Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

PHÂN TÍCH CHUYÊN XÂU 9 TÁC PHẨM VĂN 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.58 KB, 26 trang )

PHÂN TÍCH CHUYÊN XÂU 9 TÁC PHẨM TRỌNG TÂM VĂN HỌC LỚP 9


TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” NGUYỄN MINH CHÂU

Nếu các nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kì trước năm 1975 được nhìn
nhận từ khía cạnh tiêu chuẩn đạo đức cách mạng, sự cống hiến đối với đất nước thì sau năm 1975,
ơng nhìn nhận nhân vật của mình ở phương diện đời tư, thế sự. Nổi bật trong số đó là nhân vật
người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác
năm 1987.
Người đàn bà ấy là nhân vật chính trong khung cảnh bình minh ở nơi đầm phá miền Trung - chiến
trường cũ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thời kháng chiến chống Mĩ. Nếu khơng vì Phùng muốn
“thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh” thì có lẽ anh sẽ
khơng bắt gặp được người phụ nữ này và cũng sẽ khơng có cơ hội để vỡ lẽ ra nhiều điều từ thực tế
cuộc sống và nghệ thuật. Người đàn bà không được Nguyễn Minh Châu gọi bằng một tên riêng nào
cả, ông chỉ gọi người phụ nữ lam lũ ấy bằng những đại từ phiếm chỉ như “người đàn bà”, “mụ”. Phải
chăng đây là dụng ý của tác giả vì chị chỉ là một trong vô số những người đàn bà làng chài ở các vùng
biển khác cũng vô danh, nhỏ bé và có một cuộc đời bình thường giống như họ? Phải chăng cũng vì
khơng có một tên gọi cụ thể mà hình tượng nhân vật lại có sức khái qt lớn?
Chị là người phụ nữ “trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển,
cao lớn với những đường nét thô kệch”. Chị bị rỗ mặt, “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng
kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Tấm lưng áo của chị đã “bạc phếch và rách rưới”.
Với những chi tiết miêu tả ngoại hình như vậy, Nguyễn Minh Châu đã khiến bạn đọc hình dung ra
một người đàn bà lam lũ, vất vả, chật vật để đối mặt với cuộc sống mưu sinh trên biển đầy hiểm
nguy.
Dường như số phận đã đẩy hết bất hạnh lên con người chị nhưng chị lại cam tâm chịu đựng mà
không hề có một lời trách móc. Ngoại hình chị xấu xí, vì thế mà đàn ơng trong phố khơng ai lấy chị rồi
chị “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”.
Người đàn ông chị lấy khi ấy là một người “cục tính nhưng hiền lành” và khơng bao giờ đánh đập vợ.
Nhưng có lẽ vì sự khắc nghiệt của cuộc sống mưu sinh mà anh ta trở nên vũ phu khiến chị thường
xuyên phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.


Hành động của người chồng khiến vị chánh án Đẩu phải gay gắt thốt lên rằng: “Cả nước khơng có
một người chồng nào như hắn.Tơi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không
sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”. Chị đã phải chịu đựng bao nhiêu cơn thịnh nộ từ người
chồng, chịu đựng bao sự khổ cực, bấp bênh của cuộc sống hàng chài mà không bao giờ phản kháng.
Chị cam chịu số phận bởi chị là một người vị tha, bao dung và hiểu chuyện.
Người đàn bà hàng chài là người thấu hiểu chồng mình hơn ai hết. Chị hiểu tại sao người đàn ơng
hiền lành trước đây lại trở nên nóng tính, bạo lực đến như vậy. Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ,
bấp bênh của cuộc sống thường ngày. Cuộc sống ấy khổ cực nhường nào khi “vào các vụ bắc, ông
trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm
muối”. Là một trụ cột vững chắc cho gia đình, là một người chồng, người cha nên có người đàn ơng
nào lại dửng dưng vơ cảm trước sự đói khổ của vợ con mình. Anh ta đánh vợ khơng phải vì thù ghét
vợ mà là vì anh ta bế tắc, cùng quẫn trước cuộc đời khi không thể lo cho gia đình một cuộc sống sung
túc. Vì khơng có cách nào khác để giải tỏa những tâm trạng tiêu cực đó nên “bất kể khi nào thấy khổ
quá” là anh xách vợ ra đánh. Khi chánh án Đẩu và Phùng khuyên người đàn bà nên bỏ chồng thì chị
đã “chắp tay lại vái lia lịa”: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,


đừng bắt con bỏ nó”. Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng các lí lẽ xác đáng và tự nhận hết lỗi lầm về
mình: “Giá tơi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”; “nhưng cái lỗi chính là
đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Phải chịu những trận địn roi và sự đánh
đập của chồng có người phụ nữ nào không đau đớn nhưng người đàn bà hàng chài ý thức được
nguyên nhân dẫn đến hành động bạo lực của người chồng nên chị khơng hề ốn trách, căm giận mà
còn hết lòng bao dung, vị tha: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, khơng hề kêu một
tiếng, khơng chống trả, cũng khơng tìm cách chạy trốn”.
Không chỉ vậy, người đàn bà hàng chài còn là một người mẹ hết lòng thương con và giàu đức hi sinh.
Chị muốn các con của chị được đón nhận tình u thương của cả bố và mẹ. Chị muốn các con được
lớn lên trong khơng khí hịa thuận, vui vẻ của gia đình nên chị đã xin chồng lên bờ đánh để các con
không phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ chính người bố của mình. Các con cịn nhỏ, chúng
chưa thể hiểu được ngun nhân dẫn tới sự bạo lực của bố nên có thể sẽ căm thù, oán giận bố. Chị
xin lên bờ đánh là để tránh cho các con những sự tổn thương về mặt tinh thần. Khi thằng Phác trông

