MỞ ĐẦU
Sau khi kết thúc các môn học tại trường đại học và qua hai đợt thực tập tại công
ty cơ khí Z179 thuộc Bộ Quốc Phòng, dựa vào những kiến thức đã học ở trường và
những kiến thức thực tế tại công ty, em nhận thấy rằng vấn đề quản trị vật tư là
một trong số những vấn đề nổi cộm nhất của công ty. Vì là một công ty cơ khí,
chuyên sản xuất các loại bánh răng, phụ tùng ôtô, máy nông nghiệp…nên việc sử
dụng vật tư sao cho có hiệu quả nhất luôn được ban giám đốc và các phòng ban
chức năng của công ty chú trọng đến. Thêm vào đó, hiện nay giá của các loại sắt
thép trên thị trường đang có xu hướng tăng cao nên việc thu mua, dự trữ và sử
dụng vật tư của công ty càng được chú trọng hơn. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài
“Một số vấn đề về công tác quản trị vật tư tại công ty cơ khí Z179” để làm
chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình.
Chuyên đề được chia thành 3 chương với kết cấu như sau:
Chương I. Khái quát về công ty cơ khí Z179
I. Quá trình hình thành và phát triển
II. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây
Chương II. Thực trạng của công tác quản trị vật tư tại công ty cơ khí Z179
I. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến công tác quản trị vật tư của công ty
II. Thực trạng công tác quản trị vật tư của công ty cơ khí Z179
III. Đánh giá chung về công tác quản trị vật tư của công ty
Chương III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị vật tư tại
công ty cơ khí Z179
I. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới
II. Những giải pháp chủ yếu
III. Kiến nghị
Mặc dù chuyên đề thực tập tốt nghiệp này chỉ nghiên cứu một vấn đề rất nhỏ
trong hệ thống các lĩnh vực quản trị nói chung nhưng do thời gian và trình độ có
1
hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo – TS Trần Việt Lâm đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Hà Nội tháng 4 năm 2004
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thu Hương
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CƠ KHÍ Z179
I. Quá trình hình thành và phát triển
1. Lịch sử hình thành
Công ty cơ khí Z179 được chính thức thành lập ngày 11 tháng 3 năm 1972, do
quyết định của cục quản lý xe. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Bộ Quốc Phòng,
công ty không ngừng phát triển và trưởng thành. Công ty cơ khí Z179 là một công
ty sản xuất công nghiệp Quốc Phòng để góp phần xây dựng lực lượng vũ trang
ngày một vững mạnh.
Tiền thân của Z179 là từ những trạm sửa chữa trong kháng chiến chống Pháp,
tiến tới thành lập các xưởng sửa chữa trong hoà bình. Công ty cơ khí Z179 ra đời
trong giai đoạn cả nước đang ra sức hoàn thành nhiệm vụ chống Mĩ cứu nước vĩ
đại.
Từ những yêu cầu và nhiệm vụ cần phải xây dựng ngành vận tải quân sự có một
đội ngũ cán bộ, công nhân giỏi, có một nền sản xuất với chuyên môn kĩ thuật tiên
tiến. Cục quản lý xe đã giao cho Z179 một nhiệm vụ quan trọng: chế thử các phụ
tùng thay thế cho các loại xe cơ giới. Động cơ xe, bánh răng cám, trục khuỷu, bánh
răng côn xoắn, máy nén khí, bơm trợ lực tay lái lần lượt được chế tạo thành công
và đưa vào sản xuất hàng loạt..
Trải qua những năm tháng xây dựng và trưởng thành Z179 đã đóng góp xứng
đáng vào công cuộc bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Quá trình phát triển
2.1. Thời kì hình thành và xây dựng lớn mạnh (3/1971- cuối 1974)
Để đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ được giao nên sau khi hình thành Z179
nhanh chóng phát triển về mọi mặt. Cơ cấu tổ chức ngày càng hoàn thiện. Cục chỉ
định ban giám đốc, chỉ định hàng ngũ cán bộ chủ chốt. Từ các tổ nay trở thành các
ngành sản xuất như ngành cơ khí, ngành dụng cụ, ngành nóng. ở mỗi ngành đã
3
được trang bị đầy đủ về người và các trang thiết bị hiếm quý. Ban vật tư, ban quân
y cũng lần lượt ra đời. Quân số cán bộ, chiến sĩ, công nhân ngày một tăng nhanh.
Do yêu cầu phát triển của ngành xe nên trong năm 1971 cục quản lí xe giao cho
Z179 nghiên cứu chế thử và đi vào sản xuất động cơ xe Trường Sơn, chế tạo trục
khuỷu, máy nén khí, bơm trợ lực tay lái bầu giảm xóc ngang, cần gạt mưa và nhiều
bộ gá lớn nhỏ cho các nhà máy bạn trong cục. Muốn hoàn thành được nhiệm vụ,
công ty đã nhanh chóng ổn định về mọi mặt. Các cấp lãnh đạo trong nhà máy đã
tập trung vào việc tập hợp được cơ sở vật chất kĩ thuật nhằm tổ chức lại sản xuất
và xây dựng được một đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên yêu ngành, yêu
nghề phục vụ lâu dài trong quốc phòng và cho sự lớn mạnh của ngành xe mai sau.
Công ty cơ khí Z179 đã phấn đấu liên tục trở thành công ty được tổng cục phân
cấp loại 2, có cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh, có các trang thiết bị tương đối hiện đại
nhằm phục vụ lâu dài cho ngành xe.
2.2. Thời kì phát triển sau khi sát nhập và những đóng góp của nhà máy
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1978)
Ngay từ đầu năm 1975 Tổng cục Kĩ Thuật đã chủ trương hợp nhất một số xí
nghiệp nhỏ tạm thời, bao cấp nhập thành những quy mô sản xuất lớn vào Z179.
Nhiệm vụ đặt ra ngay lúc đó là phải vận chuyển toàn bộ các trang thiết bị nhân lực
về địa điểm tập kết sao cho an toàn tuyệt đối về người và của. Song song với việc
di chuyển, công ty vừa thiết kế, vừa thi công, vừa xây dựng và lắp đặt thiết bị để đi
vào sản xuất đảm bảo kế hoạch năm.
Công ty đã hết sức cố gắng ổn định công việc và thực hiện các nhiệm vụ được
giao. Ngay sau khi sát nhập nhà máy đã được giao nhiệm vụ chính là sản xuất bánh
răng, phụ tùng gầm ôtô, ngoài ra còn tiến hành sản xuất các phụ tùng thay thế để
đáp ứng yêu cầu cấp bách cho việc sửa chữa xe phục vụ cho chiến đấu. Ngay từ
giữa năm 1975, sau khi sát nhập nhà máy đã đưa ngay vào lắp đặt dây chuyền sản
xuất bánh răng cho nên cuối năm 1975 dây chuyền sản xuất này đã đi vào ổn định.
Sản phẩm bánh răng sau này trở thành sản phẩm chính và là một trong những mặt
hàng truyền thống của công ty. Từ năm 1978 đến năm 1980, công ty đã sản xuất
4
nhiều mặt hàng đột xuất để phục vụ kịp thời cho chiến đấu như sản xuất xích xe
tăng sản xuất các công trình xa để phục vụ sửa chữa lưu động, sản xuất 2000 cần
gạt mưa, 10000 kẹp cáp, 10 triệu đạn bi, 1 triệu con dao tông, 138468 xẻng, 5966
cuốc bộ binh, 362 ghế hành quân, 60 ngàn biển số ô tô, chế tạo thử buồng nổ…
Trong thời gian này việc sản xuất ra nhiều mặt hàng phục vụ chiến đấu trở
thành phong trào thi đua sôi nổi. Mọi người coi đây là mặt trận và mỗi cá nhân là
một chiến sĩ trên mặt trận ấy. Nổi bật nhất trong giai đoạn này là thành tích đạt
được trong sản xuất của công ty. Trong những năm vừa xây dựng, vừa trưởng
thành, vừa góp phần phục vụ chiến đâu công ty vẫn đảm bảo được kế hoạch sản
xuất mà tổng cục giao. Ba năm liền công ty đều được tổng cục cấp bằng khen.
