Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận phân tích phương thức lãnh đạo của đảng đối với công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị, liên hệ thực tiễn ở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.81 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng, là “then
chốt” của nhiệm vụ “then chốt”. Đây là công tác đối với con người nên rất hệ
trọng và nhạy cảm. Xây dựng Đảng là xây dựng tổ chức và xây dựng con người
nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và đường lối chính trị trong mỗi giai
đoạn cách mạng. Trong khi đó, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đã
và đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới hết sức to lớn. Đó là những yêu cầu
ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố (CNH, HĐH)
đất nước; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội; chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh... Vì thế,
địi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Từ những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn cũng như xuất phát từ nhưng
yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, Trung ương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ, ban hành Nghị quyết về xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo xây dựng, bổ sung,
sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân
chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy
chức, chạy quyền; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm
tra, giám sát, kiểm soát quyền lực... Nhờ đó, cơng tác cán bộ được đổi mới mạnh
mẽ, ngày càng đi vào nền nếp, chất lượng đội ngũ cán bộ từng bước được nâng
cao, cơ bản bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển.


Tuy nhiên, công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ đang bộc lộ một số hạn chế,


bất cập. Công tác cán bộ đổi mới chưa tương xứng với đổi mới kinh tế, chưa gắn
chặt với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Năng lực của đội ngũ cán bộ
chưa đồng đều; nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy viên là nữ, trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số
vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra. Đặc biệt, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên
phong, gương mẫu; tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn cịn diễn biến phức
tạp. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa lan tỏa
sâu rộng... Bên cạnh đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản
động với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Các thế lực thù địch,
tổ chức phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị lợi dụng những hạn chế,
yếu kém, khuyết điểm trong công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ để bôi nhọ, tác
động xấu đến đội ngũ cán bộ, hạ thấp uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước… gây
hoang mang, chia rẽ nội bộ, làm ly tán lòng dân với Đảng và Nhà nước. Thực tế
này đặt ra cho Đảng ta những yêu cầu mới và công tác cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ càng trở nên cấp thiết.
Nội dung khái qt như trên đó chính là phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị. Qua việc học tập môn Công tác cán
bộ của Đảng trong thời kỳ đổi mới, để làm sâu sắc hơn vấn đề lý luận và thực
tiễn, người viết lựa chọn đề tài “Phân tích phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị? Việc nhận thức và tổ chức thực
hiện phương thức lãnh đạo về công tác cán bộ của Đảng bộ Trường Chính trị
ST hiện nay” để làm bài tiểu luận hết mơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ của cả
hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời liên hệ với tình hình nhận
thức, tổ chức thực hiện vấn đề này tại Đảng bộ Trường Chính trị ST hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương thức lãnh đạo của Đảng về công
tác cán bộ trong hệ thống chính trị và liên hệ ở cơ sở.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là phương thức lãnh đạo trong cơng tác của
hệ thống chính trị nước ta nói chung và đảng bộ ở cơ sở nói riêng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dưa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với công tác cán bộ của nước ta thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân tích,
thống kê, tổng hợp….
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp người học nắm rõ hơn các vấn đề quan điểm,
phương thức lãnh đạo của Đảng ta đối với công tác cán bộ của hệ thống chính trị
trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời vận dụng những quan điểm, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với công tác cán bộ vào việc thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan,
đơn vị và địa phương.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1.1. Về phương thức lãnh đạo của Đảng
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “phương thức là phương pháp và hình thức tiến
hành”; “phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao”.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp,
cách thức, quy chế, quy định, quy trình, phong cách, lề lơi làm việc... mà Đảng sử
dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh

chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược,
các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động, tô chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng
viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú
có năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống
chính trị. Đảng lãnh đạo thơng qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các
tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là
người đứng đâu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả
lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là một bộ phận quan trọng của công tác xây
dựng Đảng, có vai trị rất lớn đối với xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, củng cố, nâng cao uy tín chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhờ phương thức lãnh đạo đúng đắn hoạt động của Đảng được thể hiện hiệu quả
trong thực tiễn, được nhân dân thừa nhận. Qua đó, uy tín chính trị và vai trị lãnh


đạo của Đảng được nâng lên.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trị đặc biệt quan trọng đối với việc
thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Thực tế cho thấy, khi đã có chủ trương, đường lối, chính sách đúng, có
tổ chức, bộ máy và cán bộ có chất lượng, nhưng Đảng không tạo lập được
phương thức lãnh đạo đúng đắn, phù hợp, thì hiệu quả lãnh đạo thấp, thậm chí
nhiều khi chủ trương, đường lối, chính sách đúng cịn bị vơ hiệu hóa.
Tồn Đảng phải nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà

nước.
1.2. Lý luận chung về công tác cán bộ
1.2.1. Khái niệm công tác cán bộ
Trước đổi mới, khái niệm công tác cán bộ được hiểu chung là những công
việc liên quan đến xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, chủ yếu là việc bố trí, sử
dụng cán bộ.
Trong thời kỳ đổi mới, quan niệm của Đảng về cơng tác cán bộ có sự phát
triển, hoàn thiện hơn. Qua các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới có thể
quan niệm: Cơng tác cán bộ của Đảng là toàn bộ các hoạt động lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện của cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền nhằm phát huy
cao nhất mọi tiềm năng của toàn Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị và
tồn xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu của
từng thời kỳ cách mạng.
Trong quan niệm công tác cán bộ này có các khía cạnh cần chú ý:
Một là, công tác cán bộ không chỉ là hoạt động lãnh đạo, mà bao gồm cả các
hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, làm thí điểm, kiểm tra, giám sát,
tổng kết, rút kinh nghiệm…
Hai là, công tác cán bộ không đơn thuần chỉ là công tác nhân sự; mà bao
gồm đầy đủ, đồng bộ tất cả các khâu trong công tác cán bộ.
Ba là, mục tiêu cao nhất của công tác cán bộ không chỉ là chuẩn bị đủ số
lượng và sử dụng đội ngũ cán bộ hiện có, mà là chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho cả