thấy bố đang dùng chiếc thắt lưng “quật tới tấp” vào lưng mẹ thì nó đã “như một viên đạn trên
đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ơng” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi “lảo đảo ngã
dúi xuống cát” vì hai cái tát của bố. Người đàn bà đã “ơm chầm lấy nó rồi lại bng ra, chắp tay vái
lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không muốn nó trở nên
bạo lực như bố. Đó là đứa con mà chị yêu nhất nhưng người đàn bà phải gửi nó lên rừng với ơng
ngoại chỉ vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó”.
Người đàn bà ấy nhất quyết khơng bỏ chồng vì “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải
có người đàn ơng để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào
cũng trên dưới chục đứa”. Chị sống vì con nhiều hơn là sống cho mình. Vì con mà chị có thể nhẫn
nhục, cam chịu, vì con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ khơng tìm cách giải
thốt cho mình. Các con chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chị bởi đối với chị: “Vui nhất là lúc
ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no”. Đối với một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng
bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn ln muốn các con có một cuộc sống no đủ.
Tuy là người phụ nữ quê mùa nhưng chị lại rất hiểu chuyện. Chị hiểu được lòng tốt của Phùng và Đẩu
nhưng đã từ chối lòng tốt ấy: “Lịng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên
các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”; “Là bởi vì các chú khơng
phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc
thuyền khơng có đàn ơng”. Những lời giãi bày của chị đã khiến vị chánh án và người nhiếp ảnh hiểu
ra nhiều điều. Cuộc sống vốn không hề đơn giản như cách mà chúng ta vẫn nghĩ và có những lí
thuyết sách vở không thể nào giải quyết một cách thấu đáo ở trong thực tế. Phùng và Đẩu khuyên
người đàn bà li hôn nhưng họ lại không hiểu được những nỗi khổ tâm của chị, khơng hiểu được tình
nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao lâu nay của chị.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài với sự đối lập về ngoại hình và tính
cách, giữa sự bất hạnh chị phải gánh chịu với tấm lòng vị tha, bao dung và đức hi sinh của chị. Người
đàn bà ấy đã mang đến cho tất cả bạn đọc chúng ta một cách nhìn nhận thực tế và bao quát hơn về
con người và cuộc đời. Vẻ đẹp của của chị được ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài rách rưới, cam chịu. Và
tác giả đã “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” để phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm
hồn, nhân cách trong những nhân vật của mình.
Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật người đàn bà hàng chài. Nhân vật này đã giúp
bạn đọc cảm nhận được sự thấu hiểu, sự đồng cảm và tình thương mà tác giả dành cho nhân vật của

mình. Qua đó, Nguyễn Minh Châu cũng phần nào khẳng định mình xứng đáng với vị trí là một trong


những “người mở đường đầy tài hoa và tinh anh” (Nguyên Ngọc) trong công cuộc đổi mới nền văn
học Việt Nam.
8. Phân tích nhân vật Phùng

Trong thể loại văn xi viết về người dân Việt Nam trước năm 1945 có rất nhiều tác phẩm để đời. Với
cuộc sống cùng cực dưới ách thống trị của bọn chúa đất ở miền núi, chúng ta có "Vợ chồng A Phủ",
hay chủ nghĩa anh hùng đậm chất sử thi – "Rừng Xà nu"… Nhưng sau đó, năm 1986, xã hội có sự thay
đổi, nước ta xóa bỏ bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường vì thế văn học cũng có bước chuyển
mình. Đề tài thế sự và đạo đưc được các nhà văn xoáy sâu vào khai thác. Và "Chiếc thuyền ngoài xa"
là một tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ ấy.
Được coi là "người mở đường tinh anh và tài năng nhất"( Nguyên Hồng), Nguyễn Minh Châu- cây bút
tiên phong của văn học Việt nam thời kỳ đổi mới đã có nhiều tác phẩm ấn tượng. Một trong những
tác phẩm thành cơng của ơng là "Chiếc thuyền ngịai xa". Truyện ngắn được sáng tác năm 1983 đến
nawm1987 in trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, tiêu
biểu cho xu hướng chung của văn học thời kì đổi mới. truyện ngắn có một tình huống truyện hết sức
độc đáo. Tình huống ấy được thể hiện qua nhãn quan của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhân vật này
được coi là nhân vật thể hiện triết lý cũng như quan điểm của tác giả, là phương tiện để tác giả mang
suy nghĩ của mình đưa đến cho người đọc.
Tình huống truyện trong tác phẩm là tình huống nhận thức, một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý.
Tình huống nhận thức này là được dành cho nhân vật Phùng. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu
cầu của trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức
ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều. Cảm xúc của
nhân vật này qua những phát hiện của mình đã thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp
người đọc cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.
Trước hết, anh là người có tâm hồn nghệ sĩ.Sau mấy buổi sáng "phục kích", anh đã chụp được "cảnh
đắt trời cho". Đó là cảnh ban mai vùng ven biển, với "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu
sương mù trắng như sữa có pha đơi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Với tâm hồn

nghệ sĩ của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như "bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ". Rồi
anh cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc"bối rối, tái tim như có gì đó bóp thắt vào". Anh thấy được
cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện-mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy
tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó, anh nhận thức "bản
thân cái đẹp là đạo đức". Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho người đọc
một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con
người đến cái hồn mĩ.
Khơng chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn là một người tốt bụng, có lịng đồng cảm
với mọi người, mang những đức tính của một người chiến sĩ. Điều này được thể hiện qua phát hiện
thứ hai của anh. Từ chiếc thuyền đẹp như ngư phủ kia, bước ra một cặp vợ chồng: người đàn bà xấu
xí mỏi mệt, người đàn ông thô kệch dữ dằn. Họ là những con người hiện thân cho sự lam lũ, nhọc
nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Sẽ khơng có gì nếu cảnh tượng nghiệt ngã này không xảy
ra trước mắt anh. Người chồng đánh đạp vợ một cách dã man, vừa đánh vừa chửi "mày chết đi cho
ông nhờ", "chúng mày chết đi cho ơng nhờ". Người vợ thì cam chịu trận địn, khơng hề phản kháng
lại. Đứa con thương mẹ, xơng vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực gia đình diễn ra
ngay trước mắt Phùng. Mặc dù đã chứng kiến biết bao cảnh đau thương trên chiến trường nhưng
anh vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự việc này. Nó hồn tồn trái ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi


đây. Với anh- một người đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kì khó khăn của chiến tranh,
anh không thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án Đẩu- bạn
của anh. Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà nghèo khổ kia. Quả là một
người chính nghĩa. Anh ln đứng về lẽ phải, muốn bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều
xấu, điều ác.

Ngồi ra, nhân vật Phùng cịn là người chịu thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với hồn cảnh, khơng bảo
thủ, chấp nhận những cái sai của mình. Ngay từ ban đầu, khi chụp được "cảnh đắt trời cho", anh đã
cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh
bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra
những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách tồn diện Triết lý mà

Phùng nhận ra cũng chính là thơng điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn
từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống.
Nhân vật Phùng là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm này của Nguyễn Minh Châu. Anh vừa là
nhân vật tạo tình huống, vừa là nhân vật gắn kết các sự kiện truyện với nhau, thể hiện thông điệp mà
tác phẩm muốn gửi gắm. Là một người có tâm hồn chiến sĩ và nghệ sĩ, Phùng đã để lại nhiều ấn
tượng tốt trong lòng người đọc.


VỢ CHỒNG A PHỦ
Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tơ Hồi. “Vợ
chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây
là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng cao Tây Bắc của nhà văn. Nổi bật trong
truyện ngắn này là nhân vật Mị, người đã gây được nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn đọc.

