Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đẩy mạnh cải cách giáo dục để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 21 trang )

"CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”

97

ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CUA SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ

GS. Vién si Nguyén Van Dao

DAI HOC QUOC GIA HA NOI
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện

đại với những bước tiến khổng lô “một ngày bằng:

hai mươi năm"

đang tác động toàn diện đến mọi

cầu.

tranh

nền kinh tế, mọi chế độ xã hội trên phạm vi toàn
Cuộc

đua

giữa

các


quốc

gia trên

mặt

trận kinh tế đang diễn ra rất quyết liệt. Một xã hội
thông tin, một nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình
thành.

Một

nhu

cầu có thực và chính

càng trở nên bức xúc của người

đáng

ngày

dân về một nền

giáo dục đại học cho đa số đang được đặt ra. Khơng
có con đường nào khác, dân tộc ta dứt khoát phãi1 đi

lên, phải sớm

thoát khỏi cảnh nghèo


nàn và lạc

hậu bằng giáo dục và khoa học. Mục

tiêu của nền

giáo dục đại học nước ta phải là:

|

GS.VIEN SI NGUYEN VAN BAO

1. Đáp ứng nguồn nhân lực có trí tuệ cho sự nghiệp

cơng nghiệp hóa và hiện

đại hóa đất nước, đảm bảo cho dân tộc ta tiến kịp trình độ phát triển ngày
càng hiện đại của thế giới, tiếp thu kịp thời những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
2. Đáng tạo ra những tr1 thức khoa học mới

thông qua công tác nghiên cứu.

3. Đáp ứng nhu cầu chính đáng của nhân dân về một nền giáo dục đại học cho
_ số đông, mở đường phát triển cho các thành viên trong xã hội, tạo nên sự
bình đẳng xã hội về giáo dục, thực hiện chủ trương “tri thức hóa cơng nơng,

_ trí thức hóa dân tộc, trí thức hóa Đảng và Nhà nước (Tổng bí thư Lê Khả


Phiêu)".

Để đạt được mục tiêu trên đây, điều đầu tiên cần có là sự thống nhất về quan
điểm phát triển, về sự cần thiết phải có những cải cách có tính cách mạng trong

giáo dục đại học. Bài viết này nêu ý kiến của tác giả về các vấn đề sau đây:

I. Thực trạng giáo dục hiện nay - Còn rất nhiều vấn đề bức xúc, nhức nhối đối
với toàn xã hội.

II. Phát triển giáo dục đại học theo hướng nào? Cần có những cơ chế để khơi
dậy mọi tiềm năng và sáng tạo của quần chúng cho phát triển giáo dục.

III. Một sế kiến nghị.

|


98

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

|. .

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC HIỆN NAY - CÒN RẤT NHIỀU VẤN ĐỀ BỨC XÚC

1.

Những


NHỨC NHỐI ĐỔI VỚI TOÀN XÃ HỘI
thành

tựu chính đã đạt được trong thời kỳ đổi mới

(dac | biét la

1990- 1997)
1.1. Trải qua một thời kỳ lúng túng, khủng hoảng, khi chuyển từ cơ chế-bao cấp
hoàn toàn sang cơ chế thị trường, giáo dục nước ta đã có những

đổi mới nhằm

phù

hợp với qui luật của nền kinh tế thị trường. Hiện nay, chất lượng đào tạo đang được
quan tâm, thiết bị, trường lớp được tăng cường một bước; người dân chăm lo nhiều
hơn đến việc học tập của con em mình.

1.2. Thực hiện được một bước xã hội hóa giáo dục, dân chủ hóa nhà trưởng; đa
dạng hóa các loại hình đào tạo: tập trung, tại chức, giáo dục từ xa; trường công, bán

công, dân lập... tạo điều kiện cho nhiều người được học tập; kể cả học đại học.
2.

Còn nhiều yếu kém tổn tại

|

2.1. Về động cơ học tập, mục tiêu dào tạo. Động


cơ học tập của

học

sinh,

sinh

vién

còn nhiều lệch lạc. Bên cạnh động cơ chung của học sinh: học để biét, để làm VIỆC,
để có ích cho xã hội, một số lớn học sinh còn có động cơ học tập khơng

đúng

đắn.

Bức tranh tổng thể của người đi học của ta như sau:
2.1.1. Học sinh phổ thông của ta hiện nay là người bị nhồi nhét quá nhiều kiến
thức (do chế độ thi cử, nạn luyện thịi...), không phù hợp với tâm,

sinh lý, sức khỏe

của học sinh. Về lâu dài sẽ đnh hưởng xấu đến giống nịi. Họ khơng cịn thì giờ vui
chơi, giải trí, tham

gia các hoạt động

xã hội (mà


đây cũng là một nội dung

quan

trọng của giáo dục phổ thông). Họ lấy thi cử làm mục tiêu, o đại học là cái đích.
phải tới. Sự rèn luyện của học sinh thiếu tồn diện. Khi khơng vào được đại học họ

trở nên thất vọng, chán chường. Nhà trường chưa phát huy được tính tích cực, chủ
động của học sinh, cha

chuẩn bị cho ho tinh thân săn sàng tham gia bào sản xuất

cơng tác. Nhớ lại thời kháng chiến chống Pháp, kiến thức của học sinh qua 9
năm học ở phổ thông chỉ vừa phải, nhưng khả năng đáp ứng các nhu cầu của xã hội

rất lớn. Tầng tầng, lớp lớp học sinh lao vào thực tiễn, tham gia chiến đấu, tham gia
sản xuất và công tác. Họ đã có những đóng góp đáng kể cho đất nước và đã tự học,

tự vươn lên suốt cả cuộc đời.
2.1.2. Khơng ít sinh uiên đại học của ta chưa xác định chính xác mục
tập: Họ

chỉ học

sao cho có mảnh

bằng.

Họ


không

quan

tâm

tiêu học

đến việc rèn luyện

phương pháp học tập, phương pháp tư duy khoa học, phương pháp nghiên cứu khoa

học, thiếu tỉnh thần tự giác học tập, thiếu tìm tịi, sáng tạo và do vậy thiếu kha
năng tự học suốt đời. Sinh viên của ta khá thụ động so với sinh viên các nước,

ít

hồi bão khoa học: "Thi gì học nấy", chứ chưa phải học để biết, để làm. Do điều kiện
cơ sở vật chất, trang thiết bị yếu kém, nên sinh viên của ta học nặng về lý thuyết,
nhẹ về thực hành. Phần lớn sinh viên rất lúng túng khi bước vào đời, ít khả năng


"CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”

thích nghi với hồn cảnh xã hội. Hàng
không kiếm

được việc làm


ở thành

99

chục ngàn sinh viên sau khi tốt nghiệp

thị và không

chịu làm việc ở nông thôn

- q

hương của chính mình - cũng thể hiện chất lượng đào tạo về chuyên môn và về tư
tưởng, đạo đức cịn thấp.
Tóm lại, phần lớn các đối tượng

đi học - người học - từ học sinh phổ thông, sinh

viên đại học, đến nghiên cứu sinh cịn có động cơ học tập, mục đích học tập sai lệch.

Con người được đào tạo thiếu toàn diện.
2.2. Về chất lượng giáo dục: So với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước

và so với trình độ giáo dục của các nước trong khu vực và trên thế giới thì chất
lượng giáo dục của ta còn thấp. Nguy

cơ tụt hậu

động.


uề giáo dục của ta là đáng

báo

:
2.2.1, Gido đục phổ thông
- Bộ phận

chiếm

tuyét dai da sé hoc

sinh phổ thông

của ta - đặc biệt là các
tình trạng học tập với
trong

đang
trường ở vùng nơng thôn, vùng sâu, vùng xa

chất lượng rốt thấp. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này cũng rõ: Trình độ thày

yếu, phương pháp giảng dạy lạc hậu theo kiểu độc thoại, thày đọc, trò ghi chép, cd

sở vật chất nghèo nàn, muc tiéu học tập bhông rõ, hiệu qua đâu tư (của Nhà nước
0ò nhân dân) thấp. Kiến thức của học sinh phổ thông của ta nặng về lý thuyết, nhẹ

về thực hành, thực tiễn.


|

|

ca

g1ữ được mức độ tiên tiến và có thể so sánh được với
các nước về một số môn khoa học cơ bản, song biến thức cũng không được toàn diện
như các nước uà cường độ học tập thì căng thẳng hơn học sinh của các nước nhiều.
Điều này dẫn đến hệ quả là hoc sinh của ta khó có thể học tập bền bị, học lâu dài,
Bộ phận các trưởng chuyên

học tập suốt đời như các nước, ảnh hưởng xấu đến việc rèn luyện thể dục, đức dục, - |
c_Z
my duc...
- Việc học sinh ta đạt nhiều giải quốc tế chỉ nói lên một điều về khả năng học
tập của học sinh, khả năng tập trung đào tạo, rèn luyện của các thày giáo của ta,
chứ không nói được trình độ học sinh phổ thơng của ta là hơn các nước.