trước mắt và lâu dài. Công tác cán bộ không chỉ hướng vào đội ngũ cán bộ đảng,
mà phải phát huy cao nhất mọi tiềm năng nhân lực của toàn Đảng, các tổ chức
trong hệ thống chính trị và tồn xã hội, không chỉ là việc sử dụng cán bộ, tức là
không chỉ giới hạn trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước, mà phải quan tâm đào
tạo, sử dụng cán bộ của các đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp, các
lực lượng vũ trang, cả người ngoài Đảng và người Việt Nam định cư ở nước
ngoài.

Bốn là, Đảng phải quan tâm xây dựng tất cả các loại cán bộ, nhưng tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp trung ương,
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cơng tác cán bộ của Đảng bao gồm hai lĩnh vực: một là, xây dựng đội ngũ
cán bộ của các tổ chức đảng, trước hết là cấp ủy đảng và các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy các cấp; hai là, Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
và lãnh đạo công tác cán bộ của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội, các lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự
nghiệp công lập. Đảng không trực tiếp làm thay công tác cán bộ của cơ quan Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhưng Đảng phải lãnh
đạo công tác cán bộ của cơ quan, tổ chức này bảo đảm theo đúng quan điểm,
đường lối của Đảng. Bởi vì, Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu
trách nhiệm cao nhất về sự phát triển của đất nước, Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
1.2.2. Về vai trị của cơng tác cán bộ
Vai trị của cơng tác cán bộ thể hiện ở ba mối quan hệ chủ yếu:
Một là, công tác cán bộ có vai trị quyết định đến việc tự rèn luyện, phấn đấu
của cá nhân cán bộ, qua đó góp phần nâng cao chất lượng cả đội ngũ cán bộ.
Hai là, công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, tức
là "khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt".
Công tác cán bộ quan hệ, chi phối mạnh mẽ đối với tất cả các lĩnh vực xây
dựng Đảng: công tác tư tưởng; công tác tổ chức; công tác kiểm tra, giám sát; công
tác dân vận, công tác đảng viên; công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng; công tác


bảo vệ chính trị nội bộ…), bởi sản phẩm của công tác cán bộ là con người - các
cán bộ tham gia thực hiện các công việc cụ thể của công tác xây dựng Đảng ở
từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
Ba là, công tác cán bộ là khâu trọng yếu trong phương thức lãnh đạo của
Đảng.

Đảng lãnh đạo bằng công tác cán bộ, thông qua việc giới thiệu cán bộ có đủ
tiêu chuẩn để nhân dân bầu vào các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên công tác các cơ quan nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.2.3. Về nội dung của công tác cán bộ
Nếu như trước đổi mới, công tác cán bộ được hiểu chủ yếu bao gồm các
cơng việc đào tạo, bố trí sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ,
thì trong những năm đổi mới Đảng ta xác định cơng tác cán bộ có nội dung rộng
hơn, tồn diện hơn.
Một là, xác định quan điểm, chiến lược, đường lối, chủ trương, chính sách,
tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ và công tác cán bộ.
Đây là những nội dung có vai trị cực kỳ quan trọng, tạo cơ sở để tiến hành
các công việc cụ thể trong công tác cán bộ; xa rời, nắm không đẩy đủ, thực
hiện không đúng những nội dung này sẽ dẫn đến những sai sót trong các khâu của
cơng tác cán bộ.
Hai là, các khâu của công tác cán bộ.
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đề cập 11 khâu: quy hoạch cán bộ; đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá cán bộ; tuyển chọn cán bộ; bầu cử; bổ nhiệm và
miễn nhiệm; luân chuyển cán bộ; việc nhân dân tham gia xây dựng và giám sát
cán bộ; chế độ kiểm tra; công tác bảo vệ chính trị nội bộ; phân cơng, phân cấp
quản lý cán bộ.
Báo cáo của Bộ Chính trị trước Hội nghị Trung ương 9 khóa X đề cập thành
tựu và hạn chế, yếu kém của 8 khâu: đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; luân


chuyển cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; quản lý, bố trí và sử dụng cán bộ; bảo
vệ chính trị nội bộ; chính sách cán bộ; tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ.
Quy định số 45-QĐ/TW ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI cụ thể hóa khoản 2 điều 41 Điều lệ Đảng xác định: "quản lý cán bộ bao
gồm các nội dung chính sau đây:

1). Tuyển chọn, bố trí, phân cơng, điều động và luân chuyển cán bộ, phân
cấp quản lý cán bộ.
2). Đánh giá cán bộ.
3). Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
4). Bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ.
5) Khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
6). Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
7) Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ.
Mỗi văn bản có yêu cầu riêng, nên đề cập các khâu của công tác cán bộ theo
cách tiếp cận riêng. Trong một số văn bản khác của Đảng còn đề cập đến các
cơng việc, như: kiện tồn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu
về công tác cán bộ; tổ chức để nhân dân tham gia phát hiện, giám sát, bồi dưỡng
cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ và công tác cán bộ.
Chung quy lại, công tác cán bộ gồm các khâu chủ yếu sau:
- Đánh giá cán bộ;
- Quy hoạch cán bộ;
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
- Luân chuyển, điều động cán bộ;
- Bố trí, sử dụng cán bộ (bằng các hình thức bầu cử, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại,
giới thiệu ứng cử, phân công phụ trách, chỉ định, biệt phái, miễn nhiệm…);
- Quản lý cán bộ;
- Khen thưởng, kỷ luật cán bộ;
- Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
- Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán
bộ và công tác cán bộ.


