Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận môn tư tưởng HCM, Những đặc trưng cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.8 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV
----------------------------------------

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA MƠ HÌNH XÃ HỘI
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Họ tên học viên: Tr……………
Mã số học viên: MP
Lớp: Cao học XDĐ & CQNN, hệ ………………….

HÀ NỘI – 2022

MỤC LỤC


2

Trang
MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................

03


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................

03

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................
04
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..........................................................

04

5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận ............................................................. 04
6. Kết cấu của tiểu luận .............................................................................................
04
NỘI DUNG:
Chương 1: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ LỰA CHỌN CỦA NHÂN DÂN VIỆT
NAM
..................................................................................................................................... 05
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ......................................
05
1.2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta đã lựa chọn ........................................................................................................
06
Chương 2: NHỮNG ĐẶC TRƯNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ...
11
2.1. Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam .........................................................
11
2.2. Các đặc trưng cơ bản của mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ..............
12
KẾT LUẬN .............................................................................................................


18

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: .............................................................

19


3

Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, mỗi dân tộc đều
phải lựa chọn cho mình một con đường phát triển, đó là quyền tự quyết của mỗi dân
tộc. Tuy nhiên, việc lựa chọn đó phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất
nước, với quy luật và xu thế vận động, phát triển của nhân loại. Nếu bất chấp quy luật,
đi ngược lại xu thế này thì sẽ mang lại hậu quả khơn lường cho đất nước.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã quyết định ra nước ngồi tìm đường cứu
nước. Sau khi tìm hiểu các con đường cứu nước khác nhau và bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin, Người khẳng định: “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy
vào bản thân mình” chứ khơng phải nhờ vả vào nước khác. Và Người kết luận: Cách
mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường giải
phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Đây là sự lựa chọn đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc, phù hợp với xu thế của thời
lúc bấy giờ đang quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu từ thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Để có những nhận thức đầy đủ hơn về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội và mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tôi chọn chủ đề: “Những đặc
trưng cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm bài tiểu luận

của mình cho học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa hội.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của tiểu luận: Trên cơ sở khẳng định tính đúng đắn của việc lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tiểu luận làm rõ những đặc trưng cơ bản của
mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
2.2. Nhiệm vụ của tiểu luận: Tiểu luận làm rõ những đặc trưng cơn bản của mơ
hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.


4

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội và những đặc trưng cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của mơ
hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Tiểu luận dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội nói chung, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là phương
pháp lịch sử, logic, phân tích và tổng hợp để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận
5.1. Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận góp phần nâng cao nhận thức về sự kiên định,
kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịc Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân
dân ta đã lựa chọn.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn: Những nội dung đề cập trong tiểu luận giúp cho người
đọc có nhận thức đúng đắn hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những đặc
trưng cơ bản của mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận
gồm 2 chương, 4 tiết.


5

Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1:
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - sự lựa chọn duy nhất
đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, mỗi dân tộc đều
phải lựa chọn cho mình một con đường phát triển, đó là quyền tự quyết của mỗi dân
tộc. Tuy nhiên, việc lựa chọn đó phải phù hợp với quy luật và xu thế vận động, phát
triển của nhân loại. Nếu bất chấp quy luật, đi ngược lại xu thế này thì sẽ mang lại hậu
quả khơn lường cho đất nước, dân tộc. Mặt khác, sự lựa chọn đúng hoặc sai con đường
phát triển của dân tộc lại phụ thuộc vào tầm trí tuệ, bản lĩnh, ý chí, thế giới quan của
người, nhóm người hay giai cấp và điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Ở Việt Nam, vào giữa thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh bị thực dân
Pháp xâm lược và đặt dưới ách thống trị của chúng trước sự bạc nhược, đầu hàng của
triều đình nhà Nguyễn, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổi lên chống “cả triều lẫn
Tây" dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước nhằm giành lại độc lập cho dân tộc,
nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều bị thất bại do đường lối cứu nước chưa đúng đắn.
Trong bối cảnh bế tắc, khủng hoảng con đường cứu nước đó, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành vượt qua lối mòn và sai lầm trong đường lối cứu nước
của các nhà yêu nước đương thời, quyết định ra nước ngoài - trước tiên là nước Pháp,
quê hương của tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và cũng là nước đang thực hiện
chế độ thực dân đối với dân tộc Việt Nam để xem “nước Pháp và các nước khác. Sau
khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Quyết định

sang nước Pháp của Nguyễn Tất Thành là sự lựa chọn đúng đắn đầu tiên, thể hiện một
tư duy độc lập và tầm nhìn mới về hướng đi và con đường cứu nước cho dân tộc Việt
Nam.