Đội ngũ

giáo viên phổ thơng

của ta trình

độ chun

mơn

khơng được bổi dưỡng liên tục và có hiệu quả về chuyên môn. Một

về phẩm chất, đạo đức.

và năng

lực thấp,

số giáo viên kém
|

Nhu vậy nhìn chung chất lượng giáo dục phổ thông ở ta hiện nay thấp.
Việc học thêm của học sinh vốn dĩ không phải là xấu, nếu với động cơ lành

mạnh. Nạn học thêm tràn lan khắp các cấp học, học thêm suốt ngày, suốt tuần,

quanh năm, là hiện tượng rất khơng bình thường, thiếu lành mạnh trong xã hội ta,

ảnh hưởng xấu đến sự phát triển toàn diện của học sinh. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng này. Trong đó phải kể đến 3 nguyên nhân chính, đó là: hầu hết
học sinh phổ thơng hướng vào đại học, nhu cầu có thêm thu nhập cho đủ sống của


400

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

giáo viên và cách tổ chức thi cử của ta chưa tốt. Hiện tượng học thêm, dạy thêm _
đang diễn ra một cách tiêu cực cần được chấm dứt sớm? Đây cũng là một quốc nạn.

2.2.2. Chất lượng giáo dục đợi học của ta hiện nay thấp so với các nước trong
khu vực. Nguyên nhân:


- Phương thức đào tạo đại học còn nặng về truyền thụ kiến thức, nhẹ về rèn
- luyện phương pháp học tập, phương pháp tư duy khoa học. Sinh viên thiếu hồi bão
khoa học.
Chương trình đào tạo đại học của ta nặng về 9 thuyét, nhe vé thuc hanh, thuc
tién.

|

- Đội ngũ giảng dạy đại hoc cua ta gia nua (tuổi trung bình của các GS: gần 60;
PGS: 55) với những kiến thức khá cũ kỹ khơng theo kịp trình

độ khoa học và cơng

nghệ hiện đại, ít có điều kiện trao đổi quốc tế.

- Phương

thí nghiệm

tiện giảng dạy thực hành,

thiết bị của những năm

60 vẫn đang

nhiều

còn thiếu và lạc hậu,


được sử dụng. Thư viện, tài liệu, giáo trình,

thơng tin phục vụ cho đào tạo rất kém. Đời sống cần bộ chưa được đảm bảo. Đời

sống sinh viên trong các trường đại học còn thiếu thốn. Ký túc xá, điện, nước, đều
chưa đủ.

- Phần lớn học sinh chạy theo những yêu cầu trước mắt của xã š hội, chỉ theo học
những

ngành

dễ kiếm

việc làm và kiếm

được nhiều tiền. Các ngành

khoa

hoc co

bản uà một số ngành kỹ thuật, mặc dù rất cần cho đốt nước nhưng rất ít người theo
học.

|

e Các trường đại học dân lập đã đáp ting được phần nào nhu cầu học tập của
học sinh đối với một số ngành nghề ít địi hỏi đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và xã
hội đang có yêu cầu. Đây là chủ trương đúng, nên tiếp tục. Song, việc kiểm tra đánh

giá và quản lý chất lượng đào tạo của các trưởng này chưa được các cơ quan quản lý

của Nhà nước quan tâm đúng mức.

|

e Chất lượng của các loại bằng hiện nay chưa được đảm bảo.

e Công tác nghiên cứu khoa học trong trường đại học cịn bị coi nhẹ. Kinh phí
cho nghiên cứu khoa học của các trường đại học rất ít.
e Chat lượng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Bên cạnh
tiến sĩ thuộc một số ngành

|

việc đào tạo nghiêm tiie thac si,

khoa học, do tư tưởng chạy theo bằng cấp, địa vị và do

nhiều nguyên nhân tiêu cực khác, trong các năm

gần đây, đã có những bằng thạc

sĩ, tiến sĩ được cấp cho những người khơng đủ trình độ, gây sự bất bình trong giới
khoa học, làm mất uy tín của các cơ quan đào tạo và cá nhân người được nhận
bằng. Lẽ ra, tiến sĩ phải là người được đào tạo để nắm

được phương

pháp nghiên


cứu, tư duy khoa học và có những kiến thức cơ sở cần thiết cho công cuộc nghiên
cứu phát mình

sơu này, trong suốt cả cuộc đời. Song,

phần

lớn đối tượng nói trên

chỉ dừng lại ở mảnh bằng nhận được. Họ khơng có đủ năng lực uề chun mơn,

©


“CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”



101

ngoại ngữ va hông nam được phương pháp nghiên cứu để thực sự tự lập, tự nghiên
cứu tiếp tục. Việc tổ chức thi tuyển cao học, nghiên cứu sinh cịn nhiêu bất hop ly,
khơng phát huy được các vai trò của các trung tâm

đại học lớn và vai trò của các

|

nhà khoa học trong đào tạo nhân tài.

_

2.2.3. Gido duc day. nghé con yéu va chua cé 2 những

biện pháp có hiệu quả để

tăng cường đào tạo nghề. Ỏ các nước, phần lớn học sinh phổ thông được phân luồng

qua các tuyến dạy nghề phù hợp với trình độ và điều kiện học tập của học sinh. Còn
ở ta, hầu hết học sinh hướng vào đại học, gây sức ép rất lớn đến việc thi vào đại học,
gây tốn kém và căng thẳng đối với học sinh và xã hội. _
2.3. Việc kiểm tra, lánh giá chất lượng đào tạo chưa được thực hiện nghiêm túc ˆ
Trong khi mở rộng qui mô đào tạo, đu dạng hóa các Toạit hình đào tạo, chúng ta
chưa thực hiện được nghiêm mĩnh, chặt chẽ uiệc kiểm tra, đánh giá chất lượng đào

tạo, chất lượng thi củ, chất lượng các uăn bằng. Đây là một khâu yếu cần sớm khắc
phục để đảm bảo giữ vững và nâng cao chất lượng đào tạo..

2.4. Nguy cơ xét lại những thành tựu đổi mới giáo dục trong bơn chục năm qua đang
lớn dần

Nhiều chủ trương đổi mới giáo dục của Đảng và Chính phủ trước đây là tích

cực, đúng hướng và phù hợp với xu thế phát triển giáo dục trên thế giới, đáp ứng

được yêu cầu của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,

chưa được đánh giá

nghiêm túc, khách quan, khoa học, trong đó có việc xây dựng các đại học quốc gia,

đại học khu vực. Có nguy cơ lớn trong việc xóa bỏ thiếu căn cứ những thành tựu đổi
mới đã đạt được, gây sự mất ổn định.

Tóm lại: Giáo đục nước ta đang trong tình trạng yếu bém toàn điện, đang trong

thế tụt hậu xa so uới nhiều nước trong khu vue va trén thế giới. Còn rất nhiều uấn đề

bức xúc, nổi cộm. Cần khẩn thiết chỉ ra những nguyên nhân và có những biện pháp
kiên quyết để tạo nên sự phát triển lành mạnh của giáo dục trong thời gian tối đây.”

ll.

PHÁT TRIEN GIAO DUC DAI HOC THEO HƯỚNG NÀO ? CAN CO NHUNG CO
CHE DE KHOI DAY MOI TIEM NANG VA SANG TAO CUA QUAN CHUNG CHO
PHAT TRIEN GIAO DUC

1.