Các khâu nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, làm tiền đề, điều kiện
cho nhau. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng phải tiến hành đầy đủ, đồng bộ tất cả
các khâu trong công tác cán bộ.

1.3. Về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác cán bộ của cả
hệ thống chính trị
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và
người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị" vừa là quan điểm, vừa là
nguyên tắc, cũng là nội dung chính trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
công tác cán bộ của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong những năm qua, Đảng ta đã chỉ đạo đổi mới và qua đó hồn thiện dần
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ của Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Hiện nay, nội dung phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong hệ thống chính trị cụ thể như sau:
Một là, Đảng đề ra và lãnh đạo bằng các quan điểm, chiến lược, đường lối,
chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ và
công tác cán bộ.
Trong các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, đương nhiên công tác cán
bộ thực hiện theo đúng các quan điểm, chiến lược, đường lối, chủ trương, chính
sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ và công tác cán bộ
do Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đề ra và
nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng.
Các cơ quan nhà nước tiến hành công tác cán bộ theo quy định của pháp luật
(Luật cán bộ, công chức; Luật tổ chức Quốc hội; Luật tổ chức Chính phủ;
Luật tổ chức Tịa án nhân dân; Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân; Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Luật Kiểm toán nhà nước và các
quy định khác của pháp luật có liên quan); Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội tiến hành cơng tác cán bộ theo các quy định của Nhà nước và điều lệ
của từng tổ chức. Đảng không can thiệp trực tiếp vào các công việc về công tác
cán bộ của các cơ quan, tổ chức này, nhưng Đảng phải lãnh đạo và các công tác


cán bộ của các cơ quan, tổ chức này phải tuân thủ quan điểm, chiến lược, đường

lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán
bộ và công tác cán bộ của Đảng. Đảng sử dụng chiến lược cán bộ; đường lối, chủ
trương, chính sách về công tác cán bộ; tiêu chuẩn cán bộ trong hệ thống chính trị;
các quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ và công tác cán bộ để lãnh đạo
công tác cán bộ của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Hai là, Đảng tiến hành công tác cán bộ trong các tổ chức đảng thông qua các
cấp ủy đảng và các cơ quan tham mưu của cấp ủy đảng.
Trong nội bộ đảng, công tác cán bộ được tiến hành thông qua hoạt động
của các cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan tham mưu của cấp ủy đảng ở từng
cấp theo phân cấp về công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Về tổng quát, có hai loại:
một là, cơng tác cán bộ đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực
tiếp quản lý; hai là, công tác cán bộ đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị phân
cấp cho các ban, bộ, ngành, địa phương. Đối với cán bộ thuộc diện được phân cấp
quản lý, cấp ủy từng cấp tổ chức thực hiện và quyết định các vấn đề về công tác
cán bộ, với sự tham mưu, giúp việc của các cơ quan tham mưu của cấp ủy đảng.
Bí thư cấp ủy, các thành viên cấp ủy phatý huy cao nhất trách nhiệm của mình
trong cơng tác cán bộ.
Ba là, Đảng lãnh đạo công tác cán bộ trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thơng qua và phát huy trách nhiệm của
đảng đoàn, ban cán sự đảng, cấp ủy đảng và đảng viên là người đứng đầu các cơ
quan, tổ chức này.
Trong các cơ quan nhà nước Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã
hội đều có tổ chức đảng (đảng đồn, ban cán sự đảng, đảng bộ, chi bộ) và đảng
viên. Chính các tổ chức đảng và các đảng viên này là người trực tiếp tiến hành
công tác cán bộ đối với cơ quan, tổ chức mình theo đúng đường lối, quy định của
Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn của cấp ủy cấp trên và chịu trách nhiệm
trước cấp ủy cấp trên về chất lượng công tác cán bộ ở cơ quan, đơn vị, địa
phương mình. Các đảng viên là cấp ủy viên, thành viên đảng đoàn, ban cán sự



đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người trực tiếp thực hiện các công việc
cụ thể trong công tác cán bộ và chịu trách nhiệm trước cấp ủy, tổ chức đảng về các
công việc được giao, theo chức trách, nhiệm vụ được phân công.
Bốn là, Đảng tiến hành công tác kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện các quyết
định, chủ trương của Đảng về công tác cán bộ.
Trong hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung, các cấp ủy đảng và ủy ban
kiểm tra các cấp đặc biệt chú trọng kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện các quyết định,
chủ trương của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ. Thông qua kiểm tra, giám sát,
cấp ủy biểu dương những cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện tốt; kịp thời phát hiện,
uốn nắn những lệch lạc, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn của các cơ quan
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và từng tổ chức chính trị - xã hội; tổng kết thực tiễn,
đề xuất với Trung ương đề ra các chủ trương, giải pháp để thực hiện tốt công tác
cán bộ.
1.4. Quan điểm và giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với công tác cán bộ hiện nay
1.4.1. Về quan điểm
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, công tác cán bộ và xây
dựng đội ngũ cán bộ luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ “then chốt của vấn
đề then chốt”; cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy,
Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp. Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ. Xây dựng, hồn thiện chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân
tài; có cơ chế bảo vệ những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám
làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt
trong hành động vì lợi ích chung, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm”.



Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần chỉ rõ: kiên quyết không để lọt
những người không xứng đáng, khơng bảo đảm đủ các tiêu chuẩn, điều kiện, có
biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức vào đội ngũ cán bộ đương chức và cán bộ quy hoạch cấp chiến lược. Xử
lý nghiêm, đồng bộ giữa kỷ luật Đảng với kỷ luật của Nhà nước đối với cán bộ vi
phạm, những cán bộ có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”
trong cơng tác cán bộ và cũng khơng để bị lợi ích nào cám dỗ, không để bị chi
phối bởi quan hệ cá nhân, thân quen không trong sáng. Kiên quyết chống tham
nhũng, tiêu cực trong cơng tác cán bộ, gây mất đồn kết nội bộ, kể cả khi đã
chuyển công tác.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Công tác cán bộ có nhiều
đổi mới, đội ngũ cán bộ ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường, có nhiều
đổi mới, đạt kết quả quan trọng; kỷ luật, kỷ cương trong Đảng được siết chặt,
pháp luật Nhà nước được đề cao”. Công tác cán bộ đã đạt được những kết quả
quan trọng; xây dựng được đội ngũ cán bộ cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ;
phần lớn đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, đạo đức trong sáng, được Nhân
dân tín nhiệm, đánh giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số hạn chế
như: việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức
thực hiện vẫn là khâu yếu. Đảng ta thẳng thắn đánh giá: “Một bộ phận cán bộ,
đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
vẫn cịn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi cịn hình thức.
Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự
lan tỏa sâu rộng”. Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả ở một số nơi thực hiện thiếu quyết liệt, chưa đạt được mục đích đề ra.
Tinh giản biên chế chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội

ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ
chức cơ sở đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp thời. Bên cạnh đó: “Chính sách


cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ tồn tâm, tồn ý với cơng việc; chưa
có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành
động vì lợi ích chung. Cơng tác kiểm tra ở một số nơi chưa thường xuyên, quyết
liệt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; cơng tác giám sát cịn hẹp về phạm vi, đối
tượng, kết quả chưa thực chất”. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết
trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, cịn thụ động, né tránh, trơng chờ
vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên.
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục có những
diễn biến phức tạp, khó lường. Hịa bình, hợp tác, hội nhập và phát triển vẫn là xu
thế chủ đạo; các mối đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống và biến đổi
khí hậu có nguy cơ ngày càng tăng. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và xu hướng quốc tế hóa nguồn nhân lực vừa là thời cơ,
vừa là thách thức đối với Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, phát
triển đất nước nhanh và bền vững đang chuyển sang giai đoạn mới, cao hơn, ngày
càng đi vào chiều sâu, khó khăn và phức tạp hơn. Tình hình đó tác động mạnh
mẽ, tồn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ; đặt ra yêu
cầu phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín.
Vì vậy, việc tiếp tục đổi mới công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ ở
các cấp phải bám sát mục tiêu, yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị đã đề ra. Đó là xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược
có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất
lượng, cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc; đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030
và tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước cơng nghiệp hiện đại; vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc.


1.4.2. Về giải pháp
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ và xây
dựng đội ngũ cán bộ.
Đây vừa là định hướng, vừa là giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò
lãnh đạo trực tiếp, tồn diện về cơng tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của
Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương gắn với tạo môi trường, cơ chế thúc đẩy đổi mới
mạnh mẽ, toàn diện, sáng tạo và bảo vệ cán bộ: “Đặc biệt là cần phải đổi mới,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn
với tăng cường kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Chính phủ,
chính quyền các địa phương và giữa các cơ quan, đơn vị”. Xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt
động thực tiễn và phong trào cách mạng của Nhân dân; đặt trong tổng thể của
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, mạnh, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân
tài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết
là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà nòng cốt là các cơ quan tham mưu của Đảng,
nhất là cơ quan tổ chức, cán bộ. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên; các cơ quan báo chí, truyền thơng trong công tác cán bộ và xây
dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt, mật thiết với
Nhân dân; phải thực sự dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ
cán bộ.
Hai là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng; quy hoạch, sử dụng đội ngũ cán bộ đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài.
Cần xây dựng, quy hoạch đội ngũ cán bộ; kết hợp nhiều hình thức và

phương pháp đào tạo, bồi dưỡng thông qua thực tiễn công tác, học tập, rèn
luyện... của đội ngũ cán bộ, đảng viên; kết hợp đào tạo, bồi dưỡng với đổi mới
chế độ, chính sách đối với cán bộ. Cơng tác quy hoạch, bố trí và sử dụng đúng
cán bộ là khâu hết sức quan trọng trong công tác cán bộ. Phải lấy hiệu quả công


