu
độc hại trong khả năng hiện có và bệnh nhân cũng góp phần giữ gìn vệ sinh môi
trờng bệnh viện.
Chất thải tại các bệnh viện thuộc các thành phố thờng đợc ký hợp đồng thu
gom với các công ty môi trờng đô thị hoặc đợc xử lý bằng các biện pháp đốt bằng
các lò đốt thô sơ, không đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trờng hoặc ngâm formaldehyd rồi
tập trung chôn lấp tại các nghĩa trang hoặc trong các khuôn viên bệnh viện. Rất nhiều
phế thải lây nhiễm, độc hại đợc xả trực tiếp ra bãi rác sinh hoạt của thành phố mà
không qua bất kỳ một khâu xử lý cần thiết nào.
Thấy rõ đợc yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện công tác quản lý chất thải y tế tại
các cơ sở khám chữa bệnh của ngành, năm 1998 Bộ Y tế đã thành lập Ban Chỉ đạo xử
lý chất thải bệnh viện với nhiệm vụ giúp Bộ trởng trong công tác chỉ đạo, xây dựng
quy hoạch hệ thống xử lý chất thải bệnh viện trong phạm vi toàn quốc.
Ngày 27/8/1999, Bộ trởng Bộ Y tế đã ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế
và trong thời gian qua Bộ Y tế đã tiến hành nhiều đợt tập huấn, kiểm tra đôn đốc thực
hiện quy chế này. Ngoài ra, nhiều chơng trình nghiên cứu thí điểm các lò đốt,
chơng trình xây dựng quy hoạch tổng thể hệ thống các lò đốt trên toàn quốc đang
đợc
triển khai.
8.4.2. Hiện trạng công tác quản lý chất thải rắn tại các bệnh viện

a. Phân loại chất thải bệnh viện
Đa số (81,25%) bệnh viện đã thực hiện phân loại chất thải ngay từ nguồn nhng
việc phân loại còn phiến diện và kém hiệu quả do nhân viên cha đợc đào tạo. Việc
phân loại cha theo chuẩn mực nh: cha tách vật sắc nhọn ra khỏi chất thải y tế, còn
lẫn nhiều chất thải sinh hoạt vào chất thải y tế và ngợc lại. Hệ thống ký hiệu, màu

131
sắc của túi và thùng đựng chất thải trớc khi ban hành Quy chế quản lý chất thải cha
thống nhất. Còn nhiều bệnh viện (45%) cha tách riêng các vật sắc nhọn ra khỏi chất
thải rắn y tế làm tăng nguy cơ rủi ro cho những ngời trực tiếp vận chuyển và tiêu huỷ
chất thải. Trong số bệnh viện đã tách riêng vật sắc nhọn, một số bệnh viện (11,4%)
cha thu gom vật sắc nhọn vào các hộp đựng vật sắc nhọn theo đúng tiêu chuẩn quy
định, còn lại đa số các bệnh viện (88,6%) thờng đựng vào các vật tự tạo nh chai
truyền dịch, chai nhựa đựng nớc khoáng.v.v
b. Thu gom chất thải bệnh viện
Theo quy định, các chất thải y tế và chất thải sinh hoạt đều đợc hộ lý và y công
thu gom hàng ngày ngay tại khoa phòng. Các đối tợng khác nh bác sĩ, y tá còn cha
đợc giáo dục, huấn luyện để tham gia vào hoạt động quản lý chất thải y tế. Tình
trạng chung là các bệnh viện không có đủ áo bảo hộ và các phơng tiện bảo hộ khác
cho nhân viên trực tiếp tham gia vào thu gom, vận chuyển và tiêu huỷ chất thải.
c. Lu trữ chất thải bệnh viện
Hầu hết các điểm tập trung rác nằm trong khu đất bệnh viện, vệ sinh không đảm
bảo, có nhiều nguy cơ gây rủi ro do vật sắc nhọn rơi vãi, nhiều côn trùng xâm nhập
ảnh hởng đến môi trờng bệnh viện. Một số điểm tập trung rác không có mái che,
không có rào bảo vệ, vị trí gần nơi đi lại, những ngời không có nhiệm vụ dễ xâm
nhập. Chỉ có một số ít bệnh viện có nơi lu giữ chất thải đạt tiêu chuẩn quy định.
d. Vận chuyển chất thải ngoài cơ sở y tế
Nhân viên của công ty môi trờng đô thị đến thu gom các túi chất thải của bệnh
viện, hiện cha có xe chuyên dụng để chuyên chở chất thải bệnh viện, cả nhân viên
bệnh viện lẫn nhân viên của công ty môi trờng đô thị đều cha đợc đào tạo, hớng