Một

cuộc

cách

mạng

mới

về kinh


tế và xã hội

đã bắt đầu

trên

hành.

tỉnh chúng ta với tri thức và thông tin là nguồn lực chủ chốt
Những thành tựu đặc sắc của khoa học và công nghệ thế giới trong ba chục

năm gần đây, đặc biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy một cuộc cách mạng mới

về kinh tế và xã hội, đã hình thành một nền hinh tế tri thức va xa hor thong tin- lấy
tri thite va thong tin là nguồn lực chủ chốt. Một nền kinh tế phát triển ngày càng

dựa vào khoa học và công nghệ. Tri thức và Thông tim đã trở thành một thứ vốn


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

102.


ngành sản xuất, kinh
quí, rất quan trọng trong việc tạo nên gia tri gia tăng của các
thành hoạt động quan
doanh, tổ chức và quản lý. Việc sản sinh ra tri thức sẽ trở

trọng nhất của loài người.


nhận thức và
Tri thức là sản phẩm trí tuệ của con người. Nó đã giúp con người

cao. Ngày nay tri thức lai
cải tạo thế giới, đưa con người đến trình độ văn mình rất

tạo ra trì thức mới,
có thêm một chức năng cực kỳ quan trọng là dùng tri thức để

trì thức để sử dụng có
dẫn lồi người đến một nền kinh tế tri thức với việc dùng
thức mới. Các sản phẩm '
hiệu quả những tri thức đã có và tìm kiếm thêm những trì
thơng, các loại sản phẩm
của cơng nghệ thơng tin như máy tính, các thiết bị truyền
giúp con người tạo ra
phần mềm... chứa đựng rất nhiều tri thức của loài người,
quả trong sản xuất và đời
những tri thức mới, làm cho tri thức được sử dụng có hiệu
|

¬

sống.

"5

thực đối với các nước
Nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin không chỉ là hiện

cho các nước đang phát
giàu, các nước đã phát triển, mà còn là tương lai rất gần
tình hình này! Trong
triển. Vấn đề mấu chốt là cần phải nhìn ra và nắm bắt được
chỉ chiếm một tỷ lệ rất
_ một xã hội hậu công nghiệp, giá trị sản lượng nông nghiệp
cua cac sản nghiệp thứ
thấp (khoảng 5%). Cac nganh ché tao 20- 30%, con ty trong
vụ) càng ngày càng
ba (tài chính, ngân hàng, giao thơng, viễn thơng, du lịch, dịch
cao (60- 70%).
vực quan trọng
Hội nhập với thế giới trong xu thế tồn cầu hóa, mà hai lĩnh
vụ và tồn cầu hóa
nhất là tồn cầu hóa các hoạt động thương mại (hàng hóa, dịch

nghệ thay đổi
"hoạt động tài chính), là điều tất yếu sẽ xảy ra nay mai. Do công

bắt buộc phải
và cạnh tranh quốc tế quyết liệt nên các cơ sở sản xuất đều
xuất, kinh doanh.
Không ngừng: cải tiến sản phẩm, cải tiến tổ chức và quản lý sản
thì biện pháp
"Trong điều kiện đó, nước ta muốn theo kịp trình độ của các nước
có nghĩa là họ phải
quan trọng nhất phải là nâng cao năng lực của người lao động,
đương nhiên phải
được hưởng nền giáo dục tốt hơn và việc cải cách giáo dục là việc


nhanh

làm một cách rất khẩn trương.
2.

chuyển từ nền
Xu thế phát triển đại học trên thế giới. Sự tất yếu phải
số đông, tiến
giáo dục đại học cho số ít sang nền giáo dục đại học cho

đến phổ cập đại học

đào tạo nhân
Vài chục năm trổ về trước, người ta xem các trường đại học là nơi
đây, người ta có
lực trình độ cao, chỉ dành cho một số ít những người tài giỏi. Tại
có hệ thống của quốc
những biện pháp (đặc biệt là thì cử), để giữ vững trình độ cho
đồng đều như nhau trong phạm vì tồn quốc.
gia và chất lượng đào tạo
Trong những

năm gần đây, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền kính tế và

học đã
thỏa mãn nhu cầu nâng cao dân trí, xu thế thế giới về qui mơ đào tạo đại


403


“CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”

thay đổi theo chiều hướng tăng nhanh qu1 mô đào tạo đại học, tạo cơ hội cho ngày
càng nhiều thanh niên được học đại học, được cung cấp các kiến thức đại học.
Người ta phân loại qui mô giáo dục đại học của các nước theo số phần trăm sinh
viên trong tổng số người dân ở lứa tuổi 18- 22. Nếu số phần trăm đó dưới 15 (15%)

thì nền giáo dục đại học tương ứng được gọi là nền giáo dục đại học cho số ít. Nếu số
phần trăm đó trong khoảng từ 15- 50 thì nền giáo dục đại học tương ứng được gọi
là nền giáo dục đại học cho số đông. Nếu số phần trăm lớn hơn 50 thì nền giáo
đại học được gọi là nền giáo dục đại học phổ cập.

dục

Các
Với các nước có trình độ phát triển cao, tỷ lệ sinh viên được học đại học cao.

51%. My va
( tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển ) đã đạt tới tỷ lệ
sinh
đạt 82%. Việt Nam có khoảng 10 triệu ngườiở lứa tuổi 18- 22 với số

nước OECD
Canada

ta là
viên khoảng 800.000, mới chỉ đạt tỷ lệ khoảng 8%, nghĩa là nền đại học của
nhất
đại học cho số ft. Số sinh uiên đạt học củu ta trên 100 ngàn đân thuộc loại thấp
trong số các nước Châu Á- Thát Bình Dương (xem bang 1 )


VÙNG
Bảng 1. SỐ SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN 10 VAN DAN TAI! 29 NƯỚC VÀ
LÃNH THỔ THUOC CHAU A- THAI BINH DUONG

Nước và vùng lãnh thổ

_ Số sinh viên trên 100.000 dân

GNP (USD)

4253

10076

Hàn Quốc _.

3325

|

.

| Đài Loan:

2606

a

Philippin


2340-

Nhat Ban



|

-

Singapore

—_

c

|

Thai Lan

.

=

Kazakstan

|

|


Ubekistan

.

|

Thổ Nhĩ kỳ

“4130

_

36315

sị

26400

|

2080 -

_

1733

4680

1629


860

1567

2540

——

|

1267

'

23200
810"

.

480

4283

|

2680

|


2090

1330

¬

Kinghizia

Mơng Cổ

.

19960

|

_ 1540

Héng Kéng
Tajikistan

42265

_

3219

|

ic


16880



|

ast

~

NewZealand

|

325


DAI HOC QUOC GIA HA NOI: KY YEU HỘI THẢO KHOA HỌC

104

ˆ

Nước và vùng lãnh thổ

| Số sinh viên trên 100.000 dân

' Tummenistan


1143

1270

1076

2535

1045

940

-

679

3430

SỐ

558

200

Fiji

.

Indonesia


Malaysia

Nepan.

Ấn Độ
Srilanka

|
ˆ

,

555


AT

Bangladesh

402 -

Pakistan

258

Afganistan

|

—_


162

375
660

540

-

283

ti.

464



|


158

Campuchia

Lào '

|

504


Trung Quéc

Việt Nam

GNP (USD)

"

¬-

T80
215

- 250
325

112
Nguồn số liệu: báo cáo UNESCO các năm 1993, 4995

Theo luật số đơng, muốn có nhân tài phải đào tạo nhiều người, và trong SỐ
hàng trăm, hàng ngàn người thuộc cùng một lĩnh vực, chỉ có một vài người trỏ
thành những tài năng xuất sắc.
*

Để đạt được tỷ lệ sinh viên đại học cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát

triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính

đáng của thanh


niên và nhân

dân ta về việc được cung cấp những kiến thức ở trình độ đại học, thực hiện chủ

trương trí thức hóa cơng nơng, trí thức hóa dân tộc, trí thức hóa Đảng và Nhà nước

(TBT Lê Khả Phiêu), khơng có cách nào khác là chúng ta phối tăng qui mô đào tao

Chủ trương đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra trước
đây: Mở rộng qui mơ, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, huy động các nguồn lực
ngồi ngân sách để phát triển giáo dục là hoàn toàn đúng. Trong những nắm tới
đây chúng ta cần mở rộng hơn nữa khu vực tư nhân trong đào tạo đại học. Tăng qui

đại học.

mô đương nhiên dẫn tới giảm chất lượng trung bình của đào tạo đại học.