2.3. Thời kì phát triển trong cơ chế thị trường (1986- nay)
Trong những năm đầu xoá bỏ chế độ bao cấp, công ty gặp rất nhiều khó khăn,
do chưa kịp thích nghi với điều kiện mới. Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức
trong công ty chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý, còn nhiều ý kiến chủ quan,
quan liêu, cửa quyền nên tình hình sản xuất kinh doanh có chiều hướng đi xuống,
lương của CBCNV còn chưa được đảm bảo, đời sống của CBCNV còn gặp nhiều
khó khăn.
Nhưng những năm gần đây, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty ngày
càng ổn định và phát triển. Do đặc thù của sản phẩm bánh răng là ít nơi có thể chế
tạo được và chất lượng sản phẩm của công ty lại cao và ổn định nên công ty đã tìm
cho mình được chỗ đứng trên thị trường. Các hợp đồng kinh tế ngày càng nhiều.
Công ty không chỉ chuyên sản xuất về bánh răng mà còn chế tạo sản xuất một số
máy móc thiết bị chuyên dùng cho ngành sản xuất công nghiệp cơ khí, cho nông
nghiệp. Cuộc sống vật chất và tinh thần của người công nhân được nâng cao, khiến
tình hình sản xuất của công ty ngày càng sôi động. Công ty không những hoàn
thành vượt chỉ tiêu của bộ đề ra mà còn phát động nhiều phong trào thi đua sản
xuất nên năm nào cũng được bộ khen thưởng.
5
II. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây
1. Đặc điểm về hình thức pháp lý và loại hình sản xuất kinh doanh
*Hình thức pháp lí
Công ty cơ khí Z179 là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Bộ Quốc
Phòng- Tổng Cục Kĩ Thuật Quân Đội. Do là một doanh nghiệp nhà nước nên nhìn
chung công ty vẫn còn tồn tại một số hạn chế giống như các doanh nghiệp nhà
nước khác. Mặc dù vẫn được hưởng những “đặc quyền” nhất định song hiệu quả
kinh doanh của công ty đạt được còn ở mức thấp do trình độ máy móc thiết bị lạc
hậu, năng suất lao động thấp, trình độ quản lý còn hạn chế. Công ty có nhiều lợi
thế trong việc vay vốn của các ngân hàng nhà nước và quân đội, nhưng cơ cấu vốn
của công ty thường xuyên không ổn định, tình hình sản xuất kinh doanh của công
ty còn đạt hiệu quả thấp, nhà nước thường xuyên phải bù lỗ. Một số mặt hàng của
công ty, doanh thu không bù đắp được chi phí nên không thu được lợi nhuận. Tuy
vậy, công ty vẫn tiến hành sản xuất, nhằm tạo công ăn việc làm và ổn định đời
sống cho cán bộ công nhân viên trong toàn bộ doanh nghiệp. Chủ yếu các hoạt
động sản xuất của công ty đều tập trung vào sản xuất sản phẩm truyền thống của
công ty là sản phẩm bánh răng côn xoắn. Sản phẩm này luôn mang lại cho công ty
những cơ hội làm ăn lớn và những thành tích sản xuất đáng tự hào. Hàng năm,
ngoài sản xuất các mặt hàng kinh tế cho các thị trường công, nông, lâm, ngư
nghiệp, công ty còn phải sản xuất một số mặt hàng Quốc Phòng, do Bộ giao. Khi
đó, tất cả mọi hoạt động của công ty đều phải tập trung vào việc sản xuất đủ số
lượng và chất lượng sản phẩm được giao. Đó vừa là một lợi thế, vừa là một bất lợi
của một doanh nghiệp nhà nước. Những hoạt động sản xuất như vậy, điều mà công
ty quan tâm không phải là lợi nhuận hay doanh thu mà là thành tích đạt được: sản
phẩm có đủ về số lượng hay không, có kịp tiến độ bàn giao hay không, có được
đảm bảo về chất lượng hay không.
Cũng như các doanh nghiệp nhà nước khác, công ty cơ khí Z179 luôn tìm cho
mình một hướng đi mới nhằm thoát khỏi những áp đặt sẵn có từ trước đến nay,
6
giúp doanh nghiệp phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
*Loại hình sản xuất kinh doanh
Công ty cơ khí Z179 là một doanh nghiệp sản xuất, chuyên sản xuất các mặt
hàng cơ khí cho Quốc Phòng và Kinh Tế.
Trong lĩnh vực hàng Quốc Phòng, công ty có nhiệm vụ sản xuất đủ số lượng và
đảm bảo về chất lượng sản phẩm được giao. Hàng năm, Bộ Quốc Phòng giao cho
công ty sản xuất một số mặt hàng phục vụ cho vấn đề an ninh quốc phòng. Công ty
nghiên cứu và đề ra kế hoạch sản xuất sao cho kịp tiến độ được giao. Nguồn
nguyên vật liệu để sản xuất các mặt hàng này được cấp trên cấp xuống nên rất
thuận lợi cho việc sản xuất đúng tiến độ đề ra. Ngoài ra, công ty còn có nhiệm vụ
lắp đặt và tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng sản phẩm sản xuất ra.
Trong lĩnh vực hàng kinh tế, ngoài nhiệm vụ sản xuất, công ty còn phải có trách
nhiệm nghiên cứu, thiết kế bản vẽ kĩ thuật đúng yêu cầu của khách hàng. Công ty
phải cử người đến tận nơi khách hàng yêu cầu để lắp đặt và hướng dẫn các vấn đề
liên quan đến việc đảm bảo chất lượng cho sản phẩm. Việc các sản phẩm của công
ty có chỗ đứng trên thị trường hay không, phụ thuộc rất nhiều vào khâu quản trị
sản xuất của doanh nghiệp, do đó công ty luôn chú trọng vào việc đào tạo các cán
bộ kĩ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty.
Là một doanh nghiệp sản xuất, vấn đề liên quan đến chất lượng sản phẩm là
một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Chất lượng
sản phẩm của công ty phải đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng thì hiệu
quả sản xuất kinh doanh của công ty mới có thể được nâng cao. Trong cơ chế thị
trường, sự hiện diện của khách hàng trong công ty luôn là dấu hiệu đáng mừng cho
mọi hoạt động của công ty. Vì vậy, công ty cũng thường xuyên chú trọng đến các
dịch vụ chăm sóc khách hàng.
2. Số lượng, chất lượng sản phẩm
Công ty cơ khí Z179 chuyên sản xuất các mặt hàng cơ khí cho Quốc Phòng và
Kinh Tế. Bao gồm các loại:
7
- Phụ tùng ôtô, xe máy, các cơ cấu truyền động như: Bánh răng côn xoắn, côn
thẳng, bánh răng trụ răng thẳng, răng nghiêng. Trục vít bánh vít và các dạng trục
then hoa.
- Hộp số các loại dùng cho: ôtô, xe xích, máy thuỷ, máy nông nghiệp và phụ
tùng khác cho các ngành dệt, nhiệt điện.
- Phụ kiện đường dây tải điện, bi nghiền xi măng, nghiền than.
- Đĩa xích xe máy dùng cho các loại xe Honda, Suzuki, Dayang, Yamaha.
