Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

(TIỂU LUẬN) QUAN điểm của TRIẾT học MARX– LÊNIN về CON NGƯỜI và vấn đề xây DỰNG NGUỒN lực CON NGƯỜI TRONG sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.29 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====***=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MARX– LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY.

Sinh viên thực hiện: Trần Tú Quyên
Mã SV: 2111610043
Lớp Anh01 Luật TMQT – Khoa Luật
Khóa 60
Lớp tín chỉ: TRI114
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Tùng Lâm

Hà Nội - 12/2021

1


Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 2
NỘI DUNG................................................................................................................... 4
1

Triết học Mác- Lênin và con người:..................................................................... 4
1.1


Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:......................... 4

1.1.1 Quan điểm của các nhà triết học phương Đông trước Mác về con
người:..................................................................................................................... 4
1.1.2 Quan điểm của các nhà triết học phương Tây trước Mác về con
người:..................................................................................................................... 5
1.2 Quan niệm của triết học Marx-Lênin về con người (Chủ nghĩa duy vật
lịch sử):...................................................................................................................... 6

2

1.2.1

Bản chất con người:................................................................................. 6

1.2.2

Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội:...........7

Nguồn lực con người Việt Nam trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. . .9
2.1

Thực trạng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay.........................9

2.2 Vai trị nguồn lực con người trong Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước......................................................................................................................... 11
3

Một số giải pháp xây dựng nguồn lực con người hiện nay tại nước ta:..........13


KẾT LUẬN:............................................................................................................... 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................. 16

1


LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Mọi sự vật, sự việc đều phải luôn vận động, phát triển và đi lên là một điều
tất yếu trong quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng đó. Nền kinh tế hay nguồn lực
con người cũng vậy. Trong thời đại hội nhập và phát triển, cũng như trong thời kỳ
đại dịch toàn cầu COVID-19 bùng phát và mỗi lúc càng biến thể trở nên mạnh mẽ
hơn, chất lượng cuộc sống người dân giảm sút, nền kinh tế, y tế, giáo dục bị ảnh
hưởng rất nhiều. Chính vì vậy, xây dựng nguồn lực con người là một điều vơ cùng
cấp thiết để có thể đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đồng thời cũng để
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bởi lẽ, con người được coi là
nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển của nền kinh tế.
Xã hội tồn tại dựa trên hai nguồn tài ngun chính, đó là thiên nhiên và con
người. Tuy nhiên, cả lý thuyết và thực tế đều đã chứng minh, mọi thứ tài nguyên
thiên nhiên đều có giới hạn, duy chỉ có sự tồn tại và phát triển của con người là vô
hạn. Trước Mác, truyền thuyết hay quan niệm duy tâm cho rằng con người được tạo
nên bởi những thần linh tối thượng, vấn đề con người chưa được lý giải một cách
khoa học và cụ thể. Quan niệm duy vật lịch sử được hình thành, vai trị cải tạo thế
giới đi cùng tạo nên “khoảnh khắc” lịch sử: con người đã có được vị trí cơng nhận.
Xã hội có thể phát triển là nhờ những nhóm người cầu tiến, ham học hỏi, tìm hiểu,
tiếp thu và khơng ngừng tiến bộ, tiếp đó, họ lại truyền những kiến thức cho tinh anh
đời sau, lớp trẻ học lại, tự sáng tạo, từ đó tạo thành một dây chuyền nối tiếp trường
tồn.Vì vậy, có thể nói, bằng phát triển tồn diện của mình, con người vừa là mục tiêu
vừa là động lực phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến.
Việt Nam lấy quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát

triển con người, về vai trò sáng tạo lịch sử của con người và vai trò của con người cùng
với vai trò nguồn lực con người trong phát triển kinh tế-xã hội làm cơ sở lý luận. Nghị
quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Nâng cao dân trí,
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Với những yêu cầu
bức thiết, đặc biệt trong những hoàn cảnh dịch bệnh xảy ra hết sức phức tạp đi kèm khó
khăn cùng cơ hội, chúng ta cần phải xem xét, tận dụng nguồn lực Việt
2