3. `Mối quan hệ giữa qui mô và chất lượng đào tạo đại học

Khi qui mơ đào tạo đại học tăng, cần xóa bỏ quan niệm về sự đồng đều chất

lượng trong cả nước, xóa bỏ quan niệm "như nhaư” về văn bằng giữa các trường đại

học, về quan niệm về một "văn bằng quốc gia". Trong một nước (ngay cả ở Mỹ cũng


“CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”

vậy), các trường đại học có những chất lượng, đẳng cấp khác


405

nhau và đi với nó là

những bằng cấp của riêng từng trường một. Người ta khơng nói là bằng đại học của
nước Mỹ mà là bằng của một trường đại học cụ thể, như của Ha-vót, của MIT
V.V.... VỚI tấm bằng tốt nghiệp đại học Ha-vơt, sinh viên có thể có ngay việc làm ở bất
cứ nơi nào. Điều này không xảy ra với các trưởng đại học khơng có tiếng tăm gì,
chất lượng đào tạo thấp.
Về phương

nước cần đặc biệt tập trung đầu tư cho một số
cøo (trong đó các Đại học Quốc gia có vai trị, đặc biệt

điện quốc gia, Nha

trường đại học chất lượng

quan trọng) và chấp nhận chất lượng đào tạo trung bình ở các trường đại học cịn
sắc lại. Trong các trường “trung bình" này vẫn ln ln có những sinh viên xuất
Họ cần được tạo mọi điều kiện thuận lợi để chuyển sang học tiếp ở các trường đại
học chất lượng cao. Việc mong muốn tất ca các trường đại học trong nước đều có
chất lượng cao chỉ là không tưởng. Tuy vậy, yêu cầu đảm bảo chất lượng, thường
tạo. G day vai trò
xuyên nâng cao chất lượng vẫn cần đặt ra cho tất cả các cơ sở đào

quan ly của Nhà nước (thông qua Bộ Giáo dục và. Đào tạo) là cực kỳ‹ quan trọng.

Những


chuẩn mực tối thiểu cho một nhà trường cần được qui định rõ ràng: đội ngũ

thầy giáo, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, chất lượng tối thiểu (chất lượng đạo
được
đức, tư tưởng, thể lực, chất lượng chuyên môn) vv.. .. Đố lượng tuyển sinh

qui

định theo khả năng của từng trường, chẳng hạn số ï sinh viên trên số thầy giáo. Mức

độ đóng góp học phí khơng nên qui định đồng loạt cho moi trường, bởi chất lượng
mỗi trường khác nhau, chi phí cho đào tạo của mỗi trường khác nhau. Các trường
phải đua nhau nâng cao chất lượng đào tạo vì đây sẽ là lẽ sống còn của mỗi trưởng.
ngặt.
Việc thanh tra, kiểm tra giáo dục cần được thực hiện một cách nghiêm

Cũng tương tự như đội quân đánh giặc, các trường đại học, cơ sở đào tạo của ta
gồm có những binh chủng, trong đó có quần chủ lực, chính qui (các trường đại học
chất lượng cao), song cũng có bộ đội địa phương, ` dân quân du kích, lực lượng dân
phịng. Tất cả các bình chủng đó hợp đồng tác chiến để tấn công vào giặc đốt, vào
nghèo nàn, lạc hậu. Việc xây dựng các lực lượng giáo dục này là nhiệm vụ của Nhà
nước và của tồn dânÌ

sẽ là việc bình
Việc sinh viên tốt nghiệp khơng tìm được việc làm phù hợp cũng
thường. Điều này trái với nền kinh tế kế hoạch trước đây, khi việc đào tạo được tiến

hành theo kế hoạch. Sinh viên lúc vào học đã biết mình sẽ làm việc ở đâu.


Ngày nay, tình trạng thất nghiệp là phổ biến ở tất cả các nước giàu cũng như

_ nghèo, nước phát triển cũng như kém phát triển. Song, như đã nói ở phần

đầu,

có trình độ
trong nền kinh tế tri thức, trong xã hội thông tin, đội quân thất nghiệp
cách chuyển
đại học đó dù sao vẫn cịn nhiều cơ may tìm kiếm được việc làm bằng
đổi ngành nghề, bằng cách học và tự học thêm.

cấp những kiến:
Ở đây, một lần nữa cần nhấn mạnh rằng nhu cầu được cung
và thanh niên ta.
thức ở trình độ đại học là một nhu cầu chính đáng của nhân dân

|


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI: KỸ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

106

Học để biết, để làm việc và để sáng tạo ra những tri thức mới.

|

Mỏ rộng qui mô


đào tạo đại học để ngày càng nhiều người có được những kiến thức đại học cũng là

sứ mệnh của nền giáo dục đại học nước ta. Việc chỉ nhấn mmạnh một chiêu đến chất
lượng đào tạo uà uin uào đó để hợn chế qui mô đào tạo sẽ dẫn tới sự kém phát triển

` của giáo dục đại học uè sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển hình tế, xã hội của
đất nước sau này.

Giáo dục đại học nước ta đang còn ở mức thấp của giai đoạn đại học cho số ít
cần phấn đấu để trong vịng 10 - 15 năm nữa chuyển được sang giai đoạn đại học

|

|

cho số đông và 25 - 30 năm nữa sang gia1 đoạn đại học phổ cập.

Nói tóm lại, Chúng tạ cần tiếp tục tăng qui mô đào tạo đại học nhằm:

|

_e_

Đáp ứng nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin, cho sự
_ nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước,, đảm

bảo để nước ta theo

kịp trình độ phát triển của thế giới trong tương lai.




|

|

.

a

_—

Đáp ứng nhu cầu chính

đáng của nhân

dân và thanh niên ta về việc được

cung cấp những kiến thức ở trình độ đại học, thực hiện chủ trương "trí thức

hóa cơng nơng, trí thức hóa dân tộc, trí thức hóa Đảng và Nhà nước (TBT Lê
Khả Phiêu)"

Tăng

qui mơ

đào tạo đương nhiên

dẫn


đến việc chất lượng

trung bình bị hạ

thấp. Do vậy cần chấp nhận sự phân tầng về chất lượng đào tạo đại học trong nước
(ở Mỹ phân ra 7 loại chất lượng khác nhau). Cần xóa bỏ quan niệm về "bằng cấp
quốc gia”. Bằng tốt nghiệp

do từng trường cấp và chất lượng đào tạo gắn với từng

trường cụ thể.
Chấp nhận tình trạng nhiều sinh viên tốt nghiệp chưa kiếm ngay được việc làm
thích hợp. Song tăng qui mơ đào tạo đại học cũng là tăng khả năng lựa chọn người
tài cho sản xuất và xã hội, tăng tiềm lực trí tuệ của dân tộc, ấy là chưa kể đến yêu
cầu cao về chất lượng của người lao động, chẳng hạn giáo. viên tiểu học phải tốt
nghiệp đại học, chất lượng cơng nhân, viên chức thì số sinh viên tốt nghiệp đại học
của ta cịn q ít so với u cầu.

Tăng qui mô đào tạo đại học là xu thế tất yếu của các nước trong quá trình .

phát triển kinh tế, xã hội.

|

Giai bai toan kinh tế cho sự phát triển giáo dục đại học. Sự tồn tại của'

4.
_—



|

một thị trường giáo dục

Tiềm lực cho phát triển giáo dục đại học của ta là rất lớn, đặc biệt là đo truyền
thống hiếu học của dân ta, do ý thức xem việc học hành như một sự đầu tư quan

trọng bậc nhất cho tương lai của con em mình. Do vậy, một mặt Nhà nước cần tiếp
tục có những chính sách ưu đãi đối với những người có khó khăn đặc biệt uề kính tế

(trong đó đặc biệt quan tâm đến đối tượng thuộc diện chính sách ưu đãi), mặt khác

cần phải thực hiện chính sách thu đủ, chi đủ cho giáo dục. Thật vô lý, khi những

|


- *GƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN BAI HOA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”

107

người dư thừa điều kiện kinh tế lại chỉ có đóng góp mang tính tượng trưng cho
những chỉ phí về giáo dục, cịn thiếu đâu Nhà nước phải bù !
Chẳng hạn, chỉ phí tối thiểu cho việc đào tạo một sinh viên trong 4 năm học là
-40 triệu đồng. Thế thì, việc một sinh viên phải đóng học phí 10 triệu đồng/năm học

phải là việc bùnh thường, phổ biến, chữ khơng thể chỉ đóng Ì ,ð triệu như ngày nay?
Người nào thực sự không có khả năng đóng góp sẽ được giảm, miễn. Hiện nay, do
lương và thu nhập của cán bộ, công nhân cịn thấp nên sẽ dẫn tới tình trạng phần

lớn con em của họ khi học đại học sẽ được giảm, miễn học phí. Song, khi đó họ cần

hiểu rằng họ đã được giảm, miễn một khoản tiền rất lớn? Họ phải có trách nhiệm

đối với việc học tập ngày nay và công tác sau này. Với đà tăng trưởng kinh tế, số

người có khả năng đóng góp day du cho chi phí giáo dục sẽ ngày càng tăng.