- Các loại dụng cụ cắt gọt: dao phay lăn răng, dao sọc, bao hình, dao chuốt, quả
lô cán ren, cán thép.
- Các loại bánh xe làm việc trong môi trường ăn mòn.
Trong đó mặt hàng truyền thống của công ty là bánh răng côn xoắn có nhiều
ưu thế trên thị trường sản phẩm cơ khí. Công ty gần như không có đối thủ cạnh
tranh trong lĩnh vực này. Hiện nay tuy đã có một số nơi sản xuất bánh răng côn
xoắn nhưng chất lượng không cao, không đảm bảo các quy trình kĩ thuật nên sản
phẩm của công ty vẫn tiêu thụ được với khối lượng lớn. (Xem bảng số liệu về sự
biến động sản phẩm của công ty trong 5 năm gần đây).
Số lượng sản phẩm sản xuất ra của công ty hàng năm phụ thuộc chủ yếu vào chỉ
tiêu của Bộ giao và số hợp đồng đặt hàng của khách hàng. Do công ty chỉ sản xuất
sản phẩm theo đơn đặt hàng nên số lượng sản xuất sản phẩm hàng năm không ổn
định và có sự biến động lớn qua các năm. Một số mặt hàng có năm không sản xuất
nhưng có năm lại sản xuất với số lượng sản phẩm rất lớn. Điều đó phụ thuộc rất
nhiều vào tình hình kinh tế xã hội trong từng năm. Như nhóm sản phẩm phụ tùng
xe máy, hai năm 1998 và 1999 công ty không có hợp đồng nên không sản xuất một
sản phẩm nào, nhưng đến những năm 2000 đến 2002, công ty đã sản xuất với số
lượng rất lớn. Đó là do trong ba năm gần đây, ở Việt Nam, “cơn sốt” xe máy với
phụ tùng nội địa hoá đã làm cho ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nước sản
xuất những sản phẩm này. Nhưng có thể thấy, mặt hàng bánh răng côn xoắn của
công ty hàng năm được sản xuất với khối lượng tương đối ổn định, năm nào công
ty cũng có hợp đồng để tiến hành sản xuất. Ngoài sản phẩm bánh răng côn xoắn
8
sản xuất phục vụ cho lĩnh vực kinh tế, hàng năm công ty phải sản xuất một khối
lượng hàng nhất định phục vụ cho lĩnh vực an ninh quốc phòng. Năm nào công ty
cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất sản phẩm truyền thống đặc chủng này
của mình. Điều đó góp phần rất lớn vào việc ổn định tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trong những năm qua, tạo công ăn việc làm cho toàn thể cán bộ
công nhân viên trong công ty.
Bảng số liệu về sự biến động sản phẩm từ năm 1999 đến năm 2003
3. Thị trường
Do đặc điểm của doanh nghiệp là một công ty trực thuộc Bộ Quốc Phòng nên
sản phẩm sản xuất ra có cả sản phẩm công nghiệp Quốc Phòng và sản phẩm kinh
tế. Sản phẩm công nghiệp Quốc Phòng chủ yếu được tiêu thụ trong lĩnh vực an
ninh quốc phòng, dưới sự hỗ trợ tiêu thụ của Tổng cục Kĩ thuật Công nghiệp Quốc
Phòng nên thị trường khá rộng lớn, trải dài từ Nam ra Bắc và trên thị trường hàng
quốc phòng, hầu như công ty không gặp phải một sự cạnh tranh gay gắt nào. Số
lượng sản phẩm công ty sản xuất ra cũng dựa theo đơn đặt hàng của tổng cục và
các doanh nghiệp trong tổng cục. Tuy vậy, đây là mặt hàng yêu cầu chất lượng và
kĩ thuật chế tạo sản xuất cao nên công ty phải tập chung chủ yếu vào vấn đề đảm
TT Tên sản phẩm Đvt 1999 2000 2001 2002 2003
I N. BR côn xoắn
1 Côn xoắn Benla Bộ 100 79 100 130 152
2 CX xe TY7E Bộ 100 42 30 40 38
3 Côn xoắn khác Bộ 10 116 55 75 112
II NPK đường
dây
Cái 110000 91974 99000 108900 102780
III PT máy thuỷ Cái 27125 - 30000 33000 31200
IV PT máy cày Cái 10800 8808 38300 42130 45800
V PT băng tải Con 19000 12300 - - 8900
VI PT ô tô máyxúc Cái 2150 2075 2440 2684 19879
VII PT xe máy Cái - 30500 25600 21500 -
VIII Các loại khác Cái 63250 60985 71120 77853 79890
9
bảo chất lượng và kĩ thuật của sản phẩm, chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể gây ra
một tổn thất lớn.Trên thị trường hàng kinh tế, công ty có lợi thế lớn về sản phẩm
bánh răng côn xoắn. Có thể nói, cả miền Bắc chỉ có công ty là có thể sản xuất được
các sản phẩm bánh răng côn xoắn đảm bảo cả về yêu cầu chất lượng và kĩ thuật
nên gần như công ty “độc quyền” trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm này.
Bánh răng côn xoắn được coi là mặt hàng truyền thống của công ty và không có
đối thủ cạnh tranh. Do đặc thù của việc sản xuất bánh răng côn xoắn là đòi hỏi chất
lượng nguyên vật liệu, cụ thể là thép, cao, không pha chế nhiều mà nguồn cung
ứng nguyên vật liệu trên thị trường tự do là rất hạn chế (nếu có thì chất lượng thép
không cao, không phù hợp với yêu cầu của việc chế tạo bánh răng côn xoắn) nên
doanh nghiệp chiếm nhiều ưu thế trong việc sản xuất và phân phối sản phẩm này
trên thị trường toàn miền Bắc. Nguồn nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm truyền
thống của công ty chủ yếu là do Bộ Quốc Phòng cung cấp với số lượng lớn và do
công ty luôn luôn chú trọng đến việc đảm bảo khối lượng vật tư dự trữ, bảo hiểm
cho sản xuất nên công ty luôn đáp ứng được các đơn đặt hàng cũng như yêu cầu
cấp bách của khách hàng. Tuy sản phẩm bánh răng côn xoắn vẫn là một mặt hàng
“đặc chủng” của công ty nhưng hiện nay trên thị trường đã xuất hiện sản phẩm
bánh răng côn xoắn nhập ngoại có chất lượng tương đương mà giá thành lại thấp
hơn rất nhiều nên công ty đã gặp phải một số khó khăn. Nhưng do sự hỗ trợ của Bộ
Quốc Phòng và các chính sách “nội địa hoá” của nhà nước, công ty vẫn tiếp tục
đứng vững và phát triển được mặt hàng truyền thống của mình.
Ngoài ra, các sản phẩm khác của công ty cũng có mặt trên thị trường công
nghiệp trong cả nước như các mặt hàng nông nghiệp, các loại phụ tùng xe máy,
nhông xích. Tuy nhiên, sản phẩm nhóm này của công ty lại bị cạnh tranh gay gắt
trên thị trường trong nước, bởi một số công ty chuyên ngành khác. Các sản phẩm
này thường là sản xuất nhỏ lẻ và không ổn định, khi thì sản xuất với số lượng lớn,
khi thì không có hợp đồng để tiến hành sản xuất. Tuy vậy, các mặt hàng này cũng
góp phần làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty diễn ra liên tục và ổn
định hơn. Nguồn cung cấp vật tư để sản xuất các sản phẩm thuộc nhóm này, doanh
10
nghiệp chủ yếu mua trên thị trường của các doanh nghiệp chuyên cung cấp vật tư
khác nên nhìn chung là việc đảm bảo nguyên vật liệu để sản xuất không gặp nhiều
khó khăn.
