Tải bản đầy đủ (.ppt) (18 trang)

VH Trung Quốc - Ngữ văn - lại thị hồng vân - Thư viện Bài giảng điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.98 KB, 18 trang )

Thực hiện:Huỳnh Ngọc Qúy
Trương Thị Huyền Trang
Nguyễn Thị Minh Hải


Khái quát
I/Giai đoạn
1 (19111949) “Văn
học dân chủ,
tiền cách
mạng
và hiện đại
hoá”

II/Giai đoạn
2 (19491965) “Nền
văn học
xã hội
chủ nghĩa
giai
đoạn đầu”

III/Giai đoạn
3 (1966-1976)
10 năm  động
loạn “Đại cách
mạng văn
hố vơ sản”

IV/Giai
đoạn 4


(1977-1982
và  tiếp tục
tới nay) gọi
là “Văn
học đương
đại”


I/ Giai đoạn 1 (1911- 1949) “Văn học
dân chủ, tiền cách mạng và hiện đại
• Văn học cất tiếng nói giã  từ chế độ phong kiến.
hoá”

Văn học truyền bá  tư tưởng phê phán chế độ
phong kiến, cổ  vũ cho tư tưởng cộng hồ, dân
chủ…Văn học hiện đại có thể tính từ Cách mạng
Tân Hợi năm 1911 hoặc từ cuộc vận động Ngũ 
Tứ 1919. Nổi bật là nhà văn, nhà báo, nhà giáo
Lỗ Tấn.


• Ông là nhà tổ chức, cây bút  tiên phong chủ lực
xây dựng nền văn học mới của cách mạng vơ sản.
Sau đó, nhà thơ Quách Mạt Nhược, nhà văn Mao
Thuẫn, Ba Kim, Lão Xá và Tào Ngu trở thành
những cây bút hàng đầu của nền văn học mới, sẽ
trở thành những nhà văn cộng sản đầu tiên (năm
1921 Đảng Cộng sản TQ ra đời) . . .và tiếp tục
sáng tác về sau



II/ Giai đoạn 2 (1949-1965) “Nền văn học
xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu”
• Văn học sáng tác theo “Tư tưởng văn nghệ Mao
Trạch Đơng”. Ngồi những tác giả lão thành
có mặt từ  giai đoạn đầu, thêm những tên tuổi
mới: Chu Lập Ba, Ngải Thanh, nữ sĩ Dương
Mạt, La Quảng Bân, Điền Hán. vv…Những tác
phẩm tràn đầy hào khí  cách mạng nhưng  nghệ
thuật còn non yếu, kéo dài 16 năm .  Cuộc cải
cách ruộng đất  nông thôn – đấu tổ địa chủ đã
mắc sai lầm nghiệm trọng như thời cổ đại.


• Tiếp đó cơng cuộc xây dựng CNXH với những
mơ hình ấu trĩ “duy ý chí” như “cơng xã nhân
dân”, phong trào “đại nhảy vọt”. Tình trạng
quan liêu, cửa quyền, tham nhũng triền miên,
kinh tế suy đốn . . xã hội điêu tàn,  chính trị
khủng hoảng, văn nghệ khơ cứng. Tình trạng
đó tất yếu phải dẫn đến một sự đổ vỡ nào đó.
Vai trị lãnh đạo của  chủ tịch Mao Trạch Đông
suy yếu. Cặp Lâm Bưu- Giang Thanh rồi đến
“bè lũ 4 tên” chụp lấy cơ hội nhảy ra .


III/ Giai đoạn 3 (1966-1976) 10 năm  động
loạn “Đại cách mạng văn hố vơ sản”
• Thực chất “cách mạng văn hố” chỉ diễn ra trong
3 năm (1966-1969) nhưng hậu quả kéo dài đến

1979 và lâu dài  hơn. Lịch sử gọi đó là “10 năm
động loạn”, văn học nghệ thuật chân chính bị tê
liệt .


• Thay vì cải tổ cải cách, vực dậy tình trạng suy đốn
của đất nước, Lâm Bưu, Giang Thanh và “bè lũ 4
tên”  âm mưu cướp đoạt quyền lãnh đạo Đảng,
Nhà nước bằng cách  mở chiến dịch mang tên “
Đại cách mạng văn hố vơ sản”. Nhân danh cách
mạng chân chính, thực chất họ là “phái tả”
• Họ tung nhiều “chưởng” tàn bạo, dã man đạp thêm
cho đất nước Trung Hoa ngày càng dúi sâu xuống
vũng bùn suy đồi…


• Họ chọn đột phá khẩu là “phê phán văn
nghệ tư sản” và đả kích vạch mặt “phái
hữu” (nghĩa là tư tưởng rút lui, khơng
kiên trì cách mạng vơ sản, có ý muốn
theo con đường tư bản chủ nghĩa), đó chỉ
là cái cớ để triệt hạ tất cả những con
người ưu tú nhất của đất nước.