Nam và xây dựng những chính sách phát triển bền lâu, tận dụng và nâng cao chất
lượng nguồn lực người lao động chân tay và trí thức. Do muốn nghiên cứu sâu hơn
vấn đề nguồn lực con người, em đã chọn đề tài tiểu luận: “Quan điểm của triết học
Mác-Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.” Trong nội dung tiểu
luận không tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của cơ
nhằm hồn thiện tiểu luận hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Mục đích nghiên cứu:
- Hiểu được quan niệm con người trong triết học nói chung và triết học Mác-Lênin
nói riêng, đồng thời đưa ra sự so sánh giữa các học thuyết khác. Từ đó, tìm hiểu về
mối quan hệ giữa con người cá nhân và xã hội.
-

Ứng dụng quan niệm con người từ chủ nghĩa Mác-Lênin vào quá trình đào

tạo, xây dựng nguồn lực con người trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa và hiện đại
hóa sản xuất ở nước ta hiện nay. Lấy hiện thực làm cơ sở đề xuất ra các sáng kiến
có thể giúp ích.


3


NỘI DUNG
1

Triết học Mác- Lênin và con người:
Vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới từ trước

tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích và
tìm cách lý giải một cách sâu sắc nhất.
1.1 Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:
Khi phân tích, các nhà triết học cổ đại coi bản chất con người là bản chất vũ trụ.
Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của mn lồi, chỉ đứng sau
thần linh. Chủ nghĩa duy tâm và tơn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh
ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi
mãi. Chủ nghĩa duy vật thì cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn, khơng
có linh hồn nào là bất tử. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con
người và khơng ngừng khắc phục lý luận trước đó.
1.1.1 Quan điểm của các nhà triết học phương Đông trước Mác về con người:
Từ thời cổ đại, các trường phái triết học phương Đông lý giải con người trên cơ
sở thế giới quan duy tâm, tơn giáo thần bí hoặc nhị nguyên luận.


Triết học Phật giáo coi con người là sự kết hợp giữa vật chất và tinh thần. Đời
sống trần thế của con người chỉ là ảo giác, hư vô, tạm thời của cái “Vô
thường”, con người phải hướng đến cõi “Niết bàn”, nơi linh hồn con người
được giải thoát để trở thành bất diệt.




Triết học Nho giáo, Lão giáo đều bàn về tính người và số phận của con người.
Khổng Tử cho rằng bản chất con người do “Thiên mệnh” chi phối quyết định,
đức “Nhân” chính là giá trị cao nhất của con người. Ngược lại, Lão giáo lại cho
rằng con người sinh ra từ “Đạo”. Do vậy, con người cần phải sống “Vô
vi”, theo lẽ tự nhiên thuần phác, v.v…

Có thể nói, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đơng biểu
hiện tính da dạng và phong phú, thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính
trị, đạo đức. Con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có trộn
lẫn tính chất duy vật chất phác trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
4


1.1.2 Quan điểm của các nhà triết học phương Tây trước Mác về con người:
Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức
vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Theo đó, cuộc sống con
người do đấng tối cao an bài, sắp đặt. Con người về bản chất là kẻ có tội. Con người
gồm hai phần: thể xác và linh hồn - giá trị cao nhất trong con người. Thể xác sẽ mất đi
nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh cửu.


Trong triết học học Hy lạp cổ đại, quan niệm duy vật chất phác, ngây thơ đã coi
con người là tiểu vũ trụ thu nhỏ: Prôtago cho rằng “con người là thước đo của
vũ trụ” hoặc Arixtốt lại có ý kiến “con người là bậc thang cao nhất của vũ trụ”.
Tuy nhiên, theo quan niệm duy tâm khách quan của Platơn thì con người chỉ là
ảo ảnh của thế giới ý niệm. aTuy nhiên, triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có
sự phân biệt con người với giới tự nhiên, nhưng đơn thuần cũng chỉ là sự hiểu
biết bên ngoài của con người.




Triết học thời kỳ trung cổ coi con người là sản phẩm của Thượng đế và đã quy
đặc trưng bản chất con người là một thực thể thuần túy – thực thể tinh thần.



Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại đặc biệt đề cao vai trị trí tuệ, lý tính của
con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đây chính là một trong
những yếu tố quan trọng, nhằm giải thóat con người khỏi sự nơ dịch của thần
quyền tôn giáo thời trung cổ, đồng thời đề cao tư tưởng giải phóng con người.
Tuy vậy, ở thời điểm này, con người cũng chỉ nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem
nhẹ mặt xã hội và cũng chưa nhận thức đầy đủ bản chất chất con người trong
mối quan hệ giữa mặt sinh học và xã hội.