4. Máy móc thiết bị
Đánh giá một cách khách quan thì hiện nay, trình độ máy móc công nghệ kĩ
thuật của công ty còn lạc hậu, chủ yếu nhập vào những năm 70 của Liên Xô. Tuy
thế, những máy móc thiết bị này vẫn hoạt động tốt, độ chính xác cao, mặc dù năng
suất chưa cao. Hiện nay nhà máy có tổng cộng 210 máy móc thiết bị các loại, tuy
nhiên công suất hoạt động của chúng còn thấp. Công ty chưa có các kế hoạch sản
xuất phù hợp để tận dụng hết công suất máy móc thiết bị. Ngoài ra còn có một số
máy móc do chính đội ngũ kĩ sư, công nhân trong nhà máy chế tạo sản xuất (thông
qua các phong trào thi đua, sáng tạo kĩ thuật mà nhà máy đã phát động) như: máy
trộn cát, máy gia công cơ khí giản đơn. Máy móc công nghệ của công ty là các loại
máy móc đặc thù cho nên cũng khó có khả năng cải tiến, nâng cấp như máy mài
nghiền bánh răng côn xoắn. Chính vì vậy công ty luôn luôn phải đảm bảo sửa
chữa, bảo dưỡng kịp thời tránh tình trạng máy móc thiết bị hỏng quá lâu, không
đáp ứng được tiến độ sản xuất. Thêm vào đó, tình hình tài chính của công ty vẫn
còn quá eo hẹp nên việc thay đổi, cải tiến công nghệ kĩ thuật là một vấn đề hết sức
khó khăn.
Bảng theo dõi máy móc thiết bị của công ty trong tháng 4 năm 2004
Loại TB Số MMTB đang hoạt động tại các phân xưởng
A1 A2 A3 A4
Số
MMTB hiện
có trong CT
Máy tiện 7 9 10 39
Máy phay 6 5 4 30
Máy mài 1 4 2 28
Máy khoan 1 2 19
Máy doa 1 1 3
Máy bào sọc 1 3 6
Máy búa 5 5
Máy dập ép 4 5
Lò nhiệt luyện 6 8
Máy khác 4 3 5 5 67
11
Tổng số máy móc hiện có trong toàn công ty 210
Qua bảng theo dõi trên, ta thấy hiệu suất sử dụng của các máy móc thiết bị của
công ty còn rất thấp.
Máy móc thiết bị không sử dụng quá nhiều, loại máy nào số lượng lớn thì bỏ
không lại càng nhiều. Công ty nên có kế hoạch sử dụng máy móc thiết bị hợp lý
hơn để từ đó có thể tiết kiệm được nguồn nguyên nhiên vật liệu vận hành máy
móc. Những loại máy nào còn nhiều mà không sử dụng hết, công ty có thể thanh lý
hoặc bán để có vốn đầu tư mua những máy móc thiết bị hiện đại hơn.
Tuy trình độ máy móc, công nghệ lạc hậu nhưng do trình độ lành nghề của
công nhân và cán bộ trong công ty nên quá trình sản xuất sản phẩm vẫn diễn ra liên
tục. Các dây chuyền sản xuất vẫn đạt kết quả cao. Tuy nhiên, nếu được đầu tư
đúng chỗ, năng suất lao động bình quân nhà máy sẽ đạt kết quả tốt hơn. Trong thời
gian tới, công ty có kế hoạch đầu tư 7 tỉ đồng vào việc mua sắm một số loại máy
móc thiết bị mới, hiện đại. Điều đó sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu
quả sản xuất của công ty.
5. Doanh thu, lợi nhuận
Trong thời gian khoảng 5 năm gần đây, công ty cơ khí Z179 đã tránh được tình
trạng sản xuất trì trệ, không hoàn thành kế hoạch sản xuất đã đề ra. Ban giám đốc
phối hợp chặt chẽ với các phòng ban, phân xưởng điều hành sản xuất trực tiếp nên
trong 5 năm gần đây nhất, nhà máy đã đạt được những thành quả nhất định. Riêng
nhiệm kì 2001 - 2003, Đảng bộ công ty lãnh đạo đã chấm dứt những năm không
hoàn thành nhiệm vụ, phấn đấu đạt được một số kết quả nhất định trong sản xuất
kinh doanh, giá trị tăng trưởng bình quân đạt từ 15 - 20%/năm, đảm bảo công ăn
việc làm và thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên chức trong toàn công ty,
vẫn giữ được năng lực sản xuất hàng Quốc Phòng để lúc yêu cầu là đáp ứng được
ngay. Bảng số liệu dưới đây sẽ giúp ta thấy được rõ hơn tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong những năm qua.
12
Qua bảng số liệu dưới đây ta có thể thấy rằng doanh thu của công ty có sự tăng
trưởng vượt bậc qua các năm. Từ năm 1999 đến 2003, doanh thu của công ty đã
tăng từ hơn 7 tỉ đồng đến hơn 18 tỉ đồng. Đấy cũng là nhờ vào sự cố gắng của toàn
thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Ngoài những chỉ tiêu do Bộ và Nhà nước
giao, ban giám đốc công ty còn hết sức cố gắng trong việc tìm kiếm những hợp
đồng lớn, có lợi nhuận cao cho công ty. Ban giám đốc luôn phối hợp trực tiếp với
các phòng ban, phân xưởng điều hành sản xuất, đảm bảo cho quá trình sản xuất
diễn ra liên tục, chất lượng sản phẩm được nâng cao mà giá thành lại hạ để tất cả
các sản phẩm của công ty đều có thể cạnh tranh được với sản phẩm của các doanh
nghiệp trong và ngoài ngành.
Bảng doanh thu của công ty cơ khí Z179 trong 5 năm gần đây (1999 – 2003)
Đơn vị: 1000 đồng
TT Tên sản phẩm 1999 2000 2001 2002 2003
A KD trong SXCN
I Nhóm BR côn xoắn 1681800 1061126 1121632 1232743 1743954
1 Côn xoắn benla 636400 513500 652314 715425 981230
2 Côn xoắn xe TY7E 454500 210000 151134 1652245 2084431
3 BR côn xoắn khác 590900 337626 82536 90759 95711
II N.phụ kiện đườngdây 1043171 833834 117508 129250 132842
III Phụ tùng máy cày 181800 299193 1256135 1367246 1843872
IV Phụ tùng băng tải 363635 159108 1800619 1980729 2473166
V PT ôtô, máy xúc 534087 282835 302135 330349 338712
VI Phụ tùng xe máy 526330 410835 768021 844832 648832
VII Hàng cột vi ba 998175 1738124 632009 695210 732110
VIII Giá trị các hàng khác 1226787 554072 500612 550726 768920
B KD ngoài SXCN 909000 1405068 1504120 1650523 1987218
Tổng cộng 7454785 6744000 8532105 10659873 18307817
Còn về tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong những năm gần đây
cũng có sự tăng trưởng đáng mừng. So với năm 1999 lợi nhuận của công ty năm
2000 có giảm. Năm 2000, lợi nhuận của doanh nghiệp bằng 0. Nhưng đến năm
2001, lợi nhuận của doanh nghiệp lại tăng đáng kể so với năm 1999 (khoảng
29,37%) và cho đến năm 2002, lợi nhuận của doanh nghiệp đã đạt 91443000 đồng,
tăng hơn năm 1999 là 43,41%, tăng hơn so với năm 2001 là 10%. Trong năm
13
2003, lợi nhuận của công ty đã đạt hơn 110 triệu đồng, tăng vượt bậc so với những
năm trước. Đó là nhờ doanh nghiệp đã cân đối được giữa các khoản thu và chi, có
nhiều tiến bộ trong lĩnh vực quản trị sản xuất, làm giảm giá thành sản phẩm mà
vẫn giữ được chất lượng tốt.