việc làm thước đo cán bộ, tuy nhiên, đánh giá cán bộ phải trên quan điểm toàn
diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa việc quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng những cán bộ đủ tiêu chuẩn với việc
kiên quyết đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo, quản lý những cán bộ thiếu về phẩm
chất và năng lực ở những nơi trì trệ, yếu kém, mất đồn kết kéo dài. Siết chặt kỷ
luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến
mạnh mẽ trong thực thi cơng vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa cơng vụ, tính chun
nghiệp của cán bộ, cơng chức, viên chức. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực của cán bộ, chống mọi
biểu hiện chạy chức, chạy quyền và xử lý nghiêm những cán bộ suy thoái về
phẩm chất, đạo đức lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng, kỷ luật Nhà nước.
Đánh giá cán bộ là một nội dung quan trọng để lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ. Do đó, cơng tác đánh giá, xếp loại cán bộ sau đào
tạo phải được thực hiện đúng theo quy định, bảo đảm khách quan, dân chủ, phát
huy trách nhiệm của tập thể và cá nhân; nhất là trách nhiệm của người đứng đầu
cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý,
sử dụng cán bộ, nhận xét, đánh giá sát thực tế, cụ thể, công tâm, khách quan. Đây
là cơ sở để việc quy hoạch, luân chuyển, điều động và sử dụng cán bộ sau đào
tạo, bồi dưỡng đạt hiệu quả cao.
Căn cứ vào kết quả đánh giá để rút ra nhận xét, kết luận về mức độ hoàn
thành nhiệm vụ, khả năng, triển vọng phát triển của từng cán bộ để bổ nhiệm, đào
tạo, rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, đồng thời đưa những người khơng đủ
tiêu chuẩn, tha hóa, biến chất ra khỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội. Nghiêm khắc nhìn nhận những thiếu sót, khuyết điểm

trong cơng tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ ở từng cấp, từng cơ
quan, đơn vị, địa phương để rút ra những bài học kinh nghiệm cho thời gian tới.
Theo đó, cần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong cơng tác quản lý, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
thực thi cơng vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa cơng vụ, tính chun nghiệp của cán
bộ. Kiên quyết khơng để lọt những người không xứng đáng, không bảo đảm đủ


các tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống vào đội ngũ cán bộ đương chức và
cán bộ trong diện quy hoạch. Xử lý nghiêm, đồng bộ giữa kỷ luật Đảng với kỷ
luật của Nhà nước đối với cán bộ vi phạm, những cán bộ có động cơ sai trái, tư
tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đồn kết nội bộ, kể cả khi đã
chuyển công tác.
Ba là, làm tốt công tác luân chuyển cán bộ quản lý.
Cần tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Bộ Chính trị về đẩy mạnh công
tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những
năm tiếp theo; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung
ương lần thứ bảy khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Thực tiễn
quá trình thực hiện chủ trương này cho thấy, ở những nơi bố trí bí thư cấp ủy cấp
tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều
chuyển biến tích cực; lề lối, phong cách, tác phong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở
địa phương dần đi vào nền nếp, ổn định, khoa học hơn. Nhiều vấn đề khó, phức
tạp tồn tại qua nhiều nhiệm kỳ đã được xử lý, giải quyết; nội bộ đồn kết, tạo bầu
khơng khí, xung lực mới tại địa phương, cơ sở… điều này khẳng định, chủ trương
bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương là đúng đắn.
Bên cạnh đó, thực hiện việc phân cơng cán bộ trong quy hoạch các chức danh cấp
chiến lược đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở các địa bàn, lĩnh vực quan
trọng, vùng đồng bào dân tộc, vùng có nhiều khó khăn để đào tạo, thử thách, tích

lũy kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ
cán bộ, cơng chức, viên chức theo vị trí việc làm. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế
lựa chọn, đánh giá, sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Làm tốt công tác tư tưởng; giải quyết kịp thời chế độ, chính sách đối
với các trường hợp do ảnh hưởng trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh
giản biên chế.


CHƯƠNG 2. NHẬN THỨC VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG THỨC
LÃNH ĐẠO VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG BỘ TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ ST HIỆN NAY
2.1. Khái quát Đảng bộ Trường Chính trị ST
Đảng bộ Trường Chính trị ST tiền thân là Trường Đảng Mác - xít, là đơn vị
sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy ST, là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh.
Trường được thành lập năm 1947, tại ấp Rạch Già - thị trấn Cù Lao Dung, huyện
Cù Lao Dung, tỉnh ST ngày nay. Qua các thời kỳ, Đảng bộ Trường Chính trị ST
đã có nhiều đóng góp to lớn trong cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cho tỉnh nhà.
Căn cứ vào Quy định số 09-Qđi/TW, ngày 13/11/2018 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng Khóa XII quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường
chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Quy chế số 08-QC/TU ngày
27/04/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ST Khóa XIII và Đề án số 08ĐA/TU ngày 24/8/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ST về đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị tỉnh ST tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả theo Nghị quyết 18-NQ/TW, Nghị quyết 19-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa XII. Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quyết định số 09QĐi/TU ngày 06/03/2019 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường
Chính trị ST.
Theo đó, Đảng bộ Trường Chính trị ST là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh
ủy, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Có
chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống

chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh về lý luận
chính trị - hành chính; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội; kiến thức về một số
lĩnh vực khác; bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo ngạch công chức, viên