Ỏ Nhật và Mỹ phần đóng góp cho giáo dục từ phía Nhà nước chỉ là phần nhỏ,

như Nhật (35%), Mỹ (42%), phần cịn lại do khu vực tư nhân đóng góp.

Chúng ta chống việc thương mại hóa giáo dục, làm giàu quá đáng trên lưng học
sinh. Song, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng có một thị trường đặc

_biệt - thị trường giáo dục - tơn tại, bị chì phối bởi qui luật thị trưởng: qui luật cung,
cầu, cạnh tranh, chất lượng, giá cả... Thị trường đặc biệt này liên quan đến một sản
phẩm đặc biệt là con người. Do vậy, nó cần được quản lý tốt để phát triển.
5.

Thực

hiện một

cuộc

cách mạng

về phương


pháp

dạy và học, kiến tạo

một xã hội học tập, học và tự học suốt đời

Nền giáo dục truyền thống ở nửa đầu thế kỷ 20 trong bối cảnh cuộc cách mạng

khoa học và kỹ thuật diễn ra chậm chạp, lượng kiến thức của loài
trong khoảng thời gian vài chục năm, đã được thực hiện theo
ô định từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các
những kiến thức khá ổn
thu nhận được trong nhà trường đủ để con người t ta sử dụng trong
nghề nghiệp của mỗi người hầu như khơng thay đổi.

người tăng rất ít
cách truyền thụ
kiến thức cơ bản
suốt cuộc đời và

Tình hình đã biến đổi hoàn toàn khác ở nửa sau thế kỷ 20, với cuộc cách mạng
của khoa học và công nghệ diễn ra như vũ bão, trên qui mơ tồn cầu và tác động

đến tất cả mọi người trên hành tỉnh của chúng ta, đặc biệt là trong những ngành

khoa

học và công nghệ

mũi nhọn như


công nghệ

thông

tin,

điện tử, viễn thông,

thời
_ trong công tác quản lý và điều hành xã hội. Điều này đòi hỏi con người trong
lnh.
đại của chúng ta phải luôn luôn cập nhật kiến thức, có khả năng thích ứng
học tự
hoạt với sự biến đổi của môi trường và điều kiện làm việc nghĩa là phải

đào tạo
học thường xuyên, suốt đời. Đề có được khả năng này, con người phải được
xã hột học tập.
theo nội dung và phương pháp khác hẳn trước kia, cần kiến tạo một

cách sâu
Về nội dụng, sinh viên phải được cung cấp những kiến thức cơ bản một

khả năng sử dụng
sắc và theo diện rộng, phải có trình độ ngoại ngữ rất. tốt, phải có
-thành thạo các cơng cụ thơng tin hiện đại (máy tính, inter net...).


HD


mHm==†¡

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

108

_

bị cách học, phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp, sinh viên phải được trang

khoa học, có phương pháp tư duy tốt.
đúng đắn: học để biết, để làm viéc,
Về tư tưởng, sinh viên phải có động cở học tập
nghiệp cao, làm giàu chính đáng, khơng
để sống hữu ích, có ý chí, quyết tâm lập
đạo đức tốt, có tỉnh thần và khả năng tự
cam chịu cảnh đói nghèo, lạc hậu, phải có
Ngồi ra cịn cần có sức khỏe tốt.
học cao, tỉnh thần chủ động, sáng tạo.

6.

h nhiệm của các trường đại
Tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trác
dục

phát triển giáo
học, khơi đậy mọi tiểm năng của quần chúng để


hội VI (1986) của Đảng Cộng sản
Đường lối đổi mới ở Việt Nam, bắt đầu từ Đại
hội
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

|

Việt Nam, đã được thực hiện có kết quả
học được đề ra trong Nghị quyết TW 4,
nước ta. Quyền tự chủ của các trường đại
tăng

nước của các Bộ, đồng thời
khóa VII, 1993: "Dé cao trách nhiệm quản lý Nhà
dân chủ trong

_

ng đại học, mở rộng
quyền tự chủ của co sở, nhất là các trườ

|

trường" (tr.4ð).

cm

CỐ


|

nhà

|

này
trí tuệ. Nếu khơi dậy được tiềm năng
- Mỗi trường đại học là một trung tâm
riêng. Các
. Mỗi trường đại học có đặc thù
thì trường đại học sẽ phát triển mạnh
chính tt
tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ
trường đại học phải năng động, sáng

hẹp của các nguồn lực được đầu tư, các
của mình, đặc biệt là trong điều kiện hạn
g xã
, nâng cao uy tín của trường mình tron
trường đại học phải đua tranh phát triển
đào
ng phải chịu trách nhiệm về chất lượng
_ hội bằng chất lượng đào tạo. Từng trườ
của
văn bằng riêng mang dấu ấn đặc trưng
tạo của mình. Mỗi trường đại học cần có
của
độ quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
trường mình. Do vậy, việc phát huy cao

luật và dưới sự lãnh đạo của Đảng)
trường đại học (trong phạm vi hành lang pháp

tạo. Đây
nhà trường, nâng cao chất lượng đào
-_ là biện pháp hàng đầu để phát triển
Giáo
hoc. Vai tro quản lý Nhà nước của Bộ
chính là "khodn 10” trong giáo duc dai
của các
trọng. Bộ không làm thay chức năng
dục và Đào tạo là rất lớn và quan
triển
giáo duc dai hoc của nước ta mới phat
trường đại học. Chỉ có như uậy, nền

h lành mạnh giữa các trường.
_ nhanh, có chất lượng cao 0ù có sự đua tran

h hóa, tập trung, xơ cứng, sang nền
Qua trinh chuyển từ nền kinh tế kế hoạc


đời hỏi phải có phương pháp quản

N
kinh tế thị trường theo định hướng XHC
mới, đảm bảo tính năng






động, sáng tạo của những

tổ chức, cá nhân thực hiện

lĩnh vực
Điều này được thể hiện rất rõ trong
nhiệm vụ trong hành lang pháp luật.
"bộ

sản xuất, kinh doanh "trực thuộc bộ”,
kinh tế. Những khái niệm về các tổ chức
chỉ
xuất phát triển. Thay vì sản xuất theo
chu quan" da tỏ ra lỗi thời, cản trở sản
nhu cầu của
of

nay xí nghiệp phải tự tìm hiểu
tiêu kế hoạch do bộ giao trước kia, ngày

thụ
chất lượng do tiêu dùng yêu cầu, tiêu
thị trường, phải tự tổ chức sản xuất với
cán bộ,

h thu để giải quyết đời sống ` cho c
được sản phẩm và phải tự đảm ` bảo z doan

A
`
z
^Z
an h phủ
oA
+
9
“A
A
triên sản xuất. Chính vì vậy, mà Chín

cơng nhân viên của xi nghiệp và phát

lk

i

a. .=—

|


“CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HỔA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”

109

đã nêu ra biện pháp quan trọng "chấm dứt sự can thiệp trực tiếp của bộ quản lý

ty và

ngành và các bộ chức năng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổng công
và giáo dục đại học nói
các doanh nghiệp thành viên". Ngành giáo dục nói chung
nhạy cảm nhất và ởi đầu
phải là một bộ phận tiên tiến nhất của xã hội, phải
ta vẫn đang 6 trong
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tiếc rằng cho đến nay chúng

_ riêng

lớn uê quản lý đại học uẫn
trang thai tri tué về mọi mặt, vé co bản những uấn đê
các trường đại học, Bộ Giáo dục, và
theo cách cũ, từ thời bao cấp. Đối với hầu hết
quản”. Các trường đại học vấn
Đào tạo vấn duy trì chế độ quản lý theo kiểu “bộ chủ

có khả năng làm.
cịn chịu bó tay trước nhiều việc cần làm và
và tự chịu trách nhiệm
Trên cơ sở điều 55 của luật giáo dục về quyền tự chủ
và Đào tạo cần phân cấp mạnh, phát
của trường Cao đẳng và Đại học, Bộ Giáo dục
biệt là với các trung tâm đại học lớn.
huy quyền tự chủ của các trường đại học, đặc
quản lý Nhà nước đối các trường đại
Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ nên làm nhiệm vụ
học với nội dung cụ thể sau đây:
đào tạo đại học (chính quy, tại
e Ban hành quy trình về tổ chức các loại hình

|
chức...),

kiến thức tối thiểu của
ố« Chỉ đạo xây dựng cấu trúc chương trình, khối lượng
bậc đại học,