Mị là nhân vật chính trong phần mở đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đây là nhân vật tiêu
biểu, đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi. Mị có hồn cảnh thật
đáng thương, bất hạnh. Cơ được sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Vì khơng có tiền cưới vợ
nên bố Mị đã vay tiền bố của thống lí Pá Tra, mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ
của Mị chết vẫn chưa trả hết số nợ.
Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cơ gái xinh đẹp, có tài thổi kèn lá hay như thổi
sáo. Những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị có sức hút, sức hấp
dẫn như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ đẹp của cô gái người Mơng khiến chàng trai nào cũng
muốn có được.
Mị là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế mạng cho món
nợ vật chất của người thân cịn tồn tại trong cuộc sống của người dân Tây Bắc. Khi thống lí Pá Tra
nói với bố Mị rằng: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” thì Mị thẳng
thắn trả lời: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố.
Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lời nói của Mị đã chứng tỏ cơ là một người có nhận thức sâu sắc
về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm con dâu gạt nợ và
sống cuộc sống mất tự do trong nhà thống lí.

Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị vô cùng đau đớn và phẫn uất: “Có đến hàng mấy tháng, đêm
nào Mị cũng khóc”. Mị chuẩn bị sẵn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến bố “Mị khơng đành lịng
chết”. Hành động định tự tử của Mị nhìn bề ngồi là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại thể


hiện sự đấu tranh mãnh liệt địi giải thốt kiếp trâu ngựa. Hành động ấy cịn thể hiện thái độ
khơng chấp nhận cuộc sống thực tại, không chấp nhận thân phận nô lệ của Mị.
Nhưng thời gian trôi đi khiến sự phản kháng trong con người Mị khơng cịn mạnh mẽ nữa. Cô
được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của tác giả nên khiến câu chuyện khách quan và chân thực
hơn. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên qua các công việc “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước
cửa, cạnh tàu ngựa”, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối. Bất kể làm gì thì
“cơ ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Mị gần như câm lặng và cam chịu số phận “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”.. Gia đình thống
lí Pá Tra “có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, giàu có là vậy nhưng con dâu
phải làm việc như thân trâu ngựa. Mị cũng tưởng mình là con trâu, con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ,
việc đi làm mà thôi”. Nhưng con trâu, con ngựa “làm cịn có lúc, đêm nó cịn được đứng gãi chân,
đứng nhai cỏ” còn Mị phải làm việc cả đêm lẫn ngày, không một phút nghỉ tay. Những công việc
hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, hái củi, tước sợi đay hiện ra như một dịng chảy khơng
bao giờ ngừng khiến Mị “lùi lũi như con rùa nơi trong xó cửa”.
Dường như cuộc sống của người con dâu gạt nợ đã khiến cô trở nên câm lặng, “càng ngày Mị
càng khơng nói”. Khơng những thế, Mị cịn mất hết ý niệm về thời gian, không gian. Điều ấy được
tác giả đặc tả qua chi tiết: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông
bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Và
chính Mị cũng đã nghĩ rằng “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết
thì thơi”.
Ngỡ tưởng cơ gái ấy tồn tại như cái xác khơng hồn trong nhà thống lí nhưng khơng khí của mùa xn
đã làm tâm hồn và lịng yêu đời của Mị trỗi dậy. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi mang âm hưởng bồi hồi, tha
thiết, rạo rực khiến Mị nhớ đến quá khứ, nhớ đến cuộc sống tự do của mình trước đây. Mị nhẩm
thầm theo lời bài hát:
“Mày có có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương
Ta khơng có con trai con gái
Ta đi tìm người u”.
Tiếng sáo có sức quyến rũ đến lạ kì. Nó đưa Mị trở về sống với những cảm xúc của một thời tươi
trẻ. Mị khơng cịn “lùi lũi”, chịu đựng nữa. Dường như cơ muốn thốt ra khỏi cái vỏ bọc để sống
đúng là chính mình. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” rồi Mị say, “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn
mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lịng Mị thì đang sống về những ngày trước”. Trước đây,
Mị đã từng là một cô gái thổi sáo giỏi, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo
Mị”.
Khơng khí của những đêm tình mùa xn tràn về khiến lòng Mị phơi phới trở lại và “đột nhiên
vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra mình vẫn cịn trẻ lắm và cũng muốn đi
chơi như bao nhiêu người khác. Ý định muốn đi chơi của Mị đã trở thành hành động khi cô “lấy
ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào ống đèn cho sáng” rồi “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa
vắt ở phía trong vách”. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự hồi sinh trong tâm hồn, thể hiện một
sức sống mãnh liệt mà bấy lâu nay bị những khổ cực đè nén khiến nó khơng có cơ hội được bộc
lộ.


Nhưng giữa lúc lòng yêu đời trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ phàng. A Sử biết
Mị muốn đi chơi nên “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà”, A Sử “quấn ln
tóc lên cột, làm cho Mị khơng cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Trong không gian của bóng tối,
Mị vẫn nghe thấy những âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi”.
A Sử có thể trói buộc Mị về thể xác nhưng khơng thể trói buộc được Mị về tâm hồn. Tiếng sáo da
diết như mời gọi đã khiến “Mị vùng bước đi” nhưng Mị không thể cất bước vì “tay chân đau
khơng cựa được”. Nỗi đau về thể xác khiến Mị quay về thực tại, Mị đau đớn, “thổn thức nghĩ
mình khơng bằng con ngựa”. Mị đã ý thức được cuộc sống thực tại và xót xa cho số phận của bản
thân mình.
Bằng một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người, Mị đã tự giải thốt cho chính mình
qua hành động cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài đến khu du kích

Phiềng Sa. A Phủ là người đối đầu với A Sử - con trai thống lí Pá Tra trong lần A Sử cùng chúng
bạn kéo vào làng chơi và dọa đánh bọn con trai lạ. Vì đấu tranh cho cái thiện, cho chính nghĩa mà
A Phủ bị bắt làm nơ lệ cho nhà thống lí.
Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ
lại đêm mình bị A Sử trói đứng như thế. Từ thản nhiên, thờ ơ, Mị đã có sự đồng cảm với tình
cảnh, thân phận của A Phủ. Suy cho cùng, cả hai người đều là những vật thế mạng cho món nợ
của người thân hoặc của chính mình.
Giai cấp thống trị ở miền núi đã lợi dụng lệ tục cổ hủ đó để bóc lột sức lao động của họ biến họ
trở thành thân trâu ngựa làm giàu cho mình. Bằng tấm lòng thương người, Mị đã “cắt nút dây
mây” và bảo A Phủ “Đi ngay”. Hành động ấy vô cùng táo bạo bởi nếu gia đình thống lí biết thì Mị
sẽ là người bị trói tay vào chỗ của A Phủ.
Khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã thôi thúc Mị bỏ trốn cùng A
Phủ. Sức sống trong cô đã bùng lên mạnh mẽ để đấu tranh chống lại cường quyền, thần quyền và
phụ quyền. Hành động cắt dây trói cho A Phủ cũng là hành động cắt dây trói cho chính mình, chấm
dứt cuộc đời nơ lệ, bị áp chế của Mị.
Có thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Nhân vật này được Tơ Hồi
khắc họa bằng bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Qua nhân vật Mị,
nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đây cũng là một trong những yếu tố góp
phần quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm.
7. Cảm nhận về nhân vật Mị

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được xem là một trong những bằng chứng tố cáo đánh thép tội ác
của chế độ phong kiến cũ nát đè lên vai người phụ nữ nói chung và nhân vật Mị nói riêng. Hình
tượng nhân vật Mị trong tác phẩm đã được Tơ Hồi khắc họa rất thành cơng cả về hình thức lẫn
tâm hồn.
Tơ Hồi là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam khắc họa thành cơng
hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của ơng khơng chỉ có vẻ đẹp
về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thơng qua
hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.