Bảng lợi nhuận của công ty cơ khí Z179 trong 5 năm gần đây (1999 –
2003)
Đơn vị: 1000 đồng
TT Tên sản phẩm 1999 2000 2001 2002 2003
A KD trong SXCN
I Nhóm BR côn xoắn 125172 93458 54790 60269 72103
1 Côn xoắn benla 46029 54620 30348 33383 51388
2 Côn xoắn xe TY7E 35175 12314 2908 3199 17200
3 BR côn xoắn khác 43986 26524 4643 5107 9193
II N.phụ kiện đườngdây -263078 -29036 16891 18580 7830
III Phụ tùng máy cày -5580 10546 1747 1922 4842
IV Phụ tùng băng tải 30814 21076 36711 40382 41283
V PT ôtô, máy xúc 42033 23122 12148 13363 15830
VI Phụ tùng xe máy 30588 22606 5608 6169 4210
VII Hàng cột vi ba 50098 -60414 - 31 -
VIII Giá trị các hàng khác 41590 8645 25404 27944 33412
B KD ngoài SXCN 9090 - 15000 16500 15998
Tổng cộng 60727 - 83130 91443 110157
6. Đánh giá chung
6.1. Những kết quả đạt được
Qua những phần đã nêu ở trên, ta thấy rằng công ty cơ khí Z179 trong 5 năm
gần đây đã có những bước tiến đáng kể. Kết quả sản xuất kinh doanh đã đạt được
một số thành công nhất định, chấm dứt tình trạng nhiều năm không hoàn thành
nhiệm vụ, làm ăn không có hiệu quả, Bộ và nhà nước luôn phải “bù lỗ”. Trong 4
tháng đầu năm 2004, công ty đã đạt doanh thu trên 7 tỉ đồng (cụ thể là 7498104000
đồng ), tăng hơn so với cùng kì năm ngoái gần 2.5 tỉ đồng, nộp ngân sách nhà nước
216 triệu, tăng 19,79% so với cả năm 2002. Đội ngũ cán bộ của công ty ngày càng
phát huy được năng lực của mình, không chỉ quan tâm đến những mục tiêu lợi
nhuận trước mắt mà còn đầu tư rất nhiều vào vấn đề con người. Đội ngũ công nhân
14
lành nghề của công ty ngày càng tăng. Với một lực lượng lao động trình độ cao
như vậy, công ty có nhiều điều kiện để phát triển sản xuất. Trong thời gian tới,
chắc chắn công ty sẽ đạt được nhiều thành công mới, đáng tự hào hơn.
Trên thị trường trong nước, công ty đã tìm cho mình một chỗ đứng nhất định.
Sản phẩm truyền thống của công ty gần như không có đối thủ cạnh tranh và vẫn
giữ được lợi thế vốn có của mình. Một số sản phẩm kinh tế khác cũng đã tìm được
cho mình một vị trí, tuy chưa thực sự vững chắc, nhưng cũng đã giúp công ty có
điều kiện để mạnh dạn đầu tư nhiều hơn.
Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua cũng đã đạt được
những thành tích đáng tự hào. Doanh thu của công ty ngày càng tăng trong khi chi
phí sản xuất có xu hướng giảm dần. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng có
hiệu quả, khắc phục được một số tồn tại mà doanh nghiệp nhà nước hay mắc phải.
Trong hai năm gần đây, công ty luôn được bộ tặng bằng khen. Điều đó đã giúp
cho cán bộ công nhân viên trong công ty quyết tâm phấn đấu sản xuất tốt hơn.
6.2. Những hạn chế cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả đáng tự hào mà công ty đã đạt được vẫn còn tồn tại
một số những khó khăn, hạn chế cần khắc phục.
Máy móc thiết bị của công ty còn quá lạc hậu, năng suất lao động chưa cao,
chưa tiết kiệm được nguồn nhiên liệu vận hành. Điều đó dẫn tới chi phí sản xuất
sản phẩm còn quá cao, giá thành chưa đạt sự ổn định cần thiết. Một số sản phẩm
của công ty còn chưa có sức cạnh tranh trên thị trường. Các hợp đồng kinh tế
không đều đặn, khi thì có quá nhiều việc để làm, khi thì không có việc để tiến hành sản
xuất.
Mặc dù công ty gặp rất nhiều thuận lợi trong việc vay vốn của ngân hàng quân
đội nhưng tình hình tài chính của công ty vẫn không ổn định. Các nguồn vốn dành
cho sản xuất và phát triển còn ít, chưa đáp ứng đủ yêu cầu của việc sản xuất kinh
doanh. Nguồn vốn tự có của công ty lại quá eo hẹp, không đủ khả năng để cải thiện
điều kiện sản xuất tốt hơn.
CHƯƠNG II
15
THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN TRỊ VẬT
TƯ TẠI CÔNG TY CƠ KHÍ Z179
I. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến công tác quản trị vật tư của công ty
1. Hình thức pháp lý và loại hình sản xuất kinh doanh
Là một doanh nghiệp sản xuất nên các vấn đề liên quan đến việc mua sắm, dự
trữ và sử dụng vật tư sao cho có hiệu quả nhất luôn được công ty cơ khí Z179 chú
trọng đến. Ban giám đốc cùng phối hợp với phòng kĩ thuật, phòng kế hoạch vật tư
thông qua kế hoạch sản xuất trong kì để xác định nhu cầu vật tư cần thiết. Hàng
năm, ngoài kế hoạch sản xuất các mặt hàng kinh tế cho các thị trường công, nông,
lâm, ngư nghiệp theo hợp đồng của khách hàng, công ty phải sản xuất một số mặt
hàng Quốc Phòng theo chỉ tiêu do Bộ đề ra. Trong lĩnh vực hàng Quốc Phòng,
công ty có nhiệm vụ sản xuất đủ số lượng và đảm bảo về chất lượng sản phẩm
được giao. Công ty nghiên cứu và đề ra kế hoạch sản xuất sao cho kịp tiến độ được
giao. Nguồn nguyên vật liệu để sản xuất các mặt hàng này được cấp trên cấp
xuống nên rất thuận lợi cho việc sản xuất đúng tiến độ đề ra. Đây cũng chính là
một thế mạnh của công ty. Vật tư dùng để sản xuất các mặt hàng Quốc Phòng hầu
như không có bán trên thị trường nên công ty rất có ưu thế trong việc sản xuất các
mặt hàng này.
Do đặc điểm sản xuất sản phẩm của công ty là chuyên sản xuất các mặt hàng cơ
khí phục vụ cho Quốc Phòng và Kinh Tế bao gồm các loại: phụ tùng ôtô, xe máy,
các cơ cấu truyền động, hộp số các loại, phụ kiện đường dây, các loại dụng cụ cắt
gọt…nên hầu hết vật tư dùng để sản xuất sản phẩm như các loại thép, đồng, gang,
các loại que hàn, than, vòng bi, dụng cụ đo, dụng cụ cắt… có thể dễ dàng mua trên
thị trường. Tuy nhiên có một số sản phẩm Quốc Phòng lại phải sử dụng những loại
thép mác cao không có bán trên thị trường thì công ty lại được Bộ cấp xuống với
một khối lượng rất lớn nên công ty không gặp khó khăn trong việc tìm mua vật tư
sản xuất sản phẩm này. Trong thời gian gần đây, giá cả của các loại sắt thép trên
thị trường biến động mạnh nên công ty cũng gặp một số khó khăn nhất định trong
16
việc thu mua, bảo quản và cấp phát vật tư đảm bảo cho sản xuất. Mặc dù vậy, công
ty vẫn hết sức cố gắng trong công tác quản trị vật tư nhằm khắc phục những khó
khăn đang diễn ra, đảm bảo cho sản xuất được liên tục và có hiệu quả.