đánh giá chất lượng đào tạo của
Giám sát việc thực hiện quy chế và kiểm tra
các trường đại học,
bằng, chứng chỉ, học hàm, học vị,
Giám sát các trường thực hiện hệ thống văn
hệ thống thẩm định chất lượng
Giám sát hệ thống điều hành giáo dục và





giáo dục,

|

[

chính sách giáo dục của
Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện chủ chương,
ao
Đảng và Nhà nước,


e

tổ chức
Xây dựng, ban hành và kiểm tra quy trình
trong hệ thống giáo dục đại học,
các chuẩn mực
e Ban hành và kiểm tra việc thực hiện
giảng viên
hiệu trưởng, chủ nhiệm khoa, giảng viên,
thay các trường
Bộ Giáo dục uờ Đào tạo sẽ không làm
tác nghiép, tinh dich
nhiệm Uụ Cụ thể, những uiệc có tính


đào tạo của các bậc học
về nhân sự: Tiêu chuẩn
chính...
trong viéc thực hiện. các
vu, chứ không phải la

quan lý nhà nước.
7.

vực lớn của quốc gia
Xây dựng các trung tâm đại học đa lĩnh

nhiều năm qua, các trưởng đại học
Nước ta có khoảng 70 trường đại học. Trong
sự nghiệp đào tạo cán bộ có trình độ đại

của ta đã có những đóng góp đáng kể trong
nhất
đấu tranh giành độc lập, tự do và thống
học và trên đại học phục vụ cho cuộc
các
bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước đây
đất nước, cho công cuộc xây dựng và


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC.

110

trường

đại học của ta được tổ chức, hoạt động với nội dung chương trình, giáo trình
nhằm phục vụ cho một nền kinh tế kế hoạch hoá và chế độ bao cấp hoàn toàn của
Nhà nước. Ở thời kỳ này, việc đào tạo được tiến hành theo kế hoạch. Người được
đào tạo có địa chỉ sử dụng cụ thé 6 từng ngành, từng nơi. Vì vậy chương trình đào

tạo thường

là hẹp với kiến thức

chuyên

sâu.

Ngoài


ra, hầu

hết các trường

đại học

của ta là đơn ngành, đơn lĩnh vực, khó thực hiện sự hỗ trợ, kết hợp giữa các ngành

khoa học trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội, việc sử dụng chung

trang thiết bị khoa học và cơ sở vật chất kém hiệu quả và cịn lãng phí trong hồn
canh ngân sách Nhà nước cịn hạn hẹp.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, yêu cầu nhân

lực có trình độ đại học thay đổi, địi hỏi sự trang bị kiến thức rộng, dễ dịch chuyển

nghề, thông thạo ngoại ngữ, tin học v.v...Và do vậy, việc tổ chức đào tạo theo kiểu
7
cũ khơng cịn thích hợp nữa.

7.1. Da lĩnh vực hóa các trường đào tạo là một xu hướng tiến bộ và phổ biến của
giáo dục đại học trên thế giới.
Chúng

tôi tạm thời phân khoa học thành những lĩnh vực “chính: khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật công nghệ và các khoa học
còn lại. Xu thế phát triển của khoa học ngày nay là sự liên kết giữa các ngành khoa

học, sự thâm nhập lẫn nhau của các ngành khoa học và từ đó nảy sinh nhiều ngành


khoa học mới có tính chất liên ngành. Từ xu thế phát triển đó, ngày nay hầu hết
các nước tiên tiến trên thế giới đang tìm mọi cách tổ chức lại hệ thống khoa học và
đào tạo theo hướng gắn kết các lĩnh vực khoa học với nhau.

Do đó, ở tất cả các nước tiên tiến, hầu như tat ca các trường đại học lớn đều là
đại học đa lĩnh vực. Đa lĩnh vực hóa các trường đại học phản ánh tình hình liên
thơng, liên kết giữa các ngành khoa học trong thời đại chúng ta, phản ánh nhu cầu `
hiểu biết rộng và tổng hợp của con người ngày nay để đáp ứng yêu cầu cuộc sống và

việc làm, phản ánh yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả và chất lượng trong đào tạo đại học.
Xu hướng chung của thế giới là chuyển từ trường đại học đơn lĩnh vực trong mơ
hình cổ điển sang đại học đa lĩnh vực. Ở đây có thể nêu ra rất nhiều ví dụ. Ư các
nước phương Tây, hầu hết các trường đại học là đa linh vực. Đại học Quốc gia

Matxcơva Lômônôsôp vốn là trường đơn lĩnh vực (khoa học cơ bản) đang phát triển
mạnh

các ngành

khoa

học công nghệ,

kinh tế, sư phạm. Đại học Bắc Kinh cũng
vậy, và ngay cạnh chúng ta, các trưởng đại học của Thái Lan, Mianma, Malaixia
cũng phat triển theo hướng này.
|

7.2. Các Đại học Quốc gia - Những Trung tâm đại học đa lĩnh vực, chất lượng cao.


Chủ trương tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới trường đại học và cao đẳng được đặt

ra từ lâu, từ cuối những năm 80 (QĐ 73/HĐBT) và được bàn nhiều lần, ở nhiều cấp

Su ra doi cua hai Dai học Quốc gia là mốc đổi mới sâu sốc trong cơ cấu
hệ thống


"CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”

111

giáo dục dai hoc Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên xuất hiện loại
trường đại học
đa lĩnh vực trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.

Ngày nay, cơ cấu hệ thống giáo dục đại học ở nước ta bao
gầm hai loại trường
đại học- cao đẳng khác nhau hợp thành một mạng lưới.
a. Đại học đa lĩnh vực (hai Đại học Quốc gia, các dai hoc khu
vực, Dai học Cần
Thơ), với đặc điểm: Nhập một số trường lại với nhau hoặc một
số trường đơn
linh vuc phat trién thành đa lĩnh vực.
b. Đại học đơn lĩnh vực (Đại học Bách khoa, Đại học Giao thông Vận
tải, Đại
học Kinh tế Quốc dân, Đại học Nông nghiệp, Đại học Ÿ khoa, Đại
học Xây
. dựng, Đại học Thủy lợi, Đại học Hàng hải, Đại học Lâm nghiệp, Đại
học

Thủy sản, Đại học Dược...).
Việc gắn kết các ngành khoa học với nhau tạo nên một sức mạnh mới cho sự
phát triển các ngành khoa học, kết hợp giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ

khoa học nhằm làm cho cán bộ nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn phong phú
của cuộc sống và cán bộ giảng dạy đại học bổ sung nguồn tri thức của mình và ln

ln có cơ hội nay sinh những đề tài nghiên cứu mới. Đó là động lực thúc đẩy cho cả

nghiên cứu và đào tạo đều phát triển mạnh. ĐHQG còn mang một sứ mệnh là đào
tạo chất lượng cao, khắc phục những

nhược

điểm kéo dài lâu nay trong hệ thống
đào tạo đại học nước ta là dàn đều, không tạo nên mũi nhọn cho các ngành khoa
học trọng điểm.
_Các đại học đơn lĩnh vực có trách nhiệm chủ yếu đào tạo nhân lực lao động có
kỹ thuật phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời đáp ứng yêu cầu
học tập của nhân dân (đảm bảo dân chủ, cơng bằng giáo dục đại học).

7.3. Vị trí đầu tàu của các Đại học Quốc gia trong hệ thống đại học Việt Nam.
A. Mục tiêu xây dựng Đạt học Quốc gia
Việc xây dựng Đại học Quốc gia nhằm mục tiêu để Việt Nam ta nhanh chóng có
những trung tâm đại học mạnh, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xứng đáng với truyền thống và tầm vóc của
dân tộc Việt Nam, tiến kịp các trường đại học hàng đầu của các nước trong khu vực
và trên thế giới. Các Đại học Quốc gia cũng là các trung tâm cải cách đại học, trung

tâm


hợp

tác quốc

tế, có vai trị thúc

đẩy

đối với toàn bộ

hệ

thống

đại hoc

cua

nước ta.

Đây là mục tiêu rất cao, nhưng phải quyết chí đạt cho bằng được, vì chỉ có như

vậy nước ta mới có những người tài để thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện | |
đại hóa, để Việt Nam thực sự là một quốc gia mạnh, giữ vững được độc lập chủ quyền.