chức. Ngồi ra, Trường cịn có nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
đề xuất giải pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Thực hiện Quyết định số 999-QĐ/TU ngày 07/05/2018 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về việc phân bổ biên chế cho Trường Chính trị tỉnh là 54 biên chế. Tính
đến hết năm 2020, biên chế của Trường Chính trị tỉnh là 49 biên chế. Cơ cấu tổ
chức bộ máy Trường Chính trị gồm Ban Giám hiệu với 03 khoa, 02 phòng. Gồm
Khoa Lý luận cơ sở; Khoa Xây dựng Đảng; Khoa Nhà nước và Pháp luật; Phịng
Tổ chức, hành chính, thơng tin, tư liệu; Phòng Quản lý đào tạo. Tương đương với
các đơn vị khoa, phòng của Nhà trường là các chi bộ trực thuộc Đảng bộ Trường
Chính trị ST. Tồn Đảng bộ Trường có 50 đảng viên (01 đảng viên là nhân viên
hợp đồng) dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy gồm 07 đồng chí.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ được giao và yêu cầu của thực tiễn đòi
hỏi, Đảng bộ Trường Chính trị ST đã tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng
chức, viên chức của mình có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ
chun mơn, nghiệp vụ và trình độ chính trị ngang tầm với sự phát triển của xã
hội. Trong đó có tập trung xây dựng Đảng cùng với đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn
với thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà trường.
2.2. Thực trạng việc tổ chức thực hiện phương thức lãnh đạo về cơng tác
cán bộ tại Đảng bộ Trường Chính trị ST
2.2.1. Những kết quả đã đạt được và nguyên nhân kết quả
2.2.1.1. Những kết quả đạt được
- Đảng ủy, Giám hiệu Nhà trường thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
cán bộ, viên chức và người lao động Nhà trường trong thực hiện nhiệm vụ được

giao. Qua đó, nâng cao chất lượng hiệu quả trên các mặt công tác của Nhà
trường.
- Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình và nguồn lực sẵn có, Ban Giám
hiệu Trường Chính trị đã phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Sở Tài
chính thực hiện tốt cơng tác đề xuất tham mưu về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
hằng năm để Hội đồng Đào tạo, bồi dưỡng của tỉnh quyết định và UBND tỉnh


giao một số nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng để Nhà trường thực hiện với hiệu quả
cao nhất.
- Công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn ngày càng chú trọng, phát
triển về số lượng và chất lượng, giá trị của một số cơng trình, sản phẩm nghiên
cứu được ứng dụng, phục vụ tốt cho việc nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo,
quản lý và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của Nhà trường.
- Đội ngũ viên chức của Trường Chính trị khơng ngừng phát triển về số
lượng và chất lượng, tích cực học tập nâng cao trình độ về chun mơn, nghiệp
vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, tuyệt đối trung thành với
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
đưa hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường đi vào nền nếp.
- Cơ sở vật chất của Nhà trường từng bước được cải thiện và đầu tư xây
dựng mới, bảo đảm phục vụ cơ bản tốt cho các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và
các hoạt động khác của Nhà trường.
2.2.1.2. Nguyên nhân
- Thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; về sắp xếp, củng cố tổ
chức bộ máy và hoạt động của Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh thường xuyên quan tâm, chăm lo công tác
đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên; xây dựng cơ sở vật chất
và các hoạt động khác của Trường Chính trị; thường xuyên theo dõi, chỉ đạo, giúp
đỡ Trường Chính trị về mọi mặt.

- Sự hướng dẫn tích cực về chun mơn của Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh; sự quan tâm sâu sát của các cấp ủy, ban lãnh đạo các cơ quan, đơn vị,
của Ban Tổ chức tỉnh ủy, của Sở Nội vụ đã thực hiện tốt công tác quy hoạch cán
bộ, cơng chức, viên chức; đẩy mạnh việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho cán bộ đương chức và dự
nguồn tích cực tham gia đào tạo, bồi dưỡng.
- Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã thực hiện tốt sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Tỉnh ủy, quan tâm công tác chỉ đạo, điều hành đơn vị hiệu quả, sâu sát và toàn


diện ở các mặt công tác, kịp thời chấn chỉnh, tháo gỡ những khó khăn, thiếu sót,
phát huy nguồn lực vật chất và nhân tố con người trong đơn vị, từng bước đưa
hoạt động của Trường Chính trị đi vào nền nếp, ổn định, hiệu quả.
- Xây dựng được hệ thống các quy chế, quy định khá đồng bộ, đầy đủ, kịp
thời sửa đổi, bổ sung phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế đã góp phần điều
chỉnh mọi hoạt động của Nhà trường bảo đảm trật tự, nền nếp, chặt chẽ và khoa
học.
- Đội ngũ cán bộ, viên chức và người lao động Nhà trường đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau trong các mặt công tác, làm tốt công tác phối hợp trong thực thi nhiệm
vụ. Đa số cán bộ, viên chức và người lao động có ý thức học tập nâng cao trình
độ, chun mơn, nghiệp vụ, kỹ năng cơng tác, có ý thức nghề nghiệp cao, tự giác
trong thực hiện nhiệm vụ.
- Nhà trường đã vận dụng linh hoạt, giải quyết kịp thời các chế độ, chính
sách, góp phần tạo động lực, khích lệ đội ngũ cán bộ, viên chức nỗ lực, cố gắng
trong thực hiện nhiệm vụ. Các đơn vị phòng, khoa trực thuộc được phân công
nhiệm vụ rõ ràng, hợp lý, thực hiện tốt sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ trong
thực hiện nhiệm vụ.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Hạn chế
- Việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức

sau đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm đúng mức; chưa có sự phối hợp chặt
chẽ giữa Trường Chính trị với cấp ủy, cơ quan cử cán bộ đi học, cơ quan quản lý
cán bộ trong việc theo dõi, quản lý và bố trí cán bộ sau đào tạo.
- Việc xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên, nhìn chung cịn những hạn
chế nhất định, thể hiện ở những mặt cơ bản sau: về cơ cấu giảng viên chưa cân
đối giữa các chuyên ngành, dẫn đến phân công bài giảng trái chuyên ngành đào
tạo nên hiệu quả truyền đạt kiến thức bị ảnh hưởng chất lượng nhất định; một số
giảng viên thiếu, yếu kinh nghiệm thực tiễn trong công tác giảng dạy, chưa kịp
thời giúp học viên tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thực tế
phát sinh tại cơ sở.