Trong triết học cổ điển Đức, Hêghen đã nghiên cứu bản chất con người thơng
qua q trình tư duy và khái qt các quy luật cơ bản của q trình đó, được
trình bày có tính chất hệ thống, để khẳng định vai trị chủ thể của con người đối
với lịch sử, đồng thời kết quả của sự phát triển lịch sử. Nhưng, Hêghen lại coi ý
niệm tuyệt đối giữ vai trò quyết định đối với con người. Như vậy, về thực chất
Hêghen coi con người là sản phẩm thuần túy của “ý niệm tuyệt đối”.



Đến Phoiơbắc, quan niệm duy vật của ông đã vượt qua những hạn chế của
Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một cách đích thực. Nhưng
Phoiơbách đã mắc phải sai lầm khi ông khi phê phán quan điểm duy tâm của
5



Hêghen: ơng đã tuyệt đối hóa mặt sinh học của con người hoặc tách con người
ra khỏi quan hệ hiện thực của xã hội hoặc ông quy bản chất con người vào tính
tộc loại mà đặc trưng của nó là tình cảm đạo đức, tơn giáo và tình u.
Như vậy, trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là
những quan niệm duy tâm, tơn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù triết học duy vật trước
Mác coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng không
vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí cịn là duy tâm. Bởi vì, họ đã quy đặc trưng
bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc
thuộc tính xã hội, mà khơng thấy được vai trò của thực tiễn xã hội.
1.2 Quan niệm của triết học Marx-Lênin về con người (Chủ nghĩa duy vật lịch
sử):
Quan niệm vượt bậc của triết học Marx-Lênin không chỉ tạo ra bước ngoặt cách
mạng trong quan niệm về con người và bản chất con người, về mối quan hệ con ngườitự nhiên-xã hội, vị trí và vai trị của con người trong quá trình phát triển lịch sử nhân
loại và sự nghiệp giải phóng nhân loại, phát triển con người tồn diện, mà cịn làm nên
sức sống trường tồn của chủ nghĩa Marx-Lênin trong thời đại ngày nay.
1.2.1 Bản chất con người:
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Marx-Lênin về con người, có thể thấy:


Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì khơng thể
chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có
tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã hội tổng hịa của nó, từ
những quan hệ kinh tế – xã hội của nó.



Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng
lực sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi

con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và
phát triển của xã hội. Nói cách khác, con người chính là chủ thể và sản phẩm
lịch sử. Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển
của lịch sử xã hội.

6




Ba là, sự nghiệp giải phóng khả năng sáng tạo lịch sử của con người, hướng vào
những quan hệ kinh tế – xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy:
Một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
chính là mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế – xã hội áp bức, bóc lột
ràng buộc năng lực sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Thơng qua cuộc
cách mạng đó, nó cịn đưa tự do tới toàn nhân loại bằng phương thức xây dựng
mối quan hệ kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, nhằm xác
lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều
kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý
đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “Một người vì mọi
người, mọi người vì một người”.

1.2.2 Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội:
Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đạc biệt là vấn
đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay. Đảng và
nhân dân ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là
lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào nhiều chiến lược con người: Cần đào tạo con
người một cách có chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng
như trên thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng và

để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người,
không để con người đi lệch tư tưởng tuy nhiên trong thực tế khơng ít người sẽ ngang đi
tìm khả năng phát triển nó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự
hồn thiện con người trong các tôn giáo và các hệ tư tưởng truyền thống. Có người lại
sáng tạo ra tư tưởng tôn giáo mới cho phù hợp với con người Việt Nam. Song nhìn lại một
cdách khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội Việt
Nam có lẽ khơng ai có thể phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng cuả nó trong sự
nghiệp phát triển con người tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công
nghiệp hố, hiện đại hố thì một nước đang cịn
ở tình trạng kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát

triển lâu dài, có tầm nhìn xa trơng rộng phát triển con người nâng cao chất lượng của
người lao động. Hơn bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác, lĩnh vực phát triển

con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ nguyên mới,
mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai con đường khả
7


quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện
đại hố đất nước. Trong đời sống xã hội thực tiễn cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung
ương Đảng khoá VII đề ra nghị quyết và thông qua nghị quyết về việc phát triển con
người Việt Nam toàn diện với tư cách là "Động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội
mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" Đó là "con người phát triển cao về trí
tuệ, cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức". Bởi lẽ,
người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước theo cớ chế thị trường, dưới
sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng của người
lao động là nhân tố quyết định nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của

Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước".
Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta hiện nay tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của mỗi
cá nhân là chủ yếu, là tất cả bản thể cá nhân phát triển tồn diện và hài hồ về đạo đức,
trí tuệ, thể lực là mục tiêu xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu
cơ bản và quan trọng hơn cả là vấn đề con người phải trở thành nhân tố quyết định lịch
sử xã hộivà lịch sử của chính mình.
C.Mác đã coi giải phóng con người, “phát triển sự phong phú của bản chất con
người” là “mục đích tự thân” của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Sự nghiệp giải phóng
con người, phát triển con người toàn diện cùng với phát triển lực lượng sản xuất là
“phương hướng duy nhất” để không chỉ “làm tăng thêm nền sản xuất xã hội”, mà còn
để “sản xuất ra những con người phát triển toàn diện”. Theo C. Mác, “sự thay thế xã
hội tư bản với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người”. Cùng với việc đưa ra những tiền đề vật chất cho sự giải phóng con
người, C.Mác còn phác họa ra một chế độ xã hội mới, mà ở đó các cá nhân khơng cịn
lệ thuộc vào thứ lao động khiến họ bị tha hố, khơng có được tự do thật sự, thứ lao
động đã khiến họ trở nên “phiến diện, méo mó và bị hạn chế”, bởi khi đó “xã hội điều
tiết tồn bộ nền sản xuất” và con người có thể tự hồn thiện mình trong bất cứ lĩnh
vực nào mà mình thích. Trong xã hội đó, cá nhân được phát triển một cách tồn diện,
nhưng cá nhân khơng thể có được tự do riêng lẻ của mình, bởi “trong điều kiện có
8


cộng đồng thực sự, các cá nhân có được tự do khi họ liên hợp lại và nhờ sự liên hợp
ấy”. Ở đây, C. Mác đã giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ cá nhân và xã hội,
đặt con người trong những mối quan hệ với các cá nhân khác, trong những quan hệ xã
hội hiện thực và xác định. C.Mác chỉ ra: “con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì
hồn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy”. Như vậy, q trình giải phóng con
người là một quá trình tương tác biện chứng giữa con người và hoàn cảnh. Nếu hoàn

cảnh càng tiến bộ, mơi trường xã hội nhân văn bao nhiêu thì con người càng được
giải phóng, tự do phát triển năng lực của mình.
2

Nguồn lực con người Việt Nam trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

2.1 Thực trạng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay
Theo cuộc điều tra dân số quốc gia, tổng số dân của Việt Nam tính đến tháng
12/2020 là 98.361.025 người. Với kết quả này, Việt Nam hiện đang là quốc gia đông
dân thứ 15 trên thế giới. Tính đến cuối năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người từ 15
tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 bao gồm người bị mất việc làm,
phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập, … Trong đó, 69,2%
người bị giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên và
khoảng 14,0% buộc phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khu vực dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch Covid-19 với 71,6% lao động
bị ảnh hưởng, tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng với 64,7% lao động bị ảnh
hưởng; tỷ lệ lao động bị ảnh hưởng trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là
26,4%. Đối với lao động trong độ tuổi, trình độ chun mơn kỹ thuật càng cao, tỷ lệ
thiếu việc làm càng thấp. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi năm 2020 của lao động
khơng có trình độ chun mơn kỹ thuật là 2,87%; sơ cấp là 2,25%; trung cấp là 1,58%;
cao đẳng là 1,52%; từ đại học trở lên là 1,04%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng,
chứng chỉ từ sơ cấp trở lên năm 2020 là 24,1%, cao hơn 1,3 điểm phần trăm so với
năm 2019. Tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 39,9%, trong khi đó tỷ lệ này ở khu vực
nơng thơn là 16,3%. Có sự khác biệt đáng kể này là do lao động ở khu vực thành thị có
điều kiện tham gia đào tạo hơn so với lao động khu vực nông thôn. Mặt khác, đặc thù
cơng việc ở khu vực thành thị địi hỏi lao động phải có kĩ năng, tay nghề cao trong khi
đó ở khu vực nơng thơn lao động chủ yếu làm công việc giản đơn trong khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản.
9