Qua miêu tả của Tơ Hồi thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình
những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong
một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như
một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cơ khơng chỉ đẹp mà cịn rất tài năng. Có tài thổi lá hay
như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc
đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cơ sẽ sớm tìm được bến đỗ u thương.
Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà
gia đình cơ vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngơ làm kế sinh
nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán
Mị cho nhà Thống lí để trả hết nợ.
Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô phải đối mặt với
bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng khơng có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy
Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phịng
nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngồi mờ ảo khơng biết là sương hay là
khói. Mị đã từ một cơ gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu.
Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc,
đêm nó cịn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả
đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống
Lí. Và từ khi cha chết thì mị cũng khơng cịn buồn.











Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng khơng đã trong
tiềm thức của Mị lịng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có
chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm
dâu nhà Thống Lí cơ đã năm lần bảy lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với
lịng hiếu thảo dành cho cha Mị đã khơng đành lịng làm việc đó mà chấp nhận sống một
cuộc sống lầm lũi sống mà như đã chết.
Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội thuận lợi là
lòng ham sống lại được thắp lên. Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị lại muốn được mặc váy
đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa soạn quần áo, chải đầu tóc để đi
hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn
với mùa xn thì Mị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả
hồn mình theo những đám chơi xn nên khơng cịn cảm nhận được nỗi đau nữa. Có thể nói
đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc động nhất
trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị với thủ pháp
tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc và thực tại cay đắng. Khiến
cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt người đọc.
Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt nước mắt của
A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên chống lại áp bức bất công.
Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc
sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt tay nhau đến với vùng đất của tự do.
Thơng qua hình tượng nhân vật Mị, Tơ Hồi đã khắc họa rất thành cơng hình ảnh người phụ
nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng rất mạnh mẽ biết vùng lên
chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do của chính mình.

3. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG





















Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dịng sơng Hương chưa? Sơng Hương chính
là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng Hương
lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với
phong cảnh hữu tình đó là dịng sơng q hương qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
Hồng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ơng là một nhà văn
chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là người đã
có cơng đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt tên cho dịng
sơng?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986.
Tác phẩm đã làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên
bác, giàu chất thơ và giàu trí tưởng tượng. Sơng Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là
khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái tơi của nhà văn. Sơng Hương chính là đối
tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế. Chính vì vậy, sơng Hương đã được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ địa lí đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.
Ở góc độ địa lí, Hồng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sơng Hương ở thượng nguồn để
phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dịng sơng. Đây là dịng sơng có mối quan hệ mật thiết

với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già với tiết tấu
hùng tráng, dữ dội”. Sơng Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua
ghềnh thác, khi cuộn xốy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”.
Sơng Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân hóa
để bạn đọc cảm nhận được sơng Hương như một “cơ gái Di gan phóng khống và man dại”
với “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dịng sơng nổi bật ở vẻ
đẹp cá tính, hùng vĩ.
Nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”,
“cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của
dịng sơng. Tác giả cịn sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sơng là “bản
trường ca của rừng già”, là “cô gái Di gan”, là “người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sơng
trong liên tưởng với một cơ gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông
Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều phương diện khác nhau.
Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sơng Hương “trở thành người tình dịu dàng
và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sơng đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình.
Sơng Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng “mềm như tấm
lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dịng chảy trơi đi thật chậm.
Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với
vẻ đẹp của người con gái Di gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được
đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xn để chuyển dịng liên
tục. Dịng sơng có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn lên” khi tìm đúng đường về,
sơng Hương cịn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru mọi người vào giấc ngủ yên
bình.
Khi chảy vào thành phố Huế, sơng Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu,
sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. “Dịng
sơng kéo một nét thẳng thực n tâm theo hướng Tây Bắc Đông Nam, tự uốn một cánh cung
rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dịng sơng mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” khơng nói ra của
tình u. Sơng Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế, của con

người Huế. Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với các dòng























sơng khác ở cảnh “lập lịe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn Mô
tê xưa cũ”.
Sơng Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tịi thú vị của các nhà văn, nó có chút lẳng
lơ, kín đáo của tình u. Nhìn bằng con mắt hội họa, sơng Hương và những chi lưu của nó
tạo nên những nét cổ kính của cố đơ. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sơng Hương như một
điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm say của trái tim

đa tình, sơng Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận ở nhiều phương
diện dưới các góc độ khác nhau.
Dưới cái nhìn của Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng Hương được đối sánh trong các ngành nghệ
thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa
cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sơng Hương đã làm cho Huế đẹp một cách
trầm lặng và có chút gì đó lẳng lơ, kín đáo.
Sơng Hương là dịng sơng lịch sử. Dịng sơng được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của
Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dịng sơng viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo
vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dịng sơng ấy cịn vẻ vang soi
bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách mạng tháng
Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã chứng
kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.
Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sơng Hương cịn được nhìn dưới góc độ
văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sơng
Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương.
Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh
thành trên mặt nước của dịng sơng này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước
rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng
về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa
nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dịng sơng trong mối quan hệ với tiếng chng chùa ngân
nga khi vào Huế để nhìn nhận.
Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên
những điệu hò dân gian. Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du
đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống
nhã nhạc cung đình để hình thành nên cái nơi của văn chương, văn hóa.
Từ góc độ thơ ca, sơng Hương khơng bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người
nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy
lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà: “Dịng sơng trắng Lá cây xanh”. Hình ảnh này với
câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về một sử thi viết giữa

màu cỏ lá xanh biếc.
Đây là minh chứng thời gian của những tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nhà văn cũng
làm sống dậy, sông Hương hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá
Qt. Sơng Hương quan hồi trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, có sức
mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sơng Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh,
liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn
chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu
chất thơ.
“Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” là bài kí đặc sắc về con sơng Hương của xứ Huế qua đó đã
thể hiện cái “tơi” cá nhân của Hồng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái “tôi” tài hoa, uyên bác.





















