Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tình hình nghiên cứu Hàn Quốc của sinh viên chuyên ngành Hàn Quốc học 10 năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.84 MB, 14 trang )

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU HÀN QUỐC
CỦA SINH VIÊNCHUYÊN NGÀNH HÀN QUỐC HỌC
10 NĂM QUA
ThS. Trịnh Cẩm Lan

Khoa Đông Phương học
Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn

Đại học Quốc gia Hà Nội

Ngày 22 tháng 12 năm

1992 là một ngày đáng nhớ đối với

nhân dân hai nước Việt Nam và Hàn Quốc, ngày mở ra một thời kỳ

mới cho sự phát triển quan hệ toàn diện giữa hai nhà nước. Cùng với sự
phát triển trên nhiều phương diện khác, quan hệ giáo dục - đào tạo
giữa hai nước cũng nhờ vậy mà có thêm những lợi thế mới. Đào tạo và
nghiên cứu Hàn Quốc ở các trường đại học Việt Nam cũng được mở ra

từ giai đoạn này và phát triển khá mạnh ngay từ trong thập kỷ đầu tiên.
Cùng với sự ra đời của Khoa Đông phương học, Bộ môn Hàn

Quốc học đã được thành lập và tuyển những lớp sinh viên đầu tiên vào
năm 1993. Đến nay, việc nghiên cứu và đào tạo Hàn Quốc học ở Khoa
đã bước sang năm thứ 10 và có được những kết quả tai

phải thật to lớn nhưng rất đáng trân trọng.

đầu tuy chưa



Đồng thời với những thành

tựu đáng ghi nhận trong việc dạy tiếng Hàn và Hàn Quốc học là những

kết quả bước đầu của sinh viên trong nghiên cứu về Hàn Quốc. Các
sản phẩm nghiên cứu Hàn Quốc của sinh viên bao gồm những báo
cáotham dự các hội thảo khoa học sinh viên, các tiểu luận khoa học
của sinh viên năm thứ 3, các khoá luận tốt nghiệp hàng năm .... ngoài
314


ra cịn có các bài viết tham dự các cuộc thi tìm hiểu Hàn Quốc do

nhiều tổ chức trong và ngoài nước phát động.
I. CANH QUAN

NGHIEN CUU CHUNG

Báo cáo này của chúng tôi được viết dựa trên cơ sở tổng kết
tình hình nghiên cứu Hàn Quốc từ trên 40 khố luận tốt nghiệp của
sinh viên chuyên ngành Hàn Quốc học từ khi thành lập Khoa Đông
Phương học đến nay. Hiện tại, ngồi 4 khố sinh viên đang được đào

tạo, chúng tơi đã có 6 khố tốt nghiệp với

106 cử nhân. Tổng số khoá

luận tốt nghiệp mà sinh viên các khoá đã làm là 43 (cũng cần phải nói


thêm rằng ngồi hai khoá đầu tiên với 100% sinh viên được làm khố
luận tốt nghiệp thì từ khố thứ ba trở đi, không phải bất cứ sinh viên
nào chuẩn bị ra trường cũng đều được làm khoá luận tốt nghiệp. Theo
quy định của trường, chỉ 30 đến 40% sinh viên - những người có kết
quả học tập tốt - mới được phép làm khố luận tốt nghiệp ). Các khố
luận trên có phạm vi nghiên cứu liên quan đến nhiều lĩnh vực trong

nghiên cứu Hàn Quốc. Con số thống kê cụ thể như sau:
- Nghiên cứu về kinh tế có 20 khố luận, chiếm 46,5%.
- Nghiên cứu về ngơn ngữ có 10 khố luận, chiếm 23,2%.
- Nghiên cứu về văn hố có 5 khoá luận, chiếm I 1,6%.
- Nghiên cứu về lịch sử có 3 khố luận, chiếm 0,7%.
- Nghiên cứu về văn học có 3 khố luận, chiếm 0,7%.
- Nghiên cứu về giáo dục có 2 khố luận, chiếm 0,5%.
Kết quả thống kê trên đây cho thấy thế đa ngành, liên ngành
trong nghiên cứu Đất nước học nói riêng và Khu vực học nói chung,
315


một phạm vi đào tạo và nghiên cứu cơ bản ở Khoa Đơng phương học
hiện nay. Cịn cụ thể, chỉ tiết hơn. những con số trên cũng phản ánh
một số mặt trong nghiên cứu Hàn Quốc ở Khoa Đông phương học hiện

nay, đó là:
(1) Mảng kinh tế được chú trọng hơn cả, điều này có nguyên
nhân của nó, theo chúng tơi, những ngun nhân đó là:
- Do quan niệm của sinh viên về vấn đề việc làm sau khi tốt
nghiệp. Các sinh viên cho rằng sau khi tốt nghiệp. công việc tốt nhất,
hứa hẹn nhiều ưu thế về mặt thu nhập là làm việc trong các doanh
nghiệp, các cơ sở kinh tế của Hàn Quốc hay trong các liên doanh giữa