Nhìn chung, mặt mạnh của nguồn nhân lực Việt Nam nằm ở lực lượng lao động
trong độ tuổi lao động nhiều, cơ cấu dân số trẻ, có trình độ được đào tạo cơ bản nắm
bắt và ứng dụng được các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trong công việc. Bên cạnh
đó, cịn kể đến các chính sách của nhà nước dành cho người lao động, những ưu đãi
của các công ty và các kế hoạch sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả. Tuy nhiên,

còn một số hạn chế như tính chun mơn hóa trong cơng việc khơng cao; văn hóa kỷ
luật lao động cịn hạn chế, không tuân thủ chặt chẽ các quy định của tổ chức đề ra; tư
tưởng và tâm lý lao động còn chưa công nghiệp vẫn nặng nề theo phong cách tiểu
nông; bảo thủ, độc đốn, trì trệ chưa sáng tạo trong công việc; bị tác động nhiều bởi
mặt trái của nền kinh tế thị trường nên chạy theo lợi nhuận chưa bền vững. Thêm vào
đó, COVID-19 tuy tạo ra những điều kiện phát triển cho một số ngành dịch vụ, nhưng
những khó khăn mà nó đem lại ảnh hưởng rất lớn đến lực lượng lao động, khiến những
người có cơng ăn việc làm vốn đã bấp bênh nay hoàn toàn thất nghiệp, đối chọi với
bao vấn đề kinh tế.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đang cịn rất chậm so với
các nước trên thế giới. Những ngành cần kỹ thuật khó, tay nghề cao cịn thiếu nhân lực
rất nhiều, đặc biệt việc “chảy chất xám” ở nước ta cịn là một bài tốn khó do chúng ta
chưa đủ kinh tế cho những chính sách ưu đãi nhằm bồi dưỡng nhân tài. Dịch bệnh
khiến bài tốn khó được tạm thời giải quyết do cả nước ta đều một lòng chống dịch và
tập trung vào cải thiện nền kinh tế nước nhà. Hơn nữa, những hành động nhân văn như
đón người dân từ nước ngồi về Việt Nam và chi trả hoàn toàn tiền chữa trị phần nào
khiến người lao động gốc Việt đang định cư ở nước ngoài tin tưởng và tin yêu hơn vào
chính quê nhà. Trong thời điểm dịch Corona, hiện đại hóa các phương thức làm việc
cần yêu cầu trực tiếp gặp mặt trước đó đang ngày càng trở nên quen thuộc hơn trong
cuộc sống hàng ngày, cho thấy đây là một bước tiến tốt trong q trình cơng nghệ 4.0,
khi mà chúng ta cần sử dụng trí não nhiều hơn tay chân. Về cơng nghiệp hóa, chúng ta
vẫn cần một quãng thời gian dài, tuy nhiên phần nào Việt Nam cũng đã đạt được những


thành tựu đáng ghi nhận khi công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong
các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% GDP và trở thành ngành xuất
khẩu chủ lực của đất nước, góp phần đưa Việt Nam lên vị trí thứ 22 quốc gia xuất
khẩu lớn nhất thế giới vào năm 2018. Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp
mũi nhọn theo định hướng chiến lược của ta đã trở thành các ngành công nghiệp lớn
10


nhất đất nước, qua đó đưa nước ta cơ bản đã hội nhập thành cơng vào chuỗi giá trị
tồn cầu.
Với thực tiễn Việt Nam hiện nay, với bối cảnh quốc tế hiện thời, để phát triển,
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao với tư cách là yếu tố cơ bản cho sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững, Việt Nam cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm từng bước hiện đại hóa đất nước và đời sống xã hội. Chính vì thế mà mọi kế
hoạch xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối liên hệ khơng
thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển mỗi người, mỗi gia đình và cả
cộng đồng dân tộc Việt Nam.
2.2 Vai trò nguồn lực con người trong Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước đều đang
hướng tới. Đây cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn tiến hành thành cơng q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa địi hỏi mơi trường chính trị ổn định và những nguồn lực cần thiết như nguồn
lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này
quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào tân tiến hóa quốc gia nhưng mức độ tác
động và vai trò của chúng khơng giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đáp ứng
đủ số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành nhân
tố phát triển chính yếu và là kết quả cuối cùng mà cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

hướng tới nhằm đáp ứng nhu cầu mới cấp thiết sinh ra từ lực lượng con người.
Vai trò quyết định của nguồn lực con người đến sự thành bại của công cuộc đổi
mới đất nước được biểu hiện ở những điểm sau:


Đầu tiên, các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, khí hậu có
vai trị rất lớn trong sự phát triển của một quốc gia. Song những yếu tố đó ở
dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động. Chúng chỉ trở
thành nhân tố “khởi động”, và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con
người. Vai trò của nguồn lực con người được đặt ở vị trí trung tâm cùng với các
11


nguồn lực khác như tài nguyên, vốn tư vật liệu. Con người khơi dậy, chi phối và
phát huy tiềm năng của các nguồn lực đã cho sẵn hoặc được tạo từ trước, gắn
kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá
trình sản xuất đổi mới. Vì thế, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất,
người lao động là yếu tố quan trọng nhất.