Sơng Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác nhau, sơng Hương là dịng sơng của âm
nhạc, của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, về vẻ đẹp của con
người xứ Huế. Cái tôi uyên bác được thể hiện ở sự vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng
kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa vẻ đẹp của dịng sơng.
Sơng Hương được tơ đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng. Sơng Hương được miêu tả qua
chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như “người mẹ phù sa” bồi đắp cho vùng đất giàu truyền
thống văn hóa từ bao đời nay. Sơng Hương cịn được cảm nhận qua lăng kính của tình u.
Thủy trình của sơng Hương là thủy trình có ý thức đi tìm người tình mong đợi, khi chảy giữa
thành phố Huế, sông Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình
u.
Trước khi đổ ra cửa biển, sơng Hương như “người con gái dùng dằng chia tay người yêu”, thể
hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái “tôi” của tác giả là một cái “tôi”
nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải u q hương lắm thì mới có thể
lột tả dịng sơng q hương một cách xuất sắc như vậy. Nhà thơ đã dành tồn bộ tâm huyết
của mình để theo dõi tồn bộ thủy trình của dịng sơng với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến
thức liên quan.
Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dịng sơng từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể dịng
sơng đã có những thay đổi ra sao. Cái “tơi” của Hồng Phủ Ngọc Tường thật là một cái “tơi”
đa phong cách, mang dấu ấn riêng biệt và giàu chất thơ. Nhà văn đã phát hiện và trân trọng
vẻ đẹp của dịng sơng và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cơ gái Di gan, người mẹ phù
sa, người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
Nhà văn đã liên tưởng tới những nhà thơ khác cùng viết về sông Hương như Nguyễn Du, Tố
Hữu, … nhà văn nhớ đến Kiều và muốn được đắm chìm trong những giai điệu ca Huế trên
sơng Hương. Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái “tôi” riêng biệt mang đậm dấu ấn
phong cách nghệ thuật Hồng Phủ Ngọc Tường.
Đoạn trích là đoạn văn xi súc tích và đầy chất thơ về sơng Hương. Dưới cái nhìn tài hoa,
un bác của tác giả, sơng Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử
đến văn hóa, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các bi ên
pháp tu từ nghê thuât như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác

nay bỗng trở nên có hồn , có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh
mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai
đã đặt tên cho dịng sơng?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” đã thể hiện được tấm lịng yêu quê hương, yêu con
người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà
văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác
giả trên con đường văn học ở thể bút kí đồng thời cũng thể hiện cái “tơi” cá nhân riêng biệt,
trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, q hương
đất nước. Bởi nếu có q hương thì mới có chúng ta ngày hơm nay. Phải chăng vì thế mà
trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cơ giáo dạy phải u
Q hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”
“Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” là một tìm tịi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và
khẳng định được tài năng un bác của mình. Chính vì thế mà sơng Hương đã trở thành một
dịng sơng bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.


4. NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ
Nguyễn Tn là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự
cân bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư
tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế
nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác,
thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đị Sơng Đà rút
trong tập tùy bút Sông Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau
Cách mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất khí. Nghĩa là
tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngịi

bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể,
những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút khơng chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật:
người lái đò và con sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là
một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có
hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình". Lúc trở
mặt hung bạo, nó cứ như là "kẻ thù số một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy
chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì mừng
vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.
Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một cây bút
vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải
ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác
nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai
đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa, về
sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung
bạo của con sơng Đà thì từ xa xưa ơng cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ
Tinh: "Núi cao sơng hãy cịn dài - Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen".
Nguyễn Tn thì khơng thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức
tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc
cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ơng đã tung ra biết bao chữ nghĩa
đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hố.
Chẳng hạn, ơng dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách
đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê
gớm "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xốy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những
cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vơ ý là những cái giếng hút ấy nó lơi
tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược
rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở

khuỷnh sông dưới". Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân
còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay
phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước
khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu
cũng quay tít, cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây
tồn bằng nước sơng xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ
tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng


giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt
ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút
lên cái gậy đánh phèn".
Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì qi
do cái động lực bướng bỉnh: khơng chịu lùi bước trước Tạo hố.
Dưới ngịi bút Nguyễn Tn, con sơng Đà thực sự trở thành một lồi thuỷ quái khổng lồ.
Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: "tiếng nước réo gần mãi
lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".
Con thuỷ qi khơng chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ơng lái
đị, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng
người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khp vu
hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng,
lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần
đối phương,...
Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn
Tn gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng
trần. Nó "tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay

trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xn là dịng xanh ngọc bích, mùa
thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng
muốn trở thành thi sĩ. Ơng thấy "lai láng thêm cái lịng muốn đề thơ vào sông nước". Từ
những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân
chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã
đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn
xi: ấy là cái mà ông gọi là "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu" - thoáng hiện lên trên sóng nước sơng Đà; ấy là cái bâng khng ngẩn ngơ của dịng
nước lững lờ trơi xi như nhớ thương những hịn đá thác xa xơi để lại trên thượng nguồn
Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi "một
người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy
nhiêu tình".
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tn, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm
đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sơng ở đây lặng tờ. Hình như từ
đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh khơng một bóng người, cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm.
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa. Chao ơi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng cịi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu
tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương, chăm chăm nhìn tơi lừ lừ trơi trên một mũi đị. Hươu vểnh tai, nhìn tơi khơng chớp
mắt mà như hỏi tơi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ơng khách Sơng Đà, có
phải ơng cũng vừa nghe thấy một tiếng cịi sương ?". Có thể gọi đấy là những dịng thơ văn
xi của nhà tuỳ bút.
Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng lững hình tượng
người lái đị sơng Đà. Thực ra ơng lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con
thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sơng Đà. Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh


khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi

si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sơng dữ, với một lồi thuỷ qi, ơng lái đò
nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường - một nhân vật sử thi trong thiên trường ca
leo ghềnh vượt thác...
5. HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT
“Gió và tình u thổi trên đất nước tơi
Như tiếng gọi ngàn đời không khuất phục
Đất nước giống như con thuyền xuyên gió mạnh
Những mối tình trong gió bão tìm nhau”
(Gió và tình u thổi trên đất nước tơi – Lưu Quang Vũ)
Từ những năm 60 của thế kí trước, Lưu Quang Vũ đã khẳng định tên tuổi của mình bằng việc
sáng tác thơ ca, ngay từ đầu ông đã tạo được dấu ấn về một lối viết tài hoa, nồng nàn cảm
xúc tốt lên tình u q hương, đất nước tha thiết, mà Hoài Thanh đã từng nhận định rằng
“Thơ anh là một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu”. Từ năm 1978, Lưu Quang Vũ bắt đầu chuyển
sang lĩnh vực sân khấu. Có thể khẳng định “Sân khấu mới là mảnh đất của người nghệ sĩ tài
ba này”.. Cảm hứng chủ đạo trong kịch Lưu Quang Vũ là cảm hứng về con người, về cái đẹp,
cái thiện, cái tơi hồ tan trong cái ta. Ở đó tính thời sự được kết hợp với những vấn đề muôn
thuở của nhân loại mà tiêu biểu đó là vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Đó là cuộc giao tranh
giữa cái thiện và cái ác, cuộc giao tranh này là muôn đời muôn kiếp từ khi khai sinh cho đến
ngày khơng cịn trái đất thì vẫn cịn giao tranh thiện ác. Cho nên có người đã từng nói “kịch
Lưu Quang Vũ là có tính vĩnh cửu”
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được sáng tác vào năm 1981 đến năm 1984 mới ra
mắt công chúng. Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch
gồm 7 cảnh được tác giả dựa trên cốt truyện dân gian. Đoạn trích "Vở kịch Hồn Trương Ba,
da hàng thịt" nằm ở cảnh 7 của vở kịch, qua việc xây dựng xung đột giữa tâm hồn thanh cao
của Trương Ba với thể xác phàm tục của anh hàng thịt đã khắc hoạ bi kịch tha hoá và cuộc
đấu tranh gay gắt bảo vệ, hồn thiện nhân cách của con người. Từ đó tác giả đã phê phán
một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội và gửi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc về yêu cầu
thống nhất giữa thể xác và tâm hồn.
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba
“ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:”- “Không.

Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này
lắm rồi!”. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong
những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi khơng
thể nào thốt ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình khơng cịn là mình
nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thơ lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng
rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói
những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận: cái đêm khi ông đứng
cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “st nữa
thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó
là cái lần ơng tát thằng con ơng “tóe máu mồm máu mũi”. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả
những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt
cịn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ơng đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng:
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả
tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời,


chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ bng những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo
những tiếng than, tiếng kêu.
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người
thân. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với
bà “đi đâu cũng được còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ơng cũng đã cảm
nhận được: “ơng đâu cịn là ơng, đâu cịn là ơng Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái,
cháu ông giờ đây đã khơng cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân : tơi khơng phải là
cháu ơng… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó khơng thể
chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt
cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ơng nội nó. Nó
hận ơng vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ
khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ơng nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ
của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút

đi!”. Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố
chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ơng khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi
buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng
mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngồi là khơng đáng kể,
chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy mỗi ngày
thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc
chính con cũng khơng nhận ra thầy nữa…”
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau
tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã
khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ
lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.
Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba cịn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng
lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết
liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ. Nhưng lẽ nào ta lại chịu
thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng cịn cách nào khác”! Mày nói như
thế hả? Nhưng có thật là khơng cịn cách nào khác? Có thật khơng cịn cách nào khác? Khơng
cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết
định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khốt.
Cuộc trị chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan
niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng: Khơng thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo được. Tơi
muốn được là tơi tồn vẹn. Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không
nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là
cho tơi sống, nhưng sống như thế nào thì ơng chẳng cần biết!
Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời
thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hịa. Khơng thể có
một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi
những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi,
vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả
không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi khơng được là mình

thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ
nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau
khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm
giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.


Quyết định dứt khốt xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ
khơng nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá
trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới
chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy
rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vơ lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ
con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng
ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lịng tự trọng. Đặc biệt, đó là
con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Nhiều thập kỉ trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới tồn diện trong khí thế
vươn lên của đất nước và của dân tộc và chúng ta vẫn sẽ cịn tìm thấy những tầng ý nghĩa
thú vị hàm ẩn trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Thông qua nhân vật Hồn Trương
Ba, Lưu Quang Vũ đã đặt ra những vấn đề thắm đẵm tư tưởng nhân văn, không chỉ có ý
nghĩa nhất thời mà cịn có ý nghĩa mn đời với tất cả mọi người.
6. ĐẤT NƯỚC
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con
người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu
dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân.
Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong
trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm.
Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn tồn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình
diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm
nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ
muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ

Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước .
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình
ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.”
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân
thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người .
Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của
bà, cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt
son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược.
Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm
ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân
tộc giầu truyền thống văn hóa , giầu tình u thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn.
Tình u cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia . Hình ảnh thơ khiến ta
rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hơm nào: Tay bưng
dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng qn nhau.
Đất nước cịn là thành quả của cơng cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:
“Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng


Đất Nước có từ ngày đó.”
Ở đây Đất nước khơng còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản
gị biết bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về
đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.

Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa
Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mơng từ rừng đến bể mà cịn
được cảm nhận bởi khơng gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, khơng gian của tình
u đơi lứa, khơng gian của nỗi nhớ thương .
Ý nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với
những liên tưởng gợi ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật
duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của
dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền.
Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hị hẹn . Khơng những thế, đất
nước cịn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu .
Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại
thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ
bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất …”, một lần nữa lại khiến lịng người
xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con chim
phượng hồng bay về hịn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách
dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả .
Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đơi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vơ cùng,
nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc
cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội
nguồn.
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh
mông để mãi mãi là nơi dân mình đồn tụ, là khơng gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam
qua bao thế hệ.

Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng
Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa
Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người
dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dịng giống Rồng Tiên của mình .
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập
luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong chiều rộng
của khơng gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày
của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .


Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư
tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc
và suy tưởng của nhà thơ .
Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta :
“Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần đất nước”
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế
sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước .
Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước,
phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi
bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước .
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam
thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước.

Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên … khơng cịn là những cảnh
thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân,
được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người
khơng tên tuổi : “Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu,
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, “Người học trò thắng cảnh” .
Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần
tâm hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã
ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi , dịng sơng . Từ những hình ảnh, những cảnh
vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc :
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng ch
Ơi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta" cũng thấ
Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta.”
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn
nghìn năm của đất nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, khơng nói đến những anh
hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vơ danh, bình
thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị
đó.
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước”
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá
trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên
xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao . Mạch cảm xúc lắng tụ lại để
cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa
giản dị và độc đáo
“Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước . Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể

hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc : Thật
đắm say trong tình u, biết q trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh
chống giặc ngoại xâm .
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn
lạc quan phơi phới . Tất cả ào ạt tn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui …


Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước .
Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước khơng cịn xa lạ, trừu tượng
mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng .
Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta khơng chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy
tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.
7. VIỆT BẮC
(TỐ HỮU)
Tố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam. Có thể nói những
tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng, lẽ sống của bản thân mình mà qua đó ta còn
thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà.
Tháng 10- 1954 sau chiến thắng Điện Biên Phủ, bộ đội ta phải chuyển lực lượng thủ đô và
chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở người đi lịng khơng khỏi nhớ thương nuối tiếc tình
qn dân trong mười lăm năm khánh chiến. Nhân sự kiện trọng đại cùng với tâm trạng nỗi
niềm ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
Mở đầu bài thơ Việt Bắc là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân
nơi đây:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay”
Tám câu thơ đầu là khung cảnh cũng như tâm trạng của cuộc chia tay. Bao giờ cũng vậy “Khi
ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt Bắc, sống trong tình quân dân chan hòa
nồng thắm ấy thế mà nay những người chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó
như thế bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô mình ta thể hiện sự gần gũi thân thiết của
cán bộ và người dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy.
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở, những người dân Việt Bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người
chiến sĩ có cịn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những người
chiến sĩ về có cịn nhớ khơng, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây. Những người chiến sĩ
cách mạng cũng như đáp lại những ân tình ấy. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến
những kỉ niệm nơi đây khơng khác gì so với người dân.
Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy. Lòng các
chiến sĩ bâng khng, bồn chồn khơng muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần
nào cảm xúc trong lịng người chiến sĩ. Nghệ thuật hốn dụ với hình ảnh “áo chàm” chính là
để chỉ người dân Việt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô.
Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau nhưng lại khơng biết nói lên điều gì. Có lẽ khơng cần nói mà
cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau.
Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những
kỉ niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già


Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son

Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối
lũ về, cả trời đất mây mù che kín. Khoảng khắc khó khăn ấy người dân ln có những chiến sĩ
kề bên. Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay khơng, chiến khu ấy nghèo chỉ
có cơm chấm muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của
nhân dân nơi đây. Và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối
kia là đã quá đầy đủ rồi. Mối thù nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy
cho người chiến sĩ. Những người chiến sĩ về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi đất trời nơi đây.
Và bây giờ trám bùi thì để rụng cịn măng mai để già. Những gì của thiên nhiên Việt Bắc vốn
là để cho những chiến sĩ cách mạng thì giờ đây người đi những thứ ấy lại để rụng để già.
Những từ nhớ như điệp đi điệp lại nhiều lần như vang vào trong lịng người những nhớ
thương khơng muốn rời. Cặp xưng hơ mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ
người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu thương gắn bó của những
con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở như thâu tóm cả thiên nhiên và con người Việt
Bắc với những tình cảm của một tấm lịng son sắc khơng phai. Những địa danh được nhắc
đến như chứng minh cho những trận chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.
Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải
lịng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó:
“Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi..
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.. "
Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy. Dù người
chiến sĩ cách mạng ra đi thế nhưng trong lịng vẫn khơng thể nào quên được những kỉ niệm
tình cảm ấy. Nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi tựa như nước trong con suối kia vậy. Nó dào dạt
ào ạt mãi mãi. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân
Việt Bắc. Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ


niệm về bát cơm thì sẻ nữa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng
hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân.
Khơng những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật
tự nghiêm túc của tất cả mọi người. Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những
ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đơ
gió ngàn vẫn khơng sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy
được những tấm lòng của cả hai bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.
Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể
ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ quý nơi đây, bốn mùa thiên
nhiên hiện lên vơ cùng đẹp:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Có thể nói rằng xưng hơ mình ta lại một lần nữa được thay đổi, Ta ở đây chính là những
người chiến sĩ cách mạng. Cịn mình chính là những người dân ở lại. Những người chiến sĩ ấy
cũng đã hỏi những người ở lại rằng có nhớ họ khơng. Hỏi như thế nhằm thể hiện sự lưu
luyến yêu thương với mảnh đất và con người ở đây. Khơng biết rằng họ có nhớ khơng còn
những người chiến sĩ lại nhớ cả hoa cùng người. Hoa kia chính là để chỉ cho thiên nhiên Việt
Bắc. Sau câu hỏi và sự bày tỏ tình cảm của mình ấy những người chiến sĩ nhắc đến những
cảnh vật và hoạt động của con người Việt Bắc gắn liền với bốn mùa xuân hạ, thu, đông. Thế
nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đơng rước bởi vì
họ đến đây vào mùa đông và ra đi cũng vào mùa đông. Mùa đơng hiện lên với những hình
ảnh của rừng xanh và màu đỏ tươi của hoa chuối. Con người hiện lên với vẻ đẹp kiên cường
chinh phục tự nhiên. Đến mùa xuân thì cảnh Việt Bắc hiện lên với hình ảnh hoa mơ trắng
tinh khiết khắp rừng, con người thì hiện lên với vẻ đẹp của sự cần mẫn trong lao động. Mùa
xuân qua đi mùa hè lại đến thiên nhiên được thay từ màu trắng hoa mơ thành màu vàng của
rừng phách. Người con gái hái măng một mình. Đến mùa thu thiên nhiên lại ngập tràn trong
ánh trăng rằm soi sáng. Người chiến sĩ nhớ đến những người nhân dân Việt Bắc với khúc hát
ân tình thủy chung. Như vậy qua từng ấy câu thơ thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên
thật đẹp như đang níu giữ bước chân người ra đi.
Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những người
chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tâm thảm mỗi người chiến sĩ về
tình quân dân đã làm nên chiến thắng vang dội:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lịng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng


Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà.”
Chính thiên nhiên cũng như đang che chở cho những người con Việt Nam. Những núi đá
dựng thành chiến hào, thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi
những bom đạn của quân thù. Và khi ấy cả bộ đội cả dân quân đều cùng nhau làm nên lịch
sử. Trên dưới một lòng quyết tâm đánh địch. Người về nhưng trong vẫn nhớ đến những
khoảng khắc đánh trận và những địa danh kia.
Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành
quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình
qn dân thể hiện rõ nhất:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân cơng đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá, mn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hịa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng".
Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như
một, Ánh sao để chỉ người chiến sĩ còn mũ nan chính là những người dân quân Việt Bắc. Cả
hai cùng đồng lịng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đồn dân quân với những ngọn
đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt Bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm
chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thẩy với sức mạnh giống như
là nát đá. Bằng biện pháp nghệ thuật phóng đại sức mạnh của nhân dân ta như được thể
hiện rõ hơn.
Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả, cuộc sống khó khăn như đêm
tối vậy. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như lên thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi
sáng của những nhân dân ta. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu
tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc. Bọn giặc kia sẽ phải cút ra khỏi đất nước ta trả lại
cho nhân dân ta một cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Vậy là sau bao nhiêu khổ cực khó
khăn nhân dân ta đã dành được chiến thắng. Tin vui ấy vui trăm mình. Từ Hịa Bình, đến Tây
Bắc và Điện Biên cũng như chung vui với niềm chiến thắng ấy. Tất cả những địa danh ấy đều
như thể hiện niềm vui của cả nước.
Để kết cho niềm vui lẫn niềm nhớ thương lưu luyến không muốn rời ấy nhà thơ cất lên
những niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt
Đảng, biết bao nhiêu việc bàn luận ở hang động núi rừng:
“Ai về ai có nhớ khơng?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thơng mở đường
Giữ đê, phịng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu. ý .
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi


Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền.
Mười lăm năm ấy ai qn
Q hương cách mạng dựng nên Cộng hịa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào."
Ngày những người chiến sĩ trở về với miền xi nghe trong lịng vẫn bâng khng nhớ đến
những ngày tháng cùng nhau kháng chiến. Những cuộc họp những niềm vui đều được thể
hiện trong những câu thơ cuối này. Lá cờ đỏ sao vàng như chứng minh cho thắng lợi của
nhân dân ta. Ở đâu cịn rợp bóng qn thù thì ở đó có Đảng và Bác Hồ. Chính vì thế mà tất cả
hãy trơng về miền Bắc mà ni chí bền. Vì chỉ khi có chí mới làm nên được mọi việc, thắng
trận ngay cả khi quân thù có đủ điều kiện hơn ta về mọi mặt. Mười lăm năm kháng chiến sẽ
còn mãi trong lòng những người chiến đấu và cả nhân dân ở đây nữa. Bao nhiêu gian khổ là
bấy nhiêu tình cảm.
Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những
chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ
niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lịng mình thật muốn vỡ ịa trong nức nở. Chân không
muốn rời xa. Qua đây ta thấy được tình nghĩa đồn kết keo sơn của con người Việt Nam mà
cụ thể đó là tình qn dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào
quên ơn những người nhân dân Việt Bắc được.
8. VỢ NHẶT
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người nông
dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất: yêu
đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu
nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con chó xấu
xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi
cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau đó mất bản thảo.