Hàn Quốc

và Việt Nam.

Để có thể có được việc làm ở đó. cần có

những hiểu biết nhất định về kinh tế và một trong những cách để trang
bị tri thức cho mình là làm khố luận tốt nghiệp về kinh tế.
- Do nguồn tư liệu về Hàn Quốc học ở ta vào thời gian đầu ở
các mảng nghiên cứu khác chưa nhiều, nguồn tài liệu về kinh tế vào
thời gian đó tỏ ra phong phú hơn cả. Vì vậy, chọn để tài về kinh tế,
sinh viên cảm thấy dễ hơn, tự tin hơn vì có nhiều tài liệu 4để viết.
(2) Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu về kinh tế có xu hướng

giảm dần trong vài năm gần đây, con số cụ thể như sau:
- K38 có 3/6 khố luận nghiên cứu về kinh tế, chiếm 50%.
- K39 có 9/15, chiếm 60%.
- K40 có 6/10, chiếm 60%.
- K41 có 1/5, chiếm 20%.

- K42 có 2/6, chiếm 33%.
316


- K43 có 1/7. chiếm 14%.
Ngun nhân của tình hình trên, theo chúng tôi, là:
- Thời gian đầu học tập. sinh viên bị choáng ngợp bởi sự tăng
trưởng vượt bậc về kinh tế của con rồng Hàn Quốc và rất

muốn hiểu.


Các sinh viên kỳ vọng rằng có một khố luận tốt nghiệp về kinh tế thì
sẽ dễ dàng hơn cho cơ hội tìm được một cơng việc tốt ở doanh nghiệp
Hàn Quốc. Sau một thời gian, các sinh viên bắt đầu nh tâm lại và có
cách nhìn nhận sáng suốt hơn rằng khơng nhất thiết phải có khố luận

tốt nghiệp về kinh tế thì mới có thể có việc làm ở các cơ sở kinh tế do
đó họ bắt đầu chuyển hướng.
- Do định hướng nghiên cứu của bộ môn là dân dân hướng sinh
Viên vào việc nghiên cứu các môn khoa học cơ bản như ngôn ngữ, lịch

sử, văn học. Hơn nữa, do nguồn tài liệu về kinh tế Hàn Quốc ít ỏi ở
Việt Nam cạn dần và một số khố luận đi sau đã bắt đầu có hiện tượng

cóp nhặt tư liệu, ý tứ của những khố luận đi trước khiến cho những
phát hiện, nhận định, kiến giải khơng cịn mới mẻ nữa. Một lý do nữa
là những nghiên cứu về đường lối, chiến lược kinh tế ở tầm vĩ mô ngày
càng tỏ ra không thiết thực với các sinh viên sắp tốt nghiệp. Tất cả
những lý do đó khiến lãnh đạo Bộ mơn thấy cần phải định hướng lại
việc chọn lựa đề tài nghiên cứu của sinh viên.
(3) Những nghiên cứu về ngôn ngữ chiếm số lượng lớn thứ hai

sau kinh tế. Nguyên nhân của điều này là:
- Nấm bắt tiếng Hàn và học tốt tiếng Hàn là một yêu cầu cần
thiết đối với mọi sinh viên chuyên ngành Hàn Quốc học.
317


- Khi chưa có nhiều tư liệu ở những mảng nghiên cứu khác thì
những tư liệu sống mà các sinh viên thu nhận được trong quá trình học


tiếng Hàn trở nên có giá trị thiết thực và những hiểu biết này ngày
càng chiếm dung lượng nhiều hơn cả trong những hiểu biết về Hàn
Quốc nói chung. Cùng với sự tích luỹ tri thức là sự tự ý thức rằng
nghiên cứu về Hàn ngữ học là một việc làm rất thiết thực để học tốt

tiếng Hàn và học tốt tiếng Hàn là việc làm tốt nhất để chuẩn bị cho
công việc trong tương lai.