Thứ hai, trong khi các nguồn lực khác có hạn và dễ bị cạn kiệt khi khai thác thì
nguồn lực con người lại mang trong mình cốt lõi là nguồn lực trí tuệ vơ tận.
Tính vơ tận của trí lực khơng chỉ thể hiện ở việc bộ não lồi người có khả năng
tái sinh, tiếp tục sản xuất ra các neuron mới trong phần não liên quan tới học
tập, trí nhớ và cảm xúc kể cả khi đến tuổi thành niên, mà còn ở khả năng nâng
cao, phát triển không ngừng về chất lượng kiến thức nếu biết chăm lo, bồi
dưỡng và khai thác hợp lý. Nói cách khác, năng lực học tập và nhận thức hoạt
động thực tiễn của con người phát triển khơng có giới hạn, thậm chí vượt qua
chính thời đại của mình.




Tiếp đó, một khi được vật thể hóa, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn
và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang đưa các nền kinh tế của các
nước công nghiệp tiến bộ vận động hướng đến nền kinh tế trí thức. Thời đại
cơng nghệ hóa cùng cách mạng trí tuệ nhân phát triển lớn mạnh như hiện nay
đều nhờ sức mạnh của trí lực con người khám phá và nâng cấp các nguồn lực
có sẵn trước đó. Rõ ràng, bằng những kỹ thuật cơng nghệ hiện đại do chính bàn
tay khối óc con người sáng tạo ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự
biến đổi thần kỳ của thế giới.



Cuối cùng, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy sự thành cơng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào
việc hoạch định đường lối chính sách con người cũng như tổ chức thực hiện
các kế hoạch kinh tế - xã hội, tức phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người.



Nguồn lực con người là yếu tố quyết định thành công của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Xu thế phát huy nguồn nhân lực là xu thế chung toàn
cầu. Nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề sẽ trở thành một lợi
thế cạnh tranh lớn mạnh cho mỗi quốc gia. Các nước đang phát
12


triển tăng cường đầu tư kinh phí cho giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời có

chính sách ưu đãi thích hợp nhằm ngăn chảy máu chất xám khỏi quốc gia.
3

Một số giải pháp xây dựng nguồn lực con người hiện nay tại nước ta:
Với thực trạng như đã nêu ở trên, em xin phép được kiến nghị một số biện pháp

nhằm giúp đất nước có thể phát triển nguồn nhân lực thực sự chất lượng, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ của đất nước.


Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng cuộc sống. Luôn
nghiên cứu, phát triển, điều chỉnh các chính sách như việc làm, tiền lương, an
sinh xã hội, bảo trợ thất nghiệp, nhà ở xã hội, trợ giá, hỗ trợ lao động vùng khó
khăn để gia tăng chất lượng sống, qua đó cải thiện chất lượng nguồn lực con
người góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội.



Khi có chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có nghĩa là
phải nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần của con người sinh ra, bảo đảm cho
họ có thể lực dồi dào, có trí tuệ minh mẫn, an tâm tập trung vào nghiên cứu,
phát triển kinh tế.



Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc
tế. Xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch
định và tổ chức thực hiện chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Doanh nghiệp, tổ chức cần tham gia chủ động tích cực, ln có các phương

pháp quản lý phù hợp. Đặc biệt, chú ý đến nhóm yếu tố phát triển các nguồn
lực như sự phù hợp giữa con người lao động với tổ chức, lương và các khoản
thu nhập, đào tạo và phát triển nghiệp vụ phục vụ chức nghiệp, các cơ hội thực
hiện nhiệm vụ và yếu tố tổ chức như hành vi của lãnh đạo, mối quan hệ trong tổ
chức, văn hóa và các chính sách của tổ chức, mơi trường làm việc.