2. Bộ máy quản trị
Công ty cơ khí Z179 là một công ty chuyên sản xuất các sản phẩm cơ khí cho
Quốc Phòng và Kinh Tế. Với diện tích dành cho sản xuất và hoạt động không lớn
nên nhìn chung bộ máy cơ cấu tổ chức khá gọn nhẹ, bao gồm một số phòng ban
chức năng và một số phân xưởng sản xuất. Ban giám đốc luôn luôn phối hợp với
các phòng ban chức năng, đề ra những kế hoạch sản xuất phù hợp với tình hình rồi
trực tiếp điều hành sản xuất cùng với các quản đốc phân xưởng. Các bộ phận, các
phòng ban luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện đúng các kế
hoạch đề ra, đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục và có hiệu quả.
Công tác quản trị vật tư do phòng Kế hoạch – vật tư đảm nhận. Thông qua kế
hoạch sản xuất trong kì, phòng Kế hoạch – vật tư phối hợp với phòng Kĩ thuật đưa
ra các quyết định về việc mua sắm, dự trữ và sử dụng vật tư rồi trình lên ban giám
đốc xác nhận. Chính vì vậy nên việc cung ứng vật tư phục vụ cho sản xuất luôn
luôn được đảm bảo đúng tiến độ.
*Sơ đồ tổ chức bộ máy quản trị
17
Giám đốc
PGĐ Kỹ thuật SX PGĐ Kinh doanh PGĐ Hành chính
P. Kỹ
thuật
P. Cơ
điện
P.
KCS
P. KH
vật tư
P. TC-
Kế
toán
P. Lao
động
P.
Hành
chính
P.
Chính
trị
*Chức năng của các phòng ban trong bộ máy quản trị
-Phòng kế hoạch-vật tư: có nhiệm vụ nghiên cứu tình hình sản xuất thực tế
năm trước do phòng kế toán gửi xuống rồi thông qua đó lập kế hoạch sản xuất từng
kì (tháng, quý, năm). Ngoài ra, phòng kế hoạch còn phải thực hiện các việc liên
quan đến vấn đề kí kết hợp đồng kinh tế với các đơn vị khác như: marketing,
quảng cáo sản phẩm, đưa các kế hoạch tham dự các hội chợ. Phòng kế hoạch phải
tạo mối liên hệ chặt chẽ với khách hàng, sẵn sàng cung ứng đủ số lượng sản phẩm
cần thiết cho khách hàng. Ngoài việc phải lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, phòng kế hoạch-vật tư còn phải tổ chức sản xuất, đảm bảo cung ứng nguồn
vật tư cần thiết cho sản xuất, sửa chữa. Phải tính toán chi tiết lượng vật tư dự trữ,
bảo hiểm cần thiết cho cả giai đoạn sản xuất trong kì. Phải lập kế hoạch chiến lược
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian tới. Tính toán chi phí sản xuất, chi
phí bán hàng, chi phí quản lý để từ đó xác định giá thành sản phẩm một cách tối ưu
nhất.
-Phòng tài chính-kế toán: Thực hiện việc tổng kết, báo cáo tình hình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kì cụ thể. Phân tích, tính toán cụ thể,
chi tiết mức độ hoàn thành kế hoạch của doanh nghiệp. Lập bảng tổng kết tài sản
cụ thể từng kì để cho phòng kế hoạch lập kế hoạch sản xuất kinh doanh.
-Phòng lao động: Thực hiện việc quản lý lao động. Cụ thể là về tiền lương, tiền
thưởng của lao động trực tiếp và gián tiếp trong tháng, trong năm, về các vấn đề
liên quan đến sự biến động nguồn nhân lực trong kì, thực hiện các công việc theo
dõi số ngày làm việc của từng công nhân, nhân viên, tính toán số ngày nghỉ phép
ốm đau của CBCNVC. Phòng lao động tính toán lương, bảo hiểm xã hội và còn
phải đảm bảo các vấn đề liên quan đến việc an toàn lao động, đào tạo huấn luyện,
nâng bậc cho CBCNV trong toàn nhà máy.
-Phòng kĩ thuật: Có nhiệm vụ quản lý kĩ thuật chung cho toàn nhà máy.Dựa
vào các hợp đồng kinh tế, các bản vẽ thiết kế điều hành tổ chức thiết kế, lập quy
trình sản xuất, đảm bảo các yêu cầu kĩ thuật của sản phẩm, phù hợp với trang thiết
18
bị của doanh nghiệp. Xây dựng định mức vật tư cho từng loại sản phẩm sản xuất
trong kì. Tham mưu cho lãnh đạo đơn vị về phương hướng duy trì, đẩy mạnh, phát
triển công tác khoa học quản lý công nghệ, phục vụ cho mục tiêu sản xuất kinh
doanh của đơn vị ngày càng tốt hơn. Xây dựng đội ngũ về chuyên môn, nghiệp vụ
phục vụ lâu dài cho công tác đảm bảo kĩ thuật.
-Phòng cơ điện: Quản lý kĩ thuật thiết bị năng lượng. Phải đảm bảo mọi quy
định đối với việc quản lý, sửa chữa máy móc thiết bị, năng lượng đảm bảo cho sản
xuất: nước, điện. Ngăn ngừa, hạn chế các hư hỏng bất thường,khai thác tối đa công
suất thiết kế của thiết bị và hệ thống năng lượng. Tìm mọi biện pháp để cải tiến,
hiện đại hoá và đổi mới thiết bị nhằm tạo nên chất lượng sản phẩm và năng suất
cao hơn.
-Phòng KCS: Có nhiệm vụ quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý máy móc
thiết bị dụng cụ đo lường, đề xuất với giám đốc các biện pháp sử dụng sao cho hợp
lý và có hiệu quả. Đảm bảo kĩ thuật và phương pháp đo cho mọi người sử dụng
phương tiện dụng cụ đo trong xí nghiệp. Cùng với cán bộ của phòng kĩ thuật tìm ra
các nguyên nhân sai hỏng hàng loạt.
-Phòng hành chính: bao gồm một số phòng ban như văn thư, ytế, tổ bảo vệ,
nhà trẻ, nhà ăn nhằm đảm bảo đời sống tinh thần và thể lực cho công nhân viên
toàn nhà máy. Ngoài ra, tổ bảo vệ còn có nhiệm vụ giữ cho tình hình an ninh sản
xuất của nhà máy được ổn định, tránh thất thoát tài sản.
-Phòng chính trị: có nhiệm vụ nghiên cứu các nghị quyết của Đảng và cấp trên
đề ra. Thông qua các biên bản, nghị quyết đó, tiến hành các hoạt động nhằm hướng
dẫn và giáo dục toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty thực hiện đúng đắn
những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Tổ chức các buổi nói chuyện,
sinh hoạt tập thể nhằm tìm ra các định hướng đúng đắn cho công ty trong thời gian
tới sao cho phù hợp với đường lối chính sách đã đưa ra.
Nhìn chung, mỗi phòng ban trong công ty đều có những chức năng và nhiệm vụ
cụ thể. Mỗi phòng ban đều tập trung thực hiện những nhiệm vụ chính của mình và
19
kết hợp với các phòng ban chức năng khác thực hiện các kế hoạch chung của toàn
công ty.
Chính vì bộ máy quản trị của công ty tương đối gọn nhẹ và ổn định nên việc
đưa ra các quyết định về công tác quản trị nói chung và công tác quản trị vật tư nói
riêng của công ty khá nhanh gọn và chính xác, không phải thông qua quá nhiều
khâu trung gian. Công tác quản trị vật tư do phòng Kế hoạch – vật tư đảm nhận.