(4) Số lượng những nghiên cứu về ngôn ngữ càng ngày càng
tăng, cụ thể là:
- K38 có 1/6 khố luận nghiên cứu về ngơn ngữ, chiếm 16,6%.
- K39 có 2/15 khố luận nghiên cứu về ngơn ngữ, chiếm 13,3%.
- K40 có 2/10 khố luận nghiên cứu về ngơn ngữ, chiếm 20%.

- K41 có 1/5 khố luận nghiên cứu về ngơn ngữ, chiếm 20%.
- K42 có 2/6 khố luận nghiên cứu về ngơn ngữ, chiếm 33,3%.
- K43 có 3/7 khố luận nghiên cứu về ngơn ngữ, chiếm 42,8%.
Tình hình trên có nguyên nhân của nó:

- Càng ngày sinh viên càng nhận ra việc tìm se

tiếng Hàn là

một việc làm thiết thực giúp cho việc học tiếng Hàn tốt hơn.

- Trong khi nguồn tài liệu ở những mảng khác còn rất thiếu
thốn hoặc nếu có thì cũng rất ít oi thì những tư liệu sống có được qua

q trình học tiếng Hàn vẫn là mảng tư liệu phong phú và có nhiều

điều mới mẻ.

- __ Do định hướng của Bộ môn: nghiên cứu ngôn ngữ để thiết
318


thực giúp cho việc học tiếng Hàn tốt hơn bởi sau khi tốt nghiệp, khả
năng sử dụng tiếng Hàn tốt là điều kiện quan trọng nhất để có một việc
làm tốt.
(5) Các mảng nghiên cứu khác như giáo dục, văn hoá, văn học,

lịch sử được quan tâm đêu đều như nhau, khơng có sự lên xuống q
nhiều về số lượng các đề tài qua các năm cũng như khơng có nhiều
vấn đề mới. Nguyên nhân:
- Nguyên nhân quan trọng là tư liệu về những mảng này cịn
q ít.
- Các chun đề được học ở năm thứ 3 và năm thứ 4 thì lượng
kiến thức cịn rất mỏng, chưa đủ cung cấp cho sinh viên nguồn tư liệu

phong phú để nghiên cứu. Những tư liệu bằng tiếng Anh và tiếng Hàn
thì bắt đầu có nhiều do sự tài trợ của các tổ chức Hàn Quốc, đặc biệt là
Quỹ Hàn Quốc và tổ chức KOICA nhưng trình độ ngoại ngữ của sinh

viên chưa đủ để tiếp cận với những tư liệu đó.
- Khác với kinh tế và ngôn ngữ là hai mảng nghiên cứu có thể
đưa lại những kết quả thiết thực, thậm chí có thể định lượng được thì
các mảng nghiên cứu trên đây khơng có được những ưu thế đó.

- Các sinh viên quan niệm rằng nghiên cứu về các mảng như
giáo dục, văn hoá, văn học, lịch sử ... ra trường rất khó tìm việc làm,

nếu có tìm được thì cũng chỉ là về các viện nghiên cứu, một cơng việc
rất ít được giới trẻ ưa thích.

- Một số sinh viên thì thấy rằng nghiên cứu những lĩnh vực như
lịch sử, văn hố thì rất hay, rất thú vị nhưng đó là cơng việc lâu dài,
319


cần nhiều thời gian chứ chỉ trong một luận văn tốt nghiệp thì có được
là bao. Cho nên tốt hơn vẫn là nghiên cứu những vấn đề thiết thực như
kinh tế hay ngôn ngữ.

Trên đây là một vài nhận định ban đầu của chúng tôi trên cơ sở
những thống kê rất đơn giản số lượng các khoá luận theo các lĩnh vực

nghiên cứu và theo các năm. Đó là những điều có thể nhìn thấy trên bề
mặt của cảnh quan nghiên cứu chung. Tuy nhiên, ở một tầng sâu hơn,

tầng thứ hai, có thể thấy cảnh quan đó phản ánh một vấn đề gốc rễ hơn
- đó là ở ta hiện nay còn rất thiếu những chuyên gia về Hàn Quốc học,
rất thiếu những cơng trình nghiên cứu có giá trị về Hàn Quốc học, đặc

biệt là ở các mảng nghiên cứu như văn học, lịch sử, nhà nước và pháp
luật, xã hội ... Đó là lý do quan trọng khiến sinh viên không dám đặt

chân lên những địa hạt đó vì thiếu thầy hướng dẫn, thiếu tư liệu. Lực
lượng nghiên cứu và giảng dạy Hàn Quốc học trong Khoa, Trường
còn
mỏng, thâm niên nghiên cứu chưa lâu nên kết quả đạt được cịn khiêm
tốn, điều này khiến sinh viên khơng dám mạnh dạn chọn đề tài nghiên

cứu thuộc các mảng này.