112

_


|

ĐẠI HỌC QUỐC

GIA HÀ NỘI: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

B. Bốn tiêu chí của một Đại học Quốc gia
a. Về mục tiêu: Dat chất lượng cao trong đào tao va nghién cttu khoa hoc, "có
chương trình, giáo trình đào tạo hiện đại, có phương pháp

giảng dạy tiên tiến, có

phương tiện hiện đại, có nhiều sinh viên giỏi, có nhiều cơng trình, đề tài nghiên cứu
khoa học, triển khai cơng nghệ vào phục vụ đời sống, phát triển quan hệ hợp tác với
các trung tâm đại học lớn của các nước.
b. Về cơ cấu: Là một đại học đa ngành, đa lĩnh vực, kết hợp công tác đào tạo với
nghiên cứu khoa học, phục vụ xã hội, hòa nhập quốc tế.
c Về cơ chế hoạt động: Có quyền tự chủ cao đi đơi với tính tự chịu trách nhiệm

cao về các hoạt động của mình trong hành lang luật pháp của nhiều nước, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chịu sự quản lý Nhà nước của các Bộ.
_d. Được Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư để nhanh chóng hiện đại hóa cơ số

vật chất và tập hợp, phát huy được đội ngũ cán bộ giảng đạy, cán bộ quản lý giỏi.

Đây là những tiêu chí tối cần thiết đối với một Đại học Quốc gia. Một trường đại học
thiếu bất kỳ điểm nào trong bốn điểm nêu trên đây thì khơng thể trở thành Đại học

Quốc gia được.


|

|

Chúng tơi xin trình bày kỹ hơn về bốn tiêu chí trén day: |
a. Về yêu cầu chất lượng cao trong đào tạo 0ò nghiên cứu bhoa học

Hệ thống các trường đại học của ta gồm nhiều tầng chất lượng. Việc xây dựng
các Đại học Quốc gia nhằm vào mục tiêu chủ yếu là xây dựng một số Trung tâm đào
tạo chất lượng cao nhất trong nước, tiến kịp các đại học lớn trong khu vực và trên

thế giới.

|

b. Về cơ cấu

|

Tổ chức đại học đa ngành, đa lĩnh vực là để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển

kinh tế, xã hội, sự phát triển của khoa học và công nghệ trong thời đại hiện nay. Ưu
điểm nổi

bật của đại học đa ngành, đa lĩnh vực là sự hỗ trợ mạnh

mẽ giữa các lĩnh

vực nghiên cứu và đào tạo khác nhau, cùng nhau sử dụng chung đội ngũ cán bộ, sử

dụng chung các trang thiết bị, phương tiện giang dạy và do vậy nâng cao hiệu quả,

_ chất lượng của công tác dao tao đại học cũng như nghiên cứu khoa học. Xây dựng
các đại học đa ngành, đa lĩnh vực là cách làm phổ biến

giới.

ở hầu hết các nước trên thế

|
Xu thé phat trién dai hoc da linh vực cũng đang được thực hiện ở nhiều trường

đại học ở nước ta. Đại học Bách khoa Hà Nội mở ngành đào tạo giáo viên. Trường
Đại học Sư phạm

Vinh, Đại học Sư phạm

đào tạo ngoài sư phạm.

Qui Nhơn

đang phát triển các lĩnh vực

Các đại học khu vực, cũng đều là những trường đa lĩnh vực

đa ngành. Các Đại học Quốc gia là những đại học đa lĩnh vực lớn, chất lượng cao.
Các trường cao đẳng cộng đồng là các trường đa lĩnh vực gắn liền với địa bàn vùng.


“CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC”

Để có một trường đại học đa ngành,

113

đa lĩnh vực có thể có những cách làm

sau

đây:

Một là, nhập các trường có sẵn với nhau. Cách này có ưu điểm nổi bật là
nhanh, song cũng có khó khăn về mặt tư tưởng, tập quán, cũng như về mặt xây
dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý mới.

Hai là, từ một trường mạnh, dần dần xây dựng lấy các ngành mới, lĩnh vực
mới. Ưu điểm nổi bật là đảm bảo sự ổn định của nhà trường. Song, sẽ chậm, đặc

biệt trong điều kiện khả năng đầu tư của Nhà nước còn rất hạn hẹp. Thời gian
trung bình cần thiết phải 15-20 năm cho việc tự phát triển từ một đại học đơn lĩnh

vực đến đại học đa ngành, đa lĩnh vực hồn chỉnh.

Ba lị, Sự kết hợp của hai phương án nói trên. Đây là cách chọn của ĐHQGHN:
vừa sáp nhập một số trường sẵn có với nhau, vừa tự phát triển các ngành khoa học,
công nghệ mới.
Trong giai đoạn đầu, ĐHQGHN
Tổng hợp, trường Đại học Sư phạm

được xây dựng trên cd sé cua trudng Dai hoc
Ngoại ngữ trước đây. Một số khoa trực thuộc


mới được thành lập: Khoa Công nghệ, khoa Kinh tế, khoa Quản trị Kinh doanh,
khoa Sư phạm. Tới đây sẽ đề nghị Chính phủ cho lập một số Viện nghiên cứu.
c. Về cơ chế tự chủ

Đối với tất cả các trường đại học, cơ chế hoạt động có tính chủ động cao, đi đơi

với tính chịu trách nhiệm cao về các hoạt động của mình, là điều rất cần thiết.

cần được có cơ chế hoạt động này, bởi đây là các trung
tâm đại học mạnh, có một đội ngũ trí thức hùng hậu, có tổ chức Đảng vững mạnh, có năng lực độc lập, sáng tạo trong việc thực hiện đường lối, chủ trương chính sách
Trước mắt, các ĐHQG

của Đảng và Nhà nước về giáo dục.


!

là cấp trên trực tiếp của các trường thành viên. Không nên biến ĐHQG
thành cấp hành chính trung gian giữa các trường thành viên và Bộ GD&DT.
_

ĐHQG

Muến vậy, phổi xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản hiện hành đối với ĐHQG,

|

bởi vì nếu


ĐHQG có bộ chủ quản thì đương nhiên nó trở thành cấp trung gian công kềnh giữa

Bộ và các trường thành viên. Bộ chỉ nên thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối

với các ĐHQG.

Cơ chế phù hợp với tính tự chủ của ĐHQG đã được thể hiện rõ trong Qu¿ chế uề

tổ chức hoạt động của ĐHQGHN do Thủ tướng Chính phủ ban hành hèm theo
Quyết định số 477 JT'Tg ngày 5I9I 1994. Đề nghị Chính phủ cho phép các ĐHQG tiếp
|
tục thực hiện Qui chế này, sau khi có một vài bổ sung thích hợp.
Ở đây chúng tơi xin nhắc lại ý tưởng xây dựng ĐHQG trước đây của Chính phủ:

ở nước ta cần có hai trung tâm lớn về nghiên cứu khoa học là Trung tâm Khoa học
Tự nhiên và Công nghệ Quốc ¿ gia, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc

-


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

"

114

gia và hai trung tâm lớn về đào tạo đại học là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Cả bốn trung tâm nói trên được quyền tự chủ cao và
phải tự chịu trách nhiệm lớn về các hoạt động của mình, trong sự quản lý Nhà nước
của các Bộ và đều được sử dụng con dấu mang hình quốc huy. Xóa bỏ cơ chế bộ chủ


quản đối với các trung tâm này.

d. Về uiệc tập trung đầu tư cho ĐHQG
Việc ĐHQG

được Nhà nước tập trung đầu tư là hết sức cần thiết, khơng thể

thiếu, để sớm có những trung tâm đại học tầm cổ, để nâng cao chất lượng đào tạo.
Điều này nước nào cũng phải làm: nước ta còn nghèo nên lại càng phải đầu tư

tập trung, không thể dàn trải. Liên Xơ trước đây, trong hồn cảnh kiệt quệ sau
chiến tranh thế giới thứ IÏ cũng đã kiên quyết tập trung đầu tư cho Đại học Quốc
gia Matxcovo mang tén Lơmơnơsơp.

Trường đã hồn thành việc xây dựng chỉ trong

4 năm (1949- 1953) và ngày nay, sau ð0 năm xây dung vẫn là trường đứng đầu thé
giới về qui mô và chất lượng.
Œ, Các nhiệm vụ cơ bản của ĐHQG
e

Dao

tao nhan

lực ở trinh dé dai hoc,

trén dai

học trong các linh vuc khoa


hoc, công nghệ, binh tế uới chất lượng cao về năng lực, phẩm

chất và kiến

thức, có đủ khả năng tự học tập; nghiên cứu để vươn lên trong suốt cuộc đời.
Đặc

biệt chú trọng

đào tạo nhân

(KHTN, KHXH&NV),
trung tâm

công nghệ

đại học hàng

các lĩnh vực

khoa

mũi nhọn và giáo dục, xứng

đầu của cả nước và khu

Duong. |
e


tài trong

vực

Châu

học

cơ bản

đáng

là một

Á - Thái Bình

|

.