dẫn về nguy cơ có liên quan đến việc thu gom, vận chuyển và tiêu huỷ chất thải. Qua
điều tra cho thấy đa số các nhân viên bệnh viện không biết nơi tiêu huỷ cuối cùng chất
thải ở đâu. Việc phối hợp liên ngành kém hiệu quả trong mọi công đoạn của quy trình
quản lý chất thải bệnh viện. Mới có một vài công ty bớc đầu nghiên cứu sản xuất
đợc phơng tiện để thu gom và vận chuyển chất thải, tuy nhiên còn đang ở giai đoạn
thí điểm, cha sản xuất đại trà. Các bệnh viện đã phân loại chất thải y tế và chất thải
sinh hoạt tách riêng nh
ng ở một số địa phơng công ty môi trờng đô thị từ chối vận
chuyển chất thải y tế. Chỉ có 18,75% trong tổng số các bệnh viện chất thải đợc vận
chuyển ra khỏi bệnh viện bằng xe chuyên dụng của công ty môi trờng đô thị.
e. Các phơng pháp xử lý và tiêu huỷ chất thải rắn y tế
Thiêu đốt chất thải rắn y tế:

132
Trong những năm trớc đây khi đầu t xây dựng bệnh viện chúng ta hoàn toàn
cha hạch toán đến khoản chi phí cho xử lý chất thải. Phần lớn các bệnh viện tự xây
dựng lấy lò đốt của mình về sau và cũng không theo một thiết kế mẫu nào cả. Tình
trạng chung của phần lớn các bệnh viện trong cả nớc hiện nay là thiêu đốt chất thải y
tế tại các lò đốt thủ công, không có hệ thống xử lý khí thải kể cả những bệnh viện lớn
có khối lợng chất thải y tế cần thiêu đốt rất đáng (kể nh Bệnh viện Việt Đức ở Hà
Nội). Trong các lò đốt thủ công xây bằng gạch, chất thải đợc đốt bằng củi hoặc dầu,
khói bụi, mùi khó chịu bay ra khu dân c. Hiện tại, chúng ta đã có một số lò thiêu đốt
chất thải rắn y tế tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với công nghệ nhập
của nớc ngoài. Thành phố Hồ Chí Minh cơ bản đã ổn định đợc công tác xử lý chất
thải bệnh viện nhờ có hệ thống quản lý thu gom năng động. Còn tại Hà Nội, sau 8
tháng thử nghiệm lò đã hoạt động tốt, tuy vậy công suất của lò đốt này cũng chỉ giải
quyết đợc 4 tấn /ngày so với nhu cầu của hàng chục bệnh viện tại thành phố là trên
12 tấn /ngày. Một số bệnh viện nh Viện Lao và Bệnh phổi, Bệnh viện C Đà Nẵng,
Bệnh viện Vũng Tàu với sự giúp đỡ của Công ty áo Wamed Engineering đã lắp đặt lò
đốt chất thải y tế Hoval MZ2 của Thụy Sĩ có công nghệ hiện đại với nhiệt độ thiêu

đốt có hiệu quả. Qua thời gian theo dõi trên 15 tháng của Sở Khoa học - Công nghệ và
Môi trờng Hà Nội lò đốt của Viện Lao và Bệnh phổi đã thiêu đốt trên 10 tấn rác y tế
nguy hại với kết quả tốt, đảm bảo an toàn về môi trờng. Tuy nhiên, do số lợng chất
thải nguy hại của Viện Lao và Bệnh phổi ít (vì để tiết kiệm kinh phí phần rác sinh hoạt
của Viện vẫn đợc xử lý theo hợp đồng với Công ty Môi trờng đô thị) nên công suất
thiêu đốt của lò cha phát huy đợc tối đa gây lãng phí nhiên liệu và phơng tiện. Một
phơng án khắc phục là thu gom chất thải rắn nguy hại của các bệnh viện lân cận nh
Bệnh viện 354, Bệnh viện Giao thông, Viện Bảo vệ sức khỏe trẻ em để đốt chung nh
một lò đốt của cụm bệnh viện. Vấn đề đặt ra là ai sẽ chịu trách nhiệm vận chuyển
bằng phơng tiện chuyên dụng và kinh phí sẽ đợc chia sẻ nh thế nào.
Một số bệnh viện đã lắp đặt lò đốt hiện đại nhng lại không hoạt động đợc vì vị
trí đặt lò đốt gần khu dân c
và khi vận hành không đúng kỹ thuật có khói đen và mùi
bốc lên bị ngời dân phản đối (Bệnh viện Bạch Mai) hoặc hỏng cha có phụ tùng thay
thế (Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An). Đã có một số bệnh viện lắp đặt và vận
hành lò đốt trong nớc sản xuất nh Bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Tháp, Sóc Trăng
(lò đốt do Trờng Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh thiết kế và lắp đặt),
Trung tâm Bảo vệ bà mẹ trẻ em và Kế hoạch hoá gia đình tỉnh Nghệ An (Viện Khoa
học vật liệu). Đa số các bệnh viện thiêu đốt trong lò đốt thủ công, không đạt tiêu
chuẩn vệ sinh môi trờng. Gần đây, Tổ chức Y tế Thế giới cũng đã viện trợ cho Bộ Y
tế 2 lò đốt chất thải chế tạo tại nớc ngoài để trang bị cho 2 bệnh viện tuyến tỉnh. Vừa
qua Chính phủ cũng đã phê duyệt dự án của Bộ Y tế trang bị 25 lò đốt chất thải bệnh
viện kiểu Hoval bằng nguồn vốn vay của Chính phủ áo. Cho đến nay vẫn cha có một
nghiên cứu thống kê cụ thể nào về các loại lò đốt hiện đang hoạt động tạị các bệnh
viện ở Việt Nam và hiệu quả xử lý của các lò đốt thiết kế và chế tạo trong nớc. Một