s

II. MỘT VÀI LĨNH VỤC NGHIÊN CỨU CỤ THỂ
Để có những nhận định cụ thể hơn, chúng tôi xin điểm qua vài
lĩnh vực nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Lĩnh vực kinh tế: có tổng số 20/43 khố luận. Các khố luận
tập trung vào các đề tài sau: đề tài về đán số đốt với kinh tế - xã hội (2
KL), về đơ thị hố (1), về khủng hoảng kinh tế (3), vẻ các Chaebol (2),

về cơng nghiệp hố (4), về cải cách doanh nghiệp (2), vẻ chân dung
320


nhà doanh nghiệp (1). về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ().

vê ngoại thương (L), về các doanh nghiệp vừa và nhỏ (1). về công ty
Hàn Quốc ở Việt Nam (1). về phong trào làng mới Saemaeul (1). Sau

đây, chúng tơi xin điểm tình hình nghiên cứu đối với các đề tài có từ
hai khố luận trở lên. Chúng tơi sẽ đi từ những đề tài có nhiều khố
luận đề cập đến nhất:
1. Đề tài về cơng nghiệp hố: có 4 khố luận. Các vấn dé

chung mà cả 4 khoá luận này đề cập đến là:
+ Khái qt q trình cơng nghiệp hố ở Hàn Quốc.

+ Đặc điểm của q trình cơng nghiệp hố ở Hàn Quốc.
+ Bài học kinh nghiệm từ q trình cơng nghiệp hố ở Hàn


Quốc.
Ngồi các nội dung trên đây, mỗi khố luận ít nhiều đều có
một hay một số nội dung nào đó của riêng mình, chẳng hạn như: liệu

quả và hạn chế của cơng nghiệp hố, các sản phẩm chủ lực của Hàn

Quốc trong cơng nghiệp hố ... Tuy nhiên, có thể thấy rằng nếu chỉ với
một đề tài mà có tới vài khố luận cùng khai thác thì khơng thể tránh

được sự trùng lặp, có khi sao chép của nhau, hoặc chỉ khác nhau đôi
chút và kết quả là sẽ khơng cịn cái mới vốn là một u cầu quan trọng
nhất đối với các cơng trình nghiên cứu. Mảng đề tài nay, do vay, tir

nay không triển khai thêm nữa.
2. Đề tài về các Chaebol: Đây cũng là một đề tài được khá

nhiều khoá luận quan tâm. Với đề tài này, hầu hết các khố luận đều
khơng thể tránh được việc phải miêu tả quá trình hình thành và phát
321


triển của hệ thống Chaebol, rồi các đặc điểm của hệ thống Chaebol.
những đóng góp của hệ thống Chaebol ... Những phát hiện riêng của

mỗi khoá luận đối với những đẻ tài như vậy không nhiều và nếu tiếp
tục theo hướng này thì các nghiên cứu trong tương lai sẽ khơng cịn gì
để nói nữa.
3. Đề tài về khủng hoảng kinh tế cũng là một trong những


điểm nóng của nghiên cứu kinh tế Hàn Quốc trong thời gian qua.

Những vấn để thường được nhắc đến khi lam dé tai nay là nguyén

nhân và tác động của khủng hoảng tới nền kinh tế đất nước, các giải

pháp khắc phục khủng hoảng kinh tế, rồi những chính sách của chính
phủ
để đối phó với khủng hoảng kinh tế ... Nói chung, các khố luận
đều cố gắng đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam đặc biệt
là ở những ứng phó của chính phủ và các doanh nghiệp trong cuộc
khủng hoảng và giải quyết những vấn đề hậu khủng hoảng. Trong sự

cố gắng tìm tịi cho mình những điểm mới mẻ, các khoá luận vẫn va
phải sự trùng lặp đương nhiên phải có khi cùng khai thác chung một đề
tài.