Sáng tạo những giá trị mới về khoa

hoc, cơng nghệ, văn hóa, giáo dục. Tiến

hành các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu các vấn đề khoa học và công nghệ

mũi nhọn của công nghệ quốc gia và quốc tế, tham gia nghiên cứu để giải
“quyết các vấn đề do yêu cầu kinh tế, xã hội nước ta đặt ra, tham gia thẩm
định về mặt khoa học và công nghệ các dự án, các cơng trình lớn của quốc
gia, góp phần đưa những


thành

thực tiễn sản xuất, đời sống.
e

tựu khoa

học và công nghệ

tiên tiến vào

_

Gắn bó chặt chẽ giữa hoạt động đào tao và nghiên cứu khoa học, giữa nghiên
cứu khoa

học và thực

tiễn sản xuất;

phục

vụ

đắc lực cho

sự nghiệp

cơng


nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước và bảo vệ tổ quốc.
e

Làm nhiệm vụ của một trung tâm văn hóa, khoa học, một đầu mối giao lưu

khoa học và văn hóa quan trọng của cả nước, đạt tới vị trí của một trung tâm
văn hóa, khoa học hàng đầu của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

_ Việc xây dựng các ĐHQG là một nhu cầu tất yếu và bức thiết. Để các ĐHQG có
thể hồn thành được sứ mệnh

đầu tàu của mình trong hệ thống đại học Việt Nam,

tất yếu phải đảm bảo cho các ĐHQG
nói trên.

các yêu cầu theo đúng các mục tiêu và tiêu chí


FO

“CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC : MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC"

415

II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
I1.

Cần


khẩn

trương

xây dựng

chiến

lược phát triển giáo dục

của Việt

Nam nói chung và giáo dục đại học nói riêng, trong đó đề cập đến

những vấn đề lớn của giáo dục: phương hướng phát triển, về cơ chế
quản lý, về các nguồn lực để phát triển giáo dục v.v...

2. Đổi mới cơ bản phương thức lãnh đạo quản lý, tổ chức giáo dục, đào tạo

theo hướng phát huy dân chủ, trí tuệ, tiềm năng của toàn ngành, toàn dân để phát

triển giáo dục, phát huy cao nhất năng lực nội sinh của ngành giáo dục, sử dụng có

hiệu quả nhất uốn đầu tư của Nhà nước và nhan dan cho giáo dục, tăng cường cộng
tác thanh tra giáo dục, kiểm định, đánh giá chất lượng đào tạo.

-2.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kiến quyết loại bỏ các công việc quá cụ thể thuộc

các công

phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của địa phương và các trưởng đại học,

lý Nhà nước
việc mang tính chất dịch vụ để tập trung thực hiện, chức năng quản
trương về giáo
về cơng tác giáo dục, giúp Chính phủ hoạch định các chính sách, chủ
tra, kiểm tra,
dục, để ra các qui định, pháp qui của ngành, tiến hành việc thanh

(thay vì
giám sát chất lượng đào tạo, chất lượng thi cử, chất lượng các văn bằng

Bộ Giáo dục và
phải tập trung thực hiện chức nắng quản lý Nhà nước, hiện nay
hạn chế tính chủ
Đào tạo đang làm nhiều việc cụ thể của các trường đại học, làm
động, sáng tạo của các trường, cơng việc kém liệu quả, chất lượng).

của mình cần được
2.2. Các trường đại học, các cơ sở đào tạo trong phạm vi hoạt động
trong việc tổ chức và
phat huy cao quyền chủ động, sáng tao va tự chịu trách nhiệm
và phát triển nhà
quản lý nhà trường, trong việc thực hiện qui trình đào tạo
uy tín của nhà trường
trường, trong công việc đua tranh để nâng cao chất lượng và
đối với trong nước và quốc tế..

nhất của chúng
2.3. Phát huy năng lực nội sinh của ngành giáo duc Tiểm năng lớn

nhất, bao gồm giáo
ta là con người. Ngành giáo dục là nơi có lực lượng đơng đảo
các bậc học.
viên, học sinh, cán bộ quản lý có kiến thức, có trình độ ở đủ

|

Trước

!

hết

cần

phát

huy

trí tuệ của

cán bộ khoa học của

ngành

trong

việc

với Việt Nam. Từn cho

nghiên cứu chương trình, nội dung giáo dục phù hợp nhất
nhà trường dựa trên
được những động lực thúc đẩy Việc giảng dạy uò học tập trong
lượng trong ngành (với
lợi ích của người dạy uà người học. Tổ chức kết hợp các lực
tham gia lao động sản
xã hội, các xí nghiệp, cơng ty, với nơng nghiệp...) trong việc
dựng trường, giáo dục
xuất, nghiên cứu khoa học, phục vụ xã hội nhằm tạo vốn xây
nhà trường. Với sự trợ
rèn luyện toàn diện cho học sinh. Chống các tệ nạn trong

giải quyết các vấn đề
giúp của Nhà nước và nhân dân, ngành giáo dục cần chủ động

thác tốt tiểm năng của
của mình. Tiềm năng của ngành giáo dục là rất lớn. Để khai
sau đây
ngành giáo dục, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp

|


ó

ããốã
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

116


3. Cần đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo ở tất cả các

cấp học cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, phục vụ sát yêu cầu của nền kinh tế

xã hội nước ta, phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo

kịp trình độ tiên tiến của thế giới. Trên cơ sở đó, kiên quyết cắt bỏ trong chương

trình học tập những biến thức Dượt quá sức lúa tuổi học sinh, giảm nhẹ nội dung
chuyên môn, tạo điều kiện cho học sinh học tập thoải mái, rèn luyện toàn diện,
phát huy sự chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh. Phương hướng phấn đấu

của chúng ta là: tạo cho học sinh có kiến thức cơ bản, hiện đại, có phương pháp học

- tập tốt,phương pháp tư duy sáng tạo, có ý chí vươn lên trong suốt cuộc đời, có sức

khỏe tốt.

Giải quyết vấn đề giáo viên

4.

4.1. Giải quyết tốt đời sống của giáo viên bằng phụ cấp thâm niên, chi tra thỏa
đáng giờ dạy, công. biên soạn tài liệu, giáo trình, các bài báo khoa học v.v..
Hiện nay, giáo viên đang sống bằng nguồn thu nhập bên ngoài quan trọng hơn
lương, dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực: dạy thêm, học thêm, dễ dãi trong việc

đánh giá, thi cử, cấp bằng...

|


lo xây dựng, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên.
Khẩn trương trẻ hóa đội ngũ giáo viên đại học (đến năm 2000, 90% đội ngũ giáo sư
4.2. Chăm

đại học hiện tại đã đến tuổi nghỉ hưu).
song với đào tạo trong nước, cần chủ động gửi thanh. niên đi học ở các
nước tiên tiến dựa vào tài trợ của Nhà nước và theo yêu cầu phát triển của đất nước
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Khuyến khích việc tự túc
_

Đong

đi học ở nước ngồi.
ˆ 4.3. Tăng cường cơng tác nghiên cứu khoa học trong giáo viên các trưởng đại học.
Nhờ nghiên cứu khoa học mà chất lượng đào tạo được nâng cao. Nghiên cứu khoa
học phải trở thành thói quen, nhu cầu của thày giáo và sinh viên đại học.
Cần sớm thực hiện chủ trương của Nhà nước: Kết hợp chặt chẽ giữa các trường
đại học và các-trung tâm nghiên cứu khoa học lớn để đào tạo chất lượng cao.
Tăng cường kinh phí nghiên cứu khoa học cho các trường
_ các viện, trung tâm nghiên cứu trong các trường đại học.

\.

5.
|
|

/
_


đại học. Thành

lập

Đổi mới cơ bản việc tuyển sinh:

Không nên để tất cả học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đi thi đại học. Chỉ
cho phép dự thi đại học khoảng 30% số học sinh đã tốt nghiệp phổ thông của mỗi
/ trường. Cải cách việc thi cử ở tất cả các bậc học.
Cần

đổi mới việc tuyển sinh cao học và nghiên cứu sinh theo hướng phát huy

vai trò của các trung tâm đại học lớn, các nhà khoa học trong việc tuyển lựa và đào
tạo nhân tài cho đất nước.
|
|



×