Đến năm 1954, khi hịa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám
thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại
thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng
tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp, khiến
hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn ra ở khắp nơi khiến con
người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành
cơng trong tác phẩm của ông.
Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ
bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao quanh
khơng gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi đốt đống dấm khét
lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hịa lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người
chết. Để làm rõ nét hơn, Kim Lân cịn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn
thây người nằm chết cịng queo bên đường. Tình cảnh vơ cùng thảm thương, bất hạnh. Kim
Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày tất cả
trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng
giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy
ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện xuất hiện,
đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư,


sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa
làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những người khác. Khơng chỉ vậy,
họ cịn khơng được chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng
đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngồi lề xã hội. Khơng dừng lại ở đó, gia đình
Tràng cịn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì khơng được chia
ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự, anh
Tràng cịn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, cịn hai bên

quai hàm bạnh ra, khiến khn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một
người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt
lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, cịn với các cơ
gái anh hồn tồn khơng có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng
khơng có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ một
cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có những câu hị
để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát
hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bị với anh”. Lời nói ấy đã
khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị
đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ
một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hơm nay bỗng trở
nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào
cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình.
Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm
hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây
ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã
trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng
dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng
ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo
trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí,
suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng hơm sau,
Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi ra từ trong giấc mơ,
anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra
trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà
được dọn dẹp sạch sẽ, khơng khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp,
vun vén nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người
xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ

con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn
chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với
gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan
tâm đến những chuyện ngồi xã hội: mạn Thái Ngun Bắc Giang khơng đóng thuế mà cịn
phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn
khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng.
Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta
trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó cịn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng,


phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lịng
nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt. Người
vợ nhặt khơng có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng khơng hề
có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận
con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ
đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng
hốy lại. Ngoại hình thị vơ cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của
thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon.
Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy
đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là
con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mịn nhân cách con
người ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng sống vơ
cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô
duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị cịn hiện lên với
vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi
xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng,
thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép

khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật
thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thống trong tác phẩm, nhưng cũng có vai trị, ý
nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương cầu thực;
chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con
nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại
nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui
mừng cho đơi trẻ. Bà dặn dị hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem
đến niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương
con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác
phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị
nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con
người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc
thầy của nhà văn Kim Lân.
9. Trong thi đàn Việt Nam, ta bắt gặp một Xuân Diệu với men say tình yêu, một thứ “yêu vội”
mãnh liệt đến lạ, ta gặp Nguyễn Bính với “tình q” chân chất, mộc mạc….và giờ ta- bất ngờ
thay, ta bắt gặp một nữ thi sĩ với tình yêu đắm say, dào dạt, căng đầy xuân trẻ- Xuân Quỳnh.
Thơ Xuân Quỳnh “vút” nhịp là thế nhưng cũng không kém phần chân thật và bình dị. Những
điều tưởng như hết sức đời thường ấy, khi vào thơ Xuân Quỳnh như được “ thổi bùng” lên
bằng ngọn lửa của đam mê, của rạo rực và của tình yêu tuổi trẻ. Điều này được thể hiện rõ
trong bài thơ “Sóng” của nữ thi sĩ này.
Xun suốt bài thơ là hình ảnh ẩn dụ “sóng”- đó là tiếng lịng của “em”, của tất cả những
người đang yêu….Xuân Diệu, nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới cũng đã từng mượn
hình tượng sóng để nói lên tình yêu nồng nàn và mãnh liệt của mình:
“Anh xin làm sóng biếc
Hơn mãi cát vàng em
Hơn thật khẽ thật êm



Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…”
Cịn với riêng Xn Quỳnh, con sóng trong thơ chị vừa “dữ dội” lại vừa” dịu êm”, vừa “ồn ào”
mà lại thật “ lặng lẽ”…Thật đặc biệt và cũng thật tài tình khi đem những sự đối nghịch đặt
liền kề để mà so sánh với nhau, khơng hiểu đó là vơ tình hay cố ý nhưng điều ấy đã phần nào
giúp người đọc hiểu được tính cách đan xen, đa chiều của người phụ nữ, nhất là khi họ đang
yêu.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Vâng, trong chính cái đối nghịch đó chúng ta cịn cảm nhận được sự giằng xé, trăn trở của
người phụ nữ đang yêu, bởi họ- trong tình yêu thường phải chịu hi sinh, cam chịu nhiều hơn
bao giờ hết, mà tình u thì có êm đềm, phẳng lặng, đơi khi cịn ẩn chứa những giơng tố bão
bùng….
“Ơi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Với Xuân Quỳnh, tình u đích thực ln vượt qua khơng gian và thời gian, tình u đó sẽ
sống mãi với thời gian, khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người dù đó là quá khứ đã qua, thực
tại hiện hữu hay tương lai cịn xa…Dù tình cảm con người có chất chứa bao nhiêu cung bậc
cảm xúc thì tình u mn đời vẫn vậy, khơng thay đổi.
“Trước mn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau….”
Trước biển cả bao la với “mn trùng” con sóng, nhà thơ thấy mình thật bé nhỏ với ngổn
ngang những nghĩ suy về anh, về em và về tình yêu của “chúng ta” ấy…Những câu hỏi xuất
hiện nhưng chẳng thể có một đáp án chính xác: “ Từ khi nào sóng lên?” “ Gió bắt đầu từ
đâu?” để rồi nhà thơ liên tưởng tới “ Em cũng không biết nữa” “Khi nào ta yêu nhau”. Tình
u là thứ mn đời chẳng thể ai cắt nghĩa nỗi như Xuân Diệu từng nói :” Nào ai cắt nghĩa
được tình u”…Tình u nó đến và đi như lẽ thường tình, tự nhiên lắm…Đó là sự giao hịa,
cộng hưởng và rung động nhịp đập nơi trái tim hai người, khơng gì có thể ngăn cản được.
“Con sóng dưới lịng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ơi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm khơng ngủ được
Lịng em nhớ đến anh
Cả trong mơ cịn thức”
Có lẽ rằng, trong cả bài thơ, đây là khổ thơ tơi tâm đắc nhất, tình u của người phụ nữ dẫu
có mãnh liệt là thế, dâng trào dạt dào là thế nhưng vẫn e ấp, ngượng ngùng, ẩn dấu như


×