6

Trải qua gần 10 năm đầy gian truân và thử thách ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã
đi khắp các châu lục khảo sát nhiều nước thuộc địa và các nước tư bản phát triển lúc
bấy giờ như Mỹ, Anh, Pháp ... Qua thực tế đó, Người nhận rõ: chủ nghĩa đế quốc ở
đâu cũng là kẻ áp bức, bóc lột, còn người lao động ở đâu cũng là người bị áp bức, bóc
lột. Hơn nữa, khi nghiên cứu những cuộc cách mạng xã hội lớn trên thế giới, tiêu biểu
là cách mạng giải phóng dân tộc năm 1776 của Mỹ, cách mạng nhân quyền và dân
quyền Pháp năm 1789 và cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
cách mạng của nước Mỹ và Pháp là cách mạng tư sản, cách mạng không đến nơi,
không giải phóng những người lao động; chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga mới
thành công đến nơi, mang lại tự do bình đẳng thật sự cho tất cả nhân dân lao động và
giúp đỡ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Từi đó, Người kết luận: Cách mạng Việt
Nam phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô
sản. Đây là quyết định đúng đắn thứ hai của Nguyễn Ái Quốc trong hành trình tìm
đường cứu nước.
Tháng 7-1920, khi Hồ Chí Minh tìm gặp và đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, Người đã nói: đây là
“cái cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc” - con đường giải
phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vơ sản. Con đường này được Hồ Chí Minh
khẳng định trong Cương lĩnh đầu tiên do Người soạn thảo thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930: “làm tư sản dân quyền cách mệnh
và thổ địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”. Đó là con đường giải phóng dân tộc
một cách triệt để, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là
quyết định đúng đắn thứ ba của Nguyễn Ái Quốc trong việc lựa chọn con đường cách

mạng Việt Nam, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và xu thế phát triển
của thời đại mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Kể từ đó, tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trở thành nội dung cốt lõi và xuyên suốt
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.


7

Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh khơng
chỉ thể hiện sự khác nhau về chất với con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong
kiến hay tư sản trước đó, mà cịn phản ánh tính triệt để cách mạng trong việc giải
phóng con người và vì hạnh phúc của con người. Đây là nét độc đáo thể hiện sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh vào điều kiện
Việt Nam.
Tóm lại, độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của xã hội Cộng sản
chủ nghĩa) - mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn chính
xác, đúng đắn của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ thập niên 1930,
đã góp phần khơi nguồn sức mạnh của tồn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước.
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn
Thắm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, hơn 90 năm qua, Đảng ta ln kiên trì và sáng tạo trong thực hiện tư tưởng của
Người trong từng giai đoạn cách mạng và giành nhiều thắng lợi vẽ vang.
Song, trong quá trình lãnh đạo đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã phạm sai lầm là kéo dài mơ hình chủ nghĩa xã hội thời chiến sang thời bình, rồi chủ
quan duy ý chí, nóng vội trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện đường lối quá
độ lên chủ nghĩa xã hội với mong muốn “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội”, dẫn đến những khuyết tật của mơ hình hình tập trung, bao cấp càng
bộc lộ gay gắt, gây ra khủng hoảng kinh tế - xã hội. Lênin đã có câu nói, đại ý là:

khuyết điểm của chúng ta hôm là sự kéo dài ưu điểm của ngày hôm qua. Mặt khác,
vào thập niên cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng
hoảng, đứng trước nguy cơ tan rã, đã ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình nước ta.
Lợi dụng tình hình trên, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, xét lại dưới mọi
màu sắc đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả cách mạng do Đảng ta
lãnh đạo, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phủ nhận