- Cơ sở vật chất của Trường tuy đã được đầu tư, trung tu, xây dựng tuy nhiên
có nhiều hạng mục xuống cấp, hết hạng sử dụng. Mặt khác vẫn còn thiếu một số
hạng mục cần thiết phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường.
2.2.2.2. Nguyên nhân
- Việc thực hiện một số quy định về phân cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức chưa được nhất quán.
- Việc đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, quản lý học viên và nâng
cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn đôi lúc chưa
được quan tâm thực hiện tốt ở một số thời điểm; công tác bồi dưỡng, tập huấn
hằng năm cho đội ngũ giảng viên, viên chức hành chính ở các trường chính trị
chưa được thực hiện thường xuyên.
- Kinh phí, nguồn lực đầu tư cho cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu
khoa học, xây dựng cơ sở vật chất cần thiết, trang bị cho Nhà trường vẫn còn
nhiều hạn chế so với nhu cầu thực hiện nhiệm vụ hiện nay.
- Giảng viên Nhà trường phần lớn dành thời gian giảng dạy, chưa đầu tư và
dành thời gian hợp lý cho công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn; chưa
đào sâu, nghiên cứu các vấn đề mang tính thực tiễn tại địa phương.
- Cơng tác bổ sung vào hàng ngũ giảng viên của nhà trường thời gian qua

chậm. Vẫn cịn thiếu cơng tác tạo nguồn đưa đi đào tạo đội ngũ giảng viên kế cận.
2.3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao phương thức lãnh đạo
của Đảng bộ Trường Chính trị đối với cơng tác cán bộ thời gian tới
2.3.1. Mục tiêu
2.3.1.1. Mục tiêu chung
Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường; xây
dựng đội ngũ công chức, viên chức có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức,
lối sống trong sáng, giỏi về lý luận chính trị, thạo về chuyên môn, nghiệp vụ và
kiến thức thực tiễn; đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu
đào tạo cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh; đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn. Tăng cường đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất theo hướng hiện đại, số hóa đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo, bồi


dưỡng; xây dựng tập thể đoàn kết, thống nhất, vững mạnh xứng đáng là trung
tâm đào tạo cán bộ uy tín, chất lượng cao duy nhất của tỉnh. Phấn đấu đến năm
2026 đạt tiêu chí Trường Chính trị chuẩn mức 1, theo quy định của Trung
ương và đến năm 2030 vươn lên đạt cơ bản một số tiêu chí trường chính trị
chuẩn mức 2.
2.3.1.2. Mục tiêu cụ thể
* Giai đoạn 2021 - 2026:
Thực hiện theo đúng Quy định số 09-QĐi/TW ngày 13/11/2018 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng Quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Quy định số 13QĐi/TU, ngày 06/3/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy của trường Chính trị tỉnh ST.
- Đối với lãnh đạo nhà trường:
(1) - Có chun mơn từ thạc sĩ trở lên về khoa học chính trị, khoa học quản
lý hoặc khoa học xã hội và nhân văn, trong đó hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng
phụ trách chun mơn có trình độ tiến sĩ về khoa học chính trị, khoa học quản lý
hoặc khoa học xã hội và nhân văn.

(2) - 100% có trình độ cao cấp lý luận chính trị (hoặc tương đương).
(3) - 100% giữ ngạch giảng viên chính (viên chức hạng II) hoặc tương
đương trở lên.
(4) - 100% có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm hoặc chứng chỉ phương pháp
dạy học tích cực hoặc có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm.
(5) - 100% có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
(6) - Người đứng đầu được đánh giá hồn thành tốt nhiệm vụ trở lên trong
05 năm liên tục. Có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực quản lý và kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn.
- Đối với trưởng khoa, phó trưởng khoa:
(1) - 100% Có trình độ chun mơn từ thạc sĩ trở lên về khoa học chính trị,
khoa học quản lý và khoa học xã hội và nhân văn.


(2) - 100% có trình độ cao cấp lý luận chính trị (hoặc tương đương).
(3) - Giữ ngạch giảng viên chính (viên chức hạng II) hoặc tương đương trở lên.
(4) - Có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm hoặc chứng chỉ phương pháp dạy học
tích cực hoặc có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm.
(5) - Có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
(6) - Lãnh đạo khoa chỉ đạo, đề xuất thành cơng ít nhất 3 đề tài khoa học cấp
trường trở lên.
(7) - Người đứng đầu được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên trong 5
năm liên tục. Có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực quản lý và kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn.
- Đối với trưởng phịng, phịng trưởng phịng:
(1) - 100% Có trình độ chun mơn từ thạc sĩ trở lên về khoa học chính trị,
khoa học quản lý và khoa học xã hội và nhân văn.
(2) - 100% có trình độ cao cấp lý luận chính trị (hoặc tương đương).