• Lịch sử TQ sẽ không bao giờ quên “10 năm
động loạn” khủng khiếp hơn cả thời đế chế Tần
Thuỷ Hồng. Trong thời xây dựng hồ bình mà
có tới hàng triệu người, trong đó có hàng trăm
văn nghệ sĩ cách mạng bị bức hại đến chết, tất

cả trường đại học, học viện đóng cửa … Văn
học Trung Quốc giai đoạn này bị tê liệt nếu
chưa nói là bị tiêu diệt. (Lúc này, đất nước Việt
Nam đang tập trung kiên trì kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, không chịu ảnh hưởng của “đại
cách mạng văn hố vơ sản Trung Quốc”)…


IV/ Giai đoạn 4 (1977-1982 và  tiếp tục tới nay)
gọi là “Văn học đương đại”
• Từ sau 1976 đến 1982. Những người đảng viên
cộng sản chân chính với sự  ủng hộ của quần
chúng cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống lại
“bè lũ bốn tên” đã giành lại quyền lãnh đạo cách
mạng. Đất nước TQ tìm ra  đường lối mở cửa,
phong trào “bốn hiện đại hoá” theo đường lối tư
tưởng của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình. Văn học cuộn
mình trỗi dậy.


• Dòng văn học “vết thương”, dòng văn học “sám hối” với
những tác phẩm sục sơi địi thanh tốn nỗi uất ức “10
năm khủng khiếp”, triệt để phê phán giai đoạn sai lầm ấu
trĩ, từ đây mở ra thời kì phục hưng văn học nghệ thuật.
Văn chương giữ vai trò tiên phong trong lĩnh vực văn hoá
nghệ thuật và đời sống tinh thần của công chúng Trung
Quốc..


• Kể từ những năm 1982 về sau, văn học “trăm hoa

đua nở” (bách hoa tranh khai). Những cây bút
trẻ hăm hở tìm tịi phương pháp mới đồng thời
kế thừa những phương pháp truyền thống của
Trung Quốc và nhân loại. Nhiều phong cách mới,
tác giả mới xuất hiện, mau chóng tạo ra sức hút
mạnh mẽ trong đời sống văn học nghệ  thuật hồi
sinh. Có thể nói, cuộc “lột xác”  để phục hưng của
văn học Trung Quốc thật đớn đau, phải trả bằng
những giá đắt chưa từng có trong lịch sử.


• Nổi bật lên hàng trăm cây bút, tiêu biểu với
hàng chục tác giả xuất sắc như  Trương Hiền
Lượng, Vương Mông, Đường Mẫn, Phùng
Kí  Tài, Cao Hiểu Thanh, Giả Bình Ao Lưu
Tâm Vũ, Mạc Ngơn, Vệ Tuệ, Miên Miên,
Cửu Đan, Diệp Tân, Như  Chí Qun, Uông
Tằng Kỳ, Tốt Thục Mẫn, Diệp Văn Linh. .


• Những cây bút trẻ đó quả thực khơng làm hổ danh
nền văn học truyền thống TQ ba ngàn năm qua.
Bắt kịp tư tưởng –  phương pháp nghệ thuật
Tây Âu- Nga- Mỹ …họ  sáng tạo với những
tư tưởng nghệ thuật mới mẻ, phóng khống,
khơng câu nệ qui phạm, họ khơng bận tâm
quá nhiều vào những phương pháp cổ điển, truyền
thống Trung Hoa.



• Truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết lấn át thơ ca.
Cảm hứng chủ đạo đầu tiên của họ là kiên quyết
phê phán q khứ “cách mạng vơ sản” .
• Truyện ngắn “Song cầm tế” (Văn tế hai cây đàn
sinh đôi) của nhà  văn Lương Hiểu Thanh, tác
phẩm được coi là một trong những bản tuyên
ngôn nghệ thuật hiện đại. Tiểu thuyết “Phong
nhũ phì đồn” (Vú  to mơng nở) của nhà văn thạc
sĩ Mạc Ngơn gây  “cơn sốt” văn chương cuối
thế kỉ XX. “Phong nhũ phì đồn” được coi là bộ 
tiểu thuyết “Trăm năm cơ đơn” của Trung Quốc.
Trần Đình Hiến dịch ra tiếng Việt với tựa 
đề “Báu vật của đời” .


• Xưa nay nói tới văn học TQ, người ta nghĩ ngay
tới Đường Thi và tiểu thuyết cổ điển Minh
Thanh… Những người bi quan cho rằng văn học
hiện đại không thể sánh bằng văn học trung đại
cổ điển. Thực ra, thử tính 300 năm Đường Thi để
lại được 54 000 bài thơ, trung bình mỗi năm  sáng tác
được 80 bài.  600 năm Minh-Thanh chỉ để lại  trên 10
bộ tiểu thuýêt tiêu biểu kiệt xuất, trung bình mỗi thế
kỉ có 2 bộ truyện hay với tổng số khoảng 200 truyện.
Thế mà chỉ cần 10 năm đổi mới, văn học hiện đại đã
xuất bản được hàng trăm bộ tiểu thuyết trong đó hơn
10 bộ tiểu thuyết xuất sắc tiêu biểu … Văn học đương
đại TQ đang ở trong thời kì được mùa chưa từng có
trong lịch sử văn học ba nghìn năm của nước này. 



HẾT



×