8

chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ cho
rằng “chủ nghĩa xã hội là con đường mù mờ, khơng có tương lai”, “đi vào ngõ cụt”,
“đã bị lịch sử phủ định”; rằng “lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ
quan của Đảng”; thậm chí họ cịn nói: “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn là
dân giàu, nước mạnh”, v.v. Từ đó, họ yêu cầu “Việt Nam ngày nay phải chuyển đổi thể
chế chính trị”, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa để chuyển sang chế độ dân chủ tư
sản, tốt hơn cả là đi con đường tư bản chủ nghĩa, dựa hẳn vào chủ nghĩa tư bản (vì đó
là con đường hợp quy luật phát triển tuần tự của xã hội loài người) ...
Thực tiễn đã chỉ rõ: lịch sử loài người đã không đi theo con đường thẳng tắp và
phong trào cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, thậm chí có những
thất bại hoặc thối trào. Nhưng quan trọng hơn là từ trong sai lầm, khuyết điểm đó, tìm
ra những nguyên nhân, rút ra được bài học kinh nghiệm để đưa phong trào cách mạng
tiến lên. Đó mới là một thái độ nghiêm túc, đúng mực.
Thực tế ở Việt Nam, sau hơn 35 năm đổi mới, độc lập dân tộc gắn liền chủ
nghĩa xã hội được Đảng ta, nhân dân ta kiên định thực hiện, bất chấp sự chống phá
điên cuồng của các thế lực thù địch, bất chấp sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu to lớn đó tiếp
tục khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là

đúng đắn, sáng tạo. Những thành quả ấy là tiền đề quan trọng, tạo nguồn động lực
mạnh mẽ để chúng ta tiếp tục đổi mới, đưa đất nước phát triển, hiện thực hóa mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã hằng mong ước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung và phát triển 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân
dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí


9

Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Sự khẳng định này dựa trên những
cơ sở sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội có mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện; là một
chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hịa bình và hữu ái giữa các cộng đồng,
khơng cịn áp bức, bóc lột, bất cơng, một xã hội thực sự vì con người. Rõ ràng, đây là
những khát vọng, mong ước tốt đẹp không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của cả nhân
loại.
Thứ hai, thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh, nhân dân Việt Nam đã trải qua
một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường
quyền, áp bức của các thế lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng
là điểm cốt yếu trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”. Ngay trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ” cũng
chỉ rõ: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải quyết căn cơ vấn đề độc lập cho dân
tộc và cuộc sống tự do, hạnh phúc cho số đơng nhân dân. Thực tiễn Việt Nam, từ khi
có Đảng Cộng sản lãnh đạo, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là những
thành tựu của 35 năm đổi mới đã chứng minh điều này”.

Thứ ba, hiện nay, chủ nghĩa tư bản, nhất là ở một số nước tư bản phát triển đạt
được những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và cơng nghệ; có sự điều chỉnh nhất
định về sở hữu, an sinh xã hội… làm cho diện mạo của chủ nghĩa tư bản khác nhiều so
với trước đây. Tuy nhiên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “chủ nghĩa tư bản
không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó”, do vậy các cuộc
khủng hoảng về nhiều mặt tiếp tục diễn ra. Chẳng hạn là khủng hoảng trong việc giải
quyết dịch bệnh COVID -19 hiện nay đang làm trầm trọng thêm các mâu thuẫn, xung
đột, bạo lực dân tộc, sắc tộc, tơn giáo, biểu tình, bãi cơng… khơng chỉ ở thế giới tư


10

bản, mà cịn đặt ra nhiều thách thức vơ cùng to lớn cho sự tồn tại và phát triển của
nhân loại”.
Mặt khác, thực tế cũng cho thấy: hiện trên thế giới có hàng 100 nước tư bản chủ
nghĩa (kể cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất G7) hay các nước phát triển theo
con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng không phải nước tư bản chủ nghĩa nào cũng giàu
có, mọi người đều giàu, đều được tự do, dân chủ, được đối xử cơng bằng, bình đẳng?
Ở những nước này, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: hệ thống quyền
lực “vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư
bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn
của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện
thơng tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối tồn xã hội”. “Trong đời sống chính trị,
một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át”.
Nhân dân Việt Nam đã từng sống cơ cực như thế nào duới ách thống trị của hơn
1.000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc; hơn 80 năm bị thực dân Pháp xâm lược
và 30 năm bị thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm chiếm, chẳng lẽ bây giờ chúng ta lại
đi vào một xã hội đầy tội lỗi và nhơ nhớp ấy? Không! Nhân dân Việt Nam cần một xã
hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ khơng phải chỉ cho một thiểu

số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của
chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Thứ tư, như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: thực tiễn 35 năm thực
hiện công cuộc đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, ngày càng được hiện thực hoá;
người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào
trước đây. Ðại hội XIII của Ðảng cũng khẳng định: “Đất nước chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đây là bằng chứng thuyết phục để
khẳng định con đường mà chúng ta đang đi là đúng đắn, hợp quy luật, phù hợp với