Đó chỉ là một vài ví dụ cụ thể, một vài để tài điển hình, cịn
nhiều đề tài khác nữa cũng rơi vào tình trạng trên đây và chúng tơi
nghĩ rằng càng ít lặp lại những điều như vậy trong nghiên cứu càng tốt.
Về mảng nghiên cứu kinh tế, chúng tôi xin mạo muội đưa ra mấy nhận
xét như sau:

(1) Những
ưu điểm:
-_ Ngoài một vài khố luận trùng nhau và một số có nội dung gần
322


giống nhau, hầu hết các khoá luận đều cố gắng có được ít nhiều những

tìm tịi mới mẻ so với những khố luận đi trước.

-_

Khi giải thích, chứng minh một luận điểm nào đó, các khố

luận đều cố gắng đưa ra những số liệu cụ thể để chứng minh. Những
số liệu này thường được lấy từ những nguồn tài liệu có thể tin cậy
được như từ các báo, tạp chí của Hàn Quốc, hoặc do các doanh nghiệp
trực tiếp cung cấp, hoặc trích dân từ các cơng trình nghiên cứu của các
chuyên gia trong và ngoài nước, một số được lấy từ phịng Thơng tin
của Đại sứ qn ...
- Với mỗi lĩnh vực, mỗi vấn đề, các tác giả khoá luận đều cố

gắng so sánh với tình hình của Việt Nam để rút ra bài học kinh nghiệm
cho đất nước mình, tuy những nhìn nhận đơi lúc cịn hơi chủ quan,
cảm tính và thiếu căn cứ nhưng đó cũng là những cố gắng nhìn nhận
trên cơ sở những tri thức rất khiêm tốn của sinh viên sắp ra trường.
(2) Những hạn chế:
- Hiện tượng khoá luận sau sao chép hoặc xào xáo lại nội dung,

ý tứ từng phần của khoá luận trước vẫn còn tồn tại.
- Do kiến thức còn hạn hẹp, một số nhận định thiếu chính xác

dân đến độ tin cậy của những kết quả nghiên cứu chưa cao.
- Về mặt phương pháp, một số sinh viên chưa biết cách trình

bày, sắp xếp nội dung một khố luận với tư cách là một sản phẩm
nghiên cứu khoa học nên khi đọc, người đọc có cảm giác sinh viên có


nhiều tư liệu nhưng chưa biết cách trình bày sao cho sáng rõ.
323


Lĩnh vực ngơn ngữ: Có tổng số 10/43 khố luận, trong đó về
ngữ pháp có 6/10 khố luận. về ngữ âm có 1/10. về phong cách có
2/10. về từ vựng có 2/10. Với những con số trên, có thể thấy mảng ngữ
pháp là mảng nghiên cứu chiếm được sự quan tâm nhiều nhất. Đây là
một điều đương nhiên bởi lẽ khi học một ngoại ngữ bất kỳ người ta
phải học tất cả những quy tắc ghép các từ trong ngôn ngữ với nhau để
hoạt động giao tiếp, những quy tắc đó chính là ngữ pháp. Mảng tri
thức mà sinh viên được tiếp xúc nhiều nhất khi học một ngoại ngữ

chính là mảng tri thức về ngữ pháp. Những nghiên cứu về ngữ pháp là
những nghiên cứu nhiều tư liệu hơn cả và cũng thiết thực hơn cả. Bên
cạnh những đề tài về ngữ pháp, những đề tài về phong cách, đặc biệt là
các cách dùng đại từ xưng hô hay kính ngữ - một phạm vi đặc biệt của
tiếng Hàn cũng được nhiều khố luận khai thác vì đây cũng là mảng
đề tài thiết thực rút ra từ thực tế học tập và sử dụng tiếng Hàn của các
sinh viên.

Chi tiết hơn, trong những nghiên cứu về ngữ pháp có nghiên
cứu về ứ loại danh từ (2 KL). về vị ngữ và đuôi từ (2). về tiểu từ (1),
về cú pháp (1). Có thể có một vài nhận định sơ bộ như sau:
- Nghiên cứu ngôn ngữ vẫn rất mỏng (về lượng) và chưa đủ độ
sâu cần thiết của một khố luận ngơn ngữ học (về chất), có nhiều
mảng nghiên cứu hay và thiết thực chưa được khai thác như trật tự từ
trong câu, cấu trúc của cụm từ, từ Hán - Hàn và từ Hán - Việt, lỗi của
người Việt học tiếng Hàn ...