Thông qua kế hoạch sản xuất trong kì, phòng Kế hoạch – vật tư phối hợp với
phòng Kĩ thuật đưa ra các quyết định về việc mua sắm, dự trữ và sử dụng vật tư rồi
trình lên ban giám đốc xác nhận. Mỗi khi có hợp đồng sản xuất sản phẩm, phòng
Kế hoạch – vật tư dựa vào định mức vật tư do phòng Kĩ thuật đưa ra, kí lệnh cấp
phát vật tư rồi cùng các quản đốc phân xưởng điều hành sản xuất. Chính vì vậy nên
việc cung ứng vật tư phục vụ cho sản xuất luôn luôn được đảm bảo đúng tiến độ và
việc sử dụng vật tư có hiệu quả hơn.
Thêm vào đó, trình độ của các nhà quản trị trong công ty cũng ngày càng được
nâng cao. Hầu hết các vị lãnh đạo trong ban giám đốc của công ty đều có trình độ
từ đại học trở lên và có từ 25 – 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất cũng
như điều hành sản xuất. Chính vì vậy, công ty luôn có những kế hoạch thu mua,
bảo quản, cấp phát vật tư phù hợp nhất với tình hình và điều kiện sản xuất trong kì.
3. Đội ngũ lao động
Không chỉ trình độ của các nhà quản trị cấp cao trong công ty mới ảnh hưởng
đến việc đảm bảo vật tư cho sản xuất mà trình độ của đội ngũ lao động, đặc biệt là
trình độ lành nghề của công nhân trực tiếp sản xuất, cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
việc sử dụng có hiệu quả vật tư sản xuất. Chính vì vậy, trong những năm gần đây,
công ty cơ khí Z179 luôn chú ý đầu tư đến vấn đề quản trị nguồn nhân lực. Càng
ngày số lượng gián tiếp càng gọn nhẹ và có xu hướng giảm dần, làm cho tỉ lệ giữa
công nhân sản xuất trực tiếp và gián tiếp hợp lý hơn. Hiện nay, trình độ của người
lao động ngày càng được nâng cao, do nhà máy đã đầu tư đúng mức cho việc phát
triển và đào tạo nguồn nhân lực. Trong toàn nhà máy, công nhân bậc 3/7-4/7 chiếm
khoảng 20-25%, còn lại là công nhân bậc 5/7-7/7. Trình độ tay nghề của người
công nhân cao, sản xuất được trong dây chuyền công nghệ liên tục, hiện đại đáp
20
ứng được các yêu cầu về chất lượng cũng như kĩ thuật của sản phẩm. Công nhân
có thể thích nghi được với điều kiện làm việc liên tục, căng thẳng nhằm đạt đúng
tiến độ đã đề ra. Với số công nhân trực tiếp sản xuất có tay nghề cao, công ty có
thể thay đổi cơ cấu công nhân trực tiếp sản xuất cho phù hợp với tình hình chung
sao cho sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Tính đến ngày 19/4/2004 bậc thợ bình quân
của công ty là 5,28.
Trình độ công nhân sản xuất tính đến ngày 19/4/2004
Bậc thợ 3/7 4/7 5/7 6/7 7/7 Bậc thợ bình quân
Số lượng 39 4 22 40 47 5,28
Với số lượng công nhân có trình độ tay nghề cao chiếm tỉ lệ lớn như vậy, công
ty có rất nhiều ưu thế trong việc sử dụng tiết kiệm nguồn vật tư phục vụ cho sản
xuất. Trình độ tay nghề cao, kết hợp với nhiều năm kinh nghiệm trong sản xuất,
đội ngũ công nhân của công ty luôn luôn hoàn thành kế hoạch định mức vật tư cho
từng loại sản phẩm mà phòng kĩ thuật đề ra. Không chỉ có vậy, đội ngũ công nhân
của công ty còn tuân thủ kỉ luật rất nghiêm ngặt, sử dụng vật tư đúng mục đích,
luôn phấn đấu giảm mức tiêu dùng nguyên vật liệu, tận dụng cao độ phế liệu và
giảm phế phẩm giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đạt hiệu quả
cao.
Còn về bộ máy quản trị, hầu hết các cán bộ quản lý của nhà máy đều tốt nghiệp
đại học, nhân viên văn phòng thì trình độ từ trung cấp trở nên. Thêm vào đó, trình
độ của các nhà quản trị trong công ty cũng ngày càng được nâng cao. Hầu hết các
vị lãnh đạo trong ban giám đốc của công ty đều có trình độ từ đại học trở lên và có
từ 25 – 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất cũng như điều hành sản xuất.
Chính vì vậy, công ty luôn có những kế hoạch thu mua, bảo quản, cấp phát vật tư
phù hợp nhất với tình hình và điều kiện sản xuất trong kì. Cán bộ cấp cao trong
công ty luôn chú trọng tiếp thu công nghệ và kĩ thuật sản xuất mới, luôn phát động
các phong trào thi đua sáng tạo CNKHKT nhằm tạo ra các máy móc thiết bị có
công suất cao, chất lượng ổn định mà giá thành lại thấp, từ đó có thể sử dụng một
cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất lượng vật tư dùng cho sản xuất sản phẩm.
21
Chính vì trình độ của người lãnh đạo cũng như trình độ của người lao động có
ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản trị vật tư nên công ty luôn tìm cách tạo điều
kiện cho người lao động nâng cao trình độ tay nghề cũng như trình độ quản lý.
Công ty hỗ trợ cho một số cán bộ, công nhân viên tham gia các khoá học trung và
dài hạn nhằm nâng cao trình độ cho người lao động để có thể tiếp thu đợc với
những trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong năm 2003, nhà máy đã cử 36
công nhân đi học lớp đào tạo, huấn luyện kĩ thuật dài hạn ở trường đào tạo của Bộ
Quốc Phòng và 15 công nhân được đào tạo theo phương thức đào tạo kèm cặp
ngay tại công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của đội ngũ lao động đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh trong toàn công ty, ban lãnh đạo công ty còn hết sức chú ý đến đời
sống vật chất cũng như tinh thần của CBCNV. Về vấn đề thu nhập của người lao
động, hiện nay công ty cũng đang hết sức cố gắng thực hiện các biện pháp nhằm
đảm bảo lợi ích cho toàn thể cán bộ công nhân viên cho toàn doanh nghiệp. Mức
lương hiện nay của CNVC cũng đã tăng đáng kể so với những năm 1998 - 1999.
Đối với công nhân, công ty trả lương sản phẩm hoặc lương định mức hoặc lương
khoán, lương khoán có thưởng. Đối với gián tiếp, công ty trả lương thời gian.
Ngoài ra, cán bộ viên chức trong nhà máy ngoài tiền lương theo thời gian thực tế
làm việc còn được hưởng lương phụ cấp công chức. Chính vì những vấn đề về
quản trị nguồn nhân lực luôn luôn được công ty quan tâm, chú ý nên đời sống vật
chất của người lao động trong công ty ngày càng được nâng cao. Nếu như năm
1998, tiền lương bình quân của cả công ty chỉ đạt 558000 đồng thì đến năm 2002,
con số này đã lên đến hơn 850000 đồng và những tháng đầu năm 2004 là
1.020.000 đồng. Tuy so với cuộc sống hiện nay, mức lương này là không cao như-
ng trong tình hình nhà máy còn khó khăn như hiện nay, đó đã là một nguồn động
viên lớn cho toàn thể cán bộ công nhân viên chức công ty. Công ty còn thường
xuyên tổ chức các phong trào thi đua nhằm tăng năng suất lao động cũng như tiết
kiệm nguyên, nhiên vật liệu sử dụng trong quá trình sản xuất.