133
vấn đề mà các nhà môi trờng quan tâm là công nghệ xử lý dioxin tạo ra trong quá
trình đốt đợc xử lý nh thế nào.
Chôn lấp chất thải rắn y tế:

Trong hầu hết các bệnh viện huyện chất thải y tế đợc chôn lấp tại bãi rác công
cộng hay chôn lấp trong khu đất của một số bệnh viện. Trờng hợp chôn lấp trong
bệnh viện chất thải đợc chôn vào trong các hố đào và lấp đất lên, nhiều chỗ lớp đất
phủ trên quá mỏng không đảm bảo vệ sinh.
Tại các bệnh viện không có lò đốt tại chỗ, bào thai, rau thai và bộ phận cơ thể bị
cắt bỏ sau phẫu thuật đợc thu gom để đem chôn trong khu đất bệnh viện hoặc chôn
trong nghĩa trang tại địa phơng. Nhiều bệnh viện hiện nay gặp khó khăn trong việc
tìm kiếm diện tích đất để chôn.
Vật sắc nhọn đợc chôn lấp cùng với các chất thải y tế khác tại khu đất bệnh
viện hay tại bãi rác công cộng dễ gây rủi ro cho nhân viên thu gom, vận chuyển chất
thải và cộng đồng.
Hiện tại còn một số bệnh viện chất thải nhiễm khuẩn nhóm A đợc trộn lẫn với
chất thải sinh hoạt và đợc thải ra bãi rác của thành phố. Chất thải không có xử lý đặc
biệt gì trớc khi tiêu huỷ. Trẻ em có thể đào bới các hố chôn rác để lấy các thứ trong
đó làm đồ chơi.
8.5. Các văn bản pháp quy của Việt Nam liên quan đến công tác quản lý chất
thải bệnh viện
8.5.1. Luật Bảo vệ môi trờng đợc Quốc hội thông qua ngày 27/12/1993
Điều 26:
Việc đặt các điểm tập trung, bãi chứa, nơi xử lý, vận chuyển rác và chất gây ô
nhiễm môi trờng phải tuân theo quy định của cơ quan quản lý Nhà nớc về bảo vệ
môi trờng và chính quyền địa phơng. Đối với nớc thải, rác thải có chứa chất độc
hại, nguồn dịch gây bệnh, chất dễ cháy, dễ nổ, các chất thải không phân huỷ đợc
phải có biện pháp xử lý trớc khi thải. Cơ quan quản lý Nhà nớc về bảo vệ môi
trờng quy định danh mục các loại nớc thải, rác thải nói ở khoản này và giám sát quá
trình xử lý nớc thải trớc khi thải.
Điều 29, Khoản 3:
Nghiêm cấm thải dầu mỡ, hoá chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho
phép, các chất thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại và gây dịch
bệnh vào nguồn nớc.

8.5.2. Nghị định số 175 - CP ngày 18/10/1994 của Chính phủ về thi hành Luật
Bảo vệ Môi trờng
Điều 27:
Mục 1: Mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh, bệnh viện, khách sạn, nhà hàng v v
có các chất thải ở dạng rắn, lỏng, khí cần phải tổ chức xử lý đạt tiêu chuẩn môi trờng

134

×