Chính phủ và các cơ quan chức năng của Chính phủ có biện pháp giải quyết
hiệu quả những vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài của nguồn nhân lực, trong đó
có vấn đề khai thác, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực, tạo một chuyển biến thật
sự mạnh mẽ trong việc khai thác, đào tạo, sử dụng từ nguồn nhân lực trong
cơng nhân, nơng dân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ, ...
13




Giáo dục và đào tạo nguồn lực con người đối với mỗi quốc gia luôn được quan
tâm hàng đầu. Với nước ta, việc nhắm trọng điểm vào lợi thế lao động là vấn đề
cần thiết, vì vậy cần phải tiến hành cẩn trọng từ khâu giáo dục kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, năng lực cơ bản đến chuyên sâu. Các Ban, Bộ, ngành cần
đầu tư nghiên cứu trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cần
thiết để phục vụ nghề nghiệp. Cần liên tục điều chỉnh, đổi mới nội dung chương
trình cập nhật, đổi mới phương pháp để truyền tải tốt đến người học, khuyến khích
sáng tạo tư duy nghiên cứu trong lĩnh vực đảm nhận hướng đến xã hội phát triển
kinh tế, làm chủ công nghệ, làm chủ tri thức. Tập trung vào việc thực hành hơn
trọng tâm quá vào việc cung cấp một lượng kiến thức “khơng có tính

áp dụng thực tế”.



Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với
việc việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và
chuyên gia thật sự có tài năng cống hiến. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa
tài thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong
các cơ quan cơng quyền.



Chính phủ cần có những quyết định đúng đắn về việc được phép đầu tư vào cái
gì trong nguồn nhân lực; cải thiện chính sách tiền tệ và tài chính, phát triển cơ
sở hạ tầng, hiện đại hóa giáo dục là những vấn đề quan trọng vào thời điểm
hiện nay.



Cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho
mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của nước
ta và trên thế giới. Mở những đợt tuyên truyền rộng rãi, thấm sâu vào lòng
người về nguồn nhân lực, chất lượng sinh, sống, thông tin về học tập, giáo dục
ngành nghề trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, học sinh.
KẾT LUẬN:

Như vậy, có thể thấy, quan điểm triết học Mác-Lênin có sự đúng đắn khơng thể phủ
nhận và mang tính hiện đại vượt bậc bởi cho đến giờ vẫn chưa có ai có thể tạo ra
những quan niệm khác. Toàn bộ nội dung của triết học Mác-Lênin khơng nhằm mục
đích nào khác ngồi việc giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà suy cho cùng là
giải phóng con người, tạo phương hướng để con người tự giải phóng, hướng tới tự do.
14



Thực sự đã trở thành công cụ hữu hiệu hay nói khác đi đó là nên tảng mà dựa vào đó
các dân tộc và nhân dân bị áp bức trên tồn thế giới tự giải phóng mình.
Việc áp dụng và sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào công cuộc
đổi mới hiện nay càng cho thấy con người vừa là mục tiêu mà công cuộc đổi mới
hướng đến vừa là nhân tố quyết định nhất cho mọi sự phát triển mà xã hội cần tiến
hành. Trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thì trí tuệ của con người có vai trị
cơ bản và quan trọng nhất, song song với đó là việc phát triển nền giáo dục sao cho
phù hợp với nhu cầu đặt ra của thời đại.
Để bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam, chúng ta cần phải tạo ra
mối quan hệ hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với tiến bộ xã hội, đảm bảo công
vụ và quyền lợi công dân, cải thiện và nâng chất lẫn tinh thần; giải quyết hợp lý mối
quan hệ giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích tập
thể, lợi ích cá nhân; khơng ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hố cho họ trên cơ sở
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin” (Tái bản

đã có sửa chữa, 2017) – Bộ Giáo dục và đào tạo.
2. TẠP CHÍ XÂY DỰNG ĐẢNG SỐ 5/2016: Từ quan điểm của C.Mác về vấn đề

con người ( 29/04/2016)
PGS, TS. Đinh Ngọc Giang, ths. Vũ Khánh Hoàn
/>3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, tập 3, NXB CTQG, H.1995
4. C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Tuyển tập, tập II, NXB Sự thật, H.1981

5. TS. Đinh Ngọc Quyên, TS Lê Ngọc Triết, Ths Hồ Thị Thảo: Triết học Mác –

Lênin trong sự nghiệp đổi mới xã hội.
6. Tổng cục thống kê: Báo cáo lao động việc làm Quý I năm 2021:

/>7. Vai trò của con người trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, Trịnh Minh Ngọc, 2009: />
16


17



×