(3) - Giữ ngạch giảng viên chính (viên chức hạng II) hoặc tương đương trở lên.
(4) - Người đứng đầu được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên trong 5
năm liên tục. Có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực quản lý và kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn.
(5) - Tham mưu, xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các đề án, kế
hoạch, chương trình...
- Đối với đội ngũ giảng viên:
(1) - Đội ngũ giảng viên (giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm nhiệm)
chiếm tỉ lệ ít nhất 75% tổng số cán bộ, viên chức của Trường.
(2) - Có từ 90% trở lên đội ngũ giảng viên cơ hữu, giảng viên kiêm nhiệm
có trình độ chun mơn từ thạc sĩ trở lên phù hợp với chuyên môn giảng dạy.
(3) - 100% giảng viên giảng dạy lý luận chính trị phải có trình độ trung cấp
lý luận chính trị (hoặc tương đương) trở lên. Giảng viên sau 7 năm giảng dạy tại
trường, có trình độ cao cấp lý luận chính trị (hoặc tương đương).


(4) - 100% giảng viên có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm hoặc chứng chỉ
phương pháp dạy học tích cực hoặc đã có bàng tốt nghiệp đại học sư phạm.
(5) - Ít nhất 80% giảng viên có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
(6) - Ít nhất 60% giảng viên giữ ngạch giảng viên chính (viên chức hạng II)
hoặc tương đương trở lên.
(7) - 100% giảng viên áp dụng hiệu quả phương pháp dạy học tích cực, tham
gia thao giảng cấp khoa, cấp trường và đạt yêu câu trở lên.
(8) - 100% giảng viên hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa
học, nghiên cứu thực tế theo quy định.
(9) - Xây dựng được đội ngũ giảng viên thỉnh giảng theo quy định. (Quyết
định danh sách giảng viên thỉnh giảng do Tỉnh ủy phê duyệt).
(10) - Xây dựng phương án chọn nguồn và đào tạo nguồn giảng viên để
bổ sung đội ngũ kế thừa kịp thời vào đội ngũ giảng viên cho những năm tiếp

theo.
* Tầm nhìn giai đoạn 2026 - 2030:
- Đối với lãnh đạo nhà trường:
(1) - 2/3 có trình độ chun mơn tiến sĩ về khoa học chính trị, khoa học quản
lý hoặc khoa học xã hội và nhân văn.
(2) - 1/3 Giữ ngạch giảng viên cao cấp hoặc tuơng đương (hoặc có trình độ
quản lý nhà nước theo tiêu chuân chức danh nghê nghiệp hạng I).
(3) - Lãnh đạo xây dựng được mơ hình hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nghiên
cứu khoa học, tổng kết thực tiễn năng động, có hiệu quả, góp phần quan trọng vào
nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng như tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận ở địa phương.
- Đối với trưởng khoa, phó trưởng khoa:
(1) - Ít nhất 1/2 lãnh đạo khoa có trình độ tiến sĩ về khoa học chính trị, khoa
học quản lý hoặc khoa học xã hội và nhân văn.
(2) - Có 1/5 giữ ngạch giảng viên cao cấp hoặc tương đương (hoặc có trình
độ quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn chức danh nghê nghiệp hạng I).


(3) - Trong 5 năm, lãnh đạo khoa chỉ đạo, đề xuất thành cơng ít nhất 1 đề tài
khoa học cấp tỉnh trở lên.
(4) - Chỉ đạo, điều hành khoa đảm nhận được các nhiệm vụ đào tạo, bồi
dưỡng có chất lượng và hiệu quả theo chức năng, nhiệm vụ được lãnh đạo trường
phân cơng, phân cấp.
(5) - Có những sáng kiến đề xuất xây dựng được mơ hình đào tạo, bồi
dưỡng, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn và các mặt công tác được lãnh
đạo trường hoặc cấp trên cơng nhận.
- Đối với trưởng phịng, phó trưởng phịng:
(1) - Trưởng phịng hoặc phó trưởng phịng phụ trách nghiên cứu khoa học
của phòng quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học có trình độ tiến sĩ về khoa học
chính trị, khoa học quản lý hoặc khoa học xã hội và nhân văn.

(2) - 100% giữ ngạch giảng viên chính hoặc tương đương (hoặc có trình độ
quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp từ hạng II) trở lên.
(3) - Có những sáng kiến đề xuất xây dựng được mơ hình quản lý, phục vụ
cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn và các mặt
công tác được lãnh đạo trường hoặc cấp trên công nhận.
- Đối với đội ngũ giảng viên:
(1) - Đội ngũ giảng viên (cơ hữu và kiêm nhiệm) có tỉ lệ ít nhất 80% tổng số
đội ngũ cán bộ, viên chức.
(2) - 100% giảng viên có trình độ chuyên môn từ thạc sĩ trở lên phù hợp với
chun mơn giảng dạy, trong đó mỗi khoa có ít nhất 1 tiến sĩ (không kể lãnh đạo
khoa).
(3) - Giảng viên chính chiếm từ 80% trở lên trong tổng số giảng viên của
trường.
2.3.2. Nhiệm vụ và giải pháp
2.3.2.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ viên
chức Nhà trường
Sắp xếp tổ chức bộ máy Nhà trường theo tinh thần Quy định 09-QĐi/TW
ngày 13/11/2018 của Ban Bí thư khóa XII, quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ


×