22
Tóm lại, đội ngũ lao động trong công ty có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản
trị vật tư. Công ty cần quan tâm động viên và đầu tư nhiều hơn nữa đến người lao
động.
4. Kĩ thuật – công nghệ
Trình độ máy móc thiết bị kĩ thuật là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
lượng tiêu dùng vật tư trong sản xuất. Máy móc thiết bị hiện đại, năng suất cao
cộng với trình độ lành nghề của người lao động sẽ dẫn đến việc sử dụng vật tư tiết
kiệm và có hiệu quả. Ngược lại, với trình độ máy móc thiết bị kĩ thuật quá lạc hậu
thì sự lãng phí vật tư trong quá trình sản xuất là điều không thể tránh khỏi. Đánh
giá một cách khách quan thì hiện nay, trình độ máy móc công nghệ kĩ thuật của
công ty cơ khí Z179 còn lạc hậu, chủ yếu nhập vào những năm 70 của Liên Xô.
Tuy thế, những máy móc thiết bị này vẫn hoạt động tốt, độ chính xác cao, mặc dù
năng suất chưa cao. Hiện nay công ty có tổng cộng 210 máy móc thiết bị các loại,
tuy nhiên công suất hoạt động của chúng còn thấp. Công ty chưa có các kế hoạch
sản xuất phù hợp để tận dụng hết công suất máy móc thiết bị. Điều đó ảnh hưởng
rất lớn đến việc sản xuất sản phẩm cũng như sử dụng vật tư có hiệu quả. Nhìn
chung, những phân xưởng còn phải dùng một số máy móc thiết bị quá lạc hậu đều
sử dụng vật tư vượt quá định mức đặt ra. Đó chính là một hạn chế mà công ty cần
phải khắc phục. Ngoài ra còn có một số máy móc do chính đội ngũ kĩ sư, công
nhân trong nhà máy chế tạo sản xuất (thông qua các phong trào thi đua, sáng tạo kĩ
thuật mà nhà máy đã phát động) như: máy trộn cát, máy gia công cơ khí giản đơn.
Máy móc công nghệ của nhà máy là các loại máy móc đặc thù cho nên cũng khó
có khả năng cải tiến, nâng cấp như máy mài nghiền bánh răng côn xoắn. Chính vì
vậy nhà máy luôn luôn phải đảm bảo sửa chữa, bảo dưỡng kịp thời tránh tình trạng
máy móc thiết bị hỏng quá lâu, không đáp ứng được tiến độ sản xuất. Việc làm đó
cũng góp phần không nhỏ vào việc sử dụng vật tư sao cho có hiệu quả hơn.
Tuy trình độ máy móc, công nghệ lạc hậu nhưng do trình độ lành nghề của
công nhân và cán bộ nhà máy nên việc sản xuất trong nhà máy vẫn diễn ra liên tục.
Các dây chuyền sản xuất vẫn đạt kết quả cao. Lượng vật tư sử dụng tuy có lúc vượt
23
quá định mức do phòng kĩ thuật đặt ra nhưng nhìn chung vẫn đạt được hiệu quả
như mong đợi. Các dây chuyền sản xuất các loại mặt hàng có thế mạnh của công ty
vẫn hoạt động tốt và luôn tiết kiệm được một lượng vật tư đáng kể, góp phần làm
giảm giá thành sản phẩm, giữ vững vị thế cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, nếu
được đầu tư đúng chỗ, năng suất lao động bình quân cũng như việc thực hiện định
mức lượng vật tư sử dụng cho sản xuất của công ty sẽ đạt kết quả tốt hơn. Trong
thời gian tới, công ty có kế hoạch đầu tư 7 tỉ đồng vào việc mua sắm một số loại
máy móc thiết bị mới, hiện đại. Điều đó sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao
hiệu quả sản xuất của công ty nói chung, hiệu quả sử dụng vật tư phục vụ cho sản
xuất nói riêng.
5. Nguồn vốn
Vốn sản xuất kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng nhất của các
doanh nghiệp. Vốn không chỉ ảnh hưởng lớn đến công tác quản trị vật tư mà còn
ảnh hưởng quyết định đến công tác quản trị sản xuất kinh doanh chung của toàn
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể sử dụng vốn để đầu tư nghiên cứu thị trường,
nghiên cứu phát triển, đầu tư đổi mới trang thiết bị máy móc công nghệ, đầu tư
hiện đại hoá hoạt động quản trị và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ. Để có được
nguồn vốn kinh doanh đủ lớn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn
ra liên tục, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với
công ty cơ khí Z179, nguồn vốn của công ty được huy động chủ yếu từ các nguồn
sau: vay vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng quân đội
(công ty có nhiều lợi thế trong việc vay vốn của các ngân hàng quân đội), huy
động vốn từ cán bộ công nhân viên chức trong công ty, từ doanh thu bán sản phẩm
hàng hoá dịch vụ, và một phần nhỏ do ngân sách nhà nước cấp xuống… Nhìn
chung, tình hình tài chính của công ty trong những năm gần đây khá ổn định, công
ty không gặp khó khăn gì trong việc huy động cũng như sử dụng vốn. Tình hình tài
chính của công ty quý I năm 2004, được thể hiện dưới bảng sau:
STT Tài sản Đầu kì Cuối kì
I TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 16376890372 17312176146
1 Tiền 205343235 388780100
24
2 Các khoản phải thu 13578870306 13873383429
3 Hàng tồn kho 2275597462 27557306897
4 Tài sản lưu động khác 131521494 280288738
5 Chi sự nghiệp 197557875 13933190
II TSCĐ và đầu tư dài hạn 21099987744 21045466744
1 Tài sản cố định 20970585769 20897547769
2 CPXD dở dang 129401975 147918975
Tổng cộng 37476878116 38357642890
STT Nguồn vốn Đầu kì Cuối kì
I Nợ phải trả 13406724894 14381001776
1 Nợ ngắn hạn 12652914668 13627191550
2 Nợ dài hạn 753810226 753810226
II Nguồn vốn chủ sở hữu 24070153222 23976641114
1 Nguồn vốn, quỹ 23942253713 24012741605
2 Nguồn kinh phí, quỹ khác 127899509 (36100591)
Tổng cộng 37476878116 38357642890
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng cơ cấu nguồn vốn của công ty trong quý I
năm 2004 tương đối ổn định và cân đối, công ty có khả năng độc lập tự chủ về tài
chính, không phụ thuộc nhiều vào các biến động trên thị trường nói chung cũng
như tình hình sản xuất kinh doanh nói riêng trong toàn công ty. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến công tác quản trị vật tư tại công ty. Dù trong điều kiện hoàn
cảnh nào, công ty cũng có đủ năng lực tài chính để mua sắm những thiết bị vật tư
cần thiết cho sản xuất. Nguồn vốn của công ty so với một số doanh nghiệp nhà
nước khác không phải là quá lớn, nhưng cũng không quá nhỏ, nhìn chung là phù
hợp với tình hình sản xuất kinh doanh trong công ty. Do điều kiện địa lý của công
ty khá thuận lợi về mặt giao thông nên việc thu mua vật tư phục vụ cho sản xuất rất
dễ dàng, khi cần hàng là có ngay nên việc dự trữ vật tư tại công ty không gặp khó
khăn gì. Vì vậy, với một năng lực tài chính không quá yếu mà khá ổn định như
vậy, công ty cơ khí Z179 luôn đảm bảo được tất cả các mặt trong công tác quản trị
kinh doanh nói chung cũng như công tác quản trị vật tư nói riêng.
6. Thị trường cung ứng
Là một doanh nghiệp sản xuất nên những vấn đề về công tác quản trị vật tư
luôn được công ty cơ khí Z179 đặt lên hàng đầu. Phòng kế hoạch vật tư có nhiệm
25