324


- Các sinh viên đã cố gắng tìm tịi, phân tích tư liệu và bước
đầu có những cảm nhận tính tế, những kết luận xác đáng và có cơ sở.
- Tuy nhiên, các sinh viên tỏ ra thiếu trầm trọng những tri thức

về ngơn ngữ học nói chung và Việt ngữ học nói riêng nên trong nhiều
trường hợp cần so sánh đối chiếu, sinh viên đã không thể thực hiện
được một cách có hiệu quả, điều này gây nhiều hạn chế khi cần rút ra

những khác biệt giữa hai thứ tiếng để có thể tránh mắc lỗi khi học và
nói tiếng Hàn. Về vấn đề này, có lẽ trong chương trình đào tạo của
Khoa Đơng phương học cần bổ sưn thêm giáo trình “ Cơ sở ngơn ngữ
học và tiếng Việt ”.

i

Trên đây là hai lĩnh vực chiếm được sự quan tâm nhiều hơn cả.
Các lĩnh vực khác như văn hoá, lịch sử, văn học, giáo dục... cũng bắt
đầu được quan tâm nhưng không nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do tư
liệu cịn q ít ỏi, thiếu các chun gia về các lĩnh vực này nên các
sinh viên không dám mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứư.
Nói chung, Hàn Quốc học là một ngành mới, rất mới ở Việt

Nam. Nghiên cứu và đào tạo Hàn Quốc học ở các trường đại học nước
ta đã bước sang năm thứ mười nhưng so với lịch sử lâu dài của một
ngành khoa học xã hội và nhân văn thì mới chỉ là sự bắt đầu, một Sự

bắt đầu hứa hẹn nhiều triển vọng và nhiều kết q'1ả tốt đẹp. Nghiên cứu

Hàn Quốc của sinh viên ngành Hàn Quốc học, khoa Đông Phương học
trong thập kỷ vừa qua đã đạt được một số kết quả nhưng thực sự mới

chỉ là những bước khai phá ban đầu. Các vấn đề đã bắt đầu được gợi ra.
xới lên nhưng chưa có nhiều điều kiện và thời gian để đi sâu nghiên
325


cứu. Bởi mới là sự khởi đầu nên việc nghiên cứu cũng còn lắm gian
nan do thiếu chuyên gia, thiếu tư liệu. Tuy nhiên, cũng bởi vậy mà đất
để nghiên cứu thực sự rất dồi dào, có nhiều điều mới lạ ở bất cứ lĩnh

vực nào mà các sinh viên muốn đặt chân đến. Nhưng để việc nghiên

cứu có thể đạt những kết quả tốt đẹp. thiết nghĩ, những người trực tiếp
làm công tác đào tạo và nghiên cứu Hàn Quốc ở Bộ môn Hàn Quốc
học, Khoa Đông Phương học cần rút ra những kinh nghiệm nhất định
sau thập kỷ đầu tiên. Theo chúng tơi, những kinh nghiệm đó rất quan

trọng vì nó bát đầu từ việc tổng kết những hoạt động nghiên cứu của
sinh viên trong thập
kỷ vừa qua.
Thứ nhất, cùng với những nỗ lực nghiên cứu của sinh viên thì
việc định hướng của các thầy cơ, của những người đi trước là một điều

quan trọng giúp các em khơng mất thời gian lần mị để tìm hướng đi
cho mình, rút ngắn thời gian
và quãng đường để đi tới đích. Hơn nữa,

sinh viên là những người trẻ tuổi thường hay bị choáng ngợp trước

những điều mới lạ mà dễ quên đi những gì thuộc về gốc rễ của những
nghiên cứu cơ bản của những ngành khoa học cơ bản, nên việc phân
tích. định hướng
để các em có hướng nghiên cứu thiết Seen

cho

cả trước mắt và lâu dài lại càng
trở nên cần thiết.
Thứ hai là vấn đê tư liệu. Khoa Đơng Phương học nói chung
và Bộ mơn Hàn Quốc học nói riêng là một cơ sở đào tạo và nghiên cứu

có nguồn tài liệu về các nước trong khu vực khá phong phú
do nhận
được nhiều sự giúp đỡ từ các nước đó. Cần đưa những tài liệu đó vào
khai thác một cách có hiệu quả hơn mà một trong những việc cần làm
326




×