11

thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Những thành tựu mà chúng ta đạt
được càng khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ,
đảng viên và của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Tóm lại, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn cách mạng nước ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiện thực sinh động làm cho nhân dân ta
ngày càng vững tin hơn vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào sự
lãnh đạo của Đảng và con đường mà cả dân tộc ta đang vững bước tiến về phía trước.
Bất luận trong hồn cảnh nào, độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là nhu cầu
sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Chương 2:
NHỮNG ĐẶC TRƯNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Lênin đã
khẳng định: đi lên chủ nghĩa xã hội là “điều không tránh khỏi” đối với tất cả các quốc
gia. Tuy nhiên, đi lên chủ nghĩa xã hội như thế nào, với mơ hình nào thì mỗi quốc gia
cũng “hồn tồn khơng giống nhau”. Do đó, phải nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc
thù của chủ nghĩa xã hội để tìm ra mơ hình, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa

đúng với quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
2.1. Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Vào những năm hai mươi của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chung
của chủ nghĩa xã hội là đảm bảo cho mọi người sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết,
ấm no, việc làm cho mọi người và niềm vui, hồ bình, hạnh phúc cho mọi người.
Vào những năm năm mươi, sáu mươi của thế kỷ XX, khi miền Bắc trực tiếp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh Minh xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
thoả mãn các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người, trước hết nhằm làm cho
nhân dân lao động thốt nạn bần cùng, mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và
sống hạnh phúc. Người còn chỉ rõ: Chủ nghĩa xã hội là làm cho nhân dân đủ ăn, đủ


12

mặc, ai cũng được đi học, ốm đau có thuốc, những phong tục tập qn khơng tốt dần
được xóa bỏ ... Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát
vọng, mong muốn cháy bỏng mà Người hy sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn
tới, đó là: xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu
mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Đảng ta kế
thừa, phát triển và ngày càng hoàn thiện dần cùng với sự phát triển tư duy lý luận về
chủ nghĩa xã hội. Điều này được thể hiện rõ qua các lần Đại hội của Đảng:
Đại hội VI khi xác định hệ mục tiêu của đổi mới, Đảng ta xác định ba mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Tuy chưa
thật đầy đủ nhưng ba mục tiêu này rất quan trọng, có tính chi phối: dân giàu để nước
mạnh; làm cho dân giàu, nước mạnh thì sẽ có một xã hội văn minh. Có thể nói, những
mục tiêu này của Đại hội VI có giá trị định hướng rất quan trọng đối với phát triển đất
nước, hướng mục đích của đổi mới vào phục vụ quyền lợi của nhân dân.
Đến Đại hội VII, qua thực tiễn những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường
với cạnh tranh và phân hóa giàu - nghèo, Đảng ta đã bổ sung một mục tiêu quan trọng

khác, đó là “cơng bằng”, thành: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, văn
minh”. Cơng bằng là thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta hướng tới.
Đó cũng chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Đến Đại hội IX, sau 15 năm đổi mới, Đảng ta bổ sung một mục tiêu đặc biệt
quan trọng là “dân chủ”: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Đây là một phát triển quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng về chủ nghĩa
xã hội. Dân chủ là mục tiêu, động lực của đổi mới, của phát triển, của chủ nghĩa xã
hội.
Đại hội X, khi tổng kết 20 năm đổi mới, Đảng ta đã xác định hệ mục tiêu của
đổi mới và cũng là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam: “Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh…”.


13

Đại hội XI, tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và thông qua Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định hệ mục tiêu đổi mới
của Đại hội X, nhưng có điều chỉnh về trật tự các mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: phấn đấu vì một nước Việt
Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", “phấn đấu đến năm 2045,
nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thu nhập cao”.
2.2. Các đặc trưng cơ bản của mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ
thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng, mơ hình chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng. Cương

lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình chủ nghĩa xã
hội Việt Nam tồn diện hơn, gồm tám đặc trưng với những nội dung cơ bản sau:
2.2.1. Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây
dựng là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất,
ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó
thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với
các chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có thể có đời sống vật chất và tiện nghi rất
cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư
bản, ở đó khơng thể có cơng bằng và dân chủ; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh
có được là bằng bóc lột. Xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm chủ xã
hội.


14

Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là q trình vơ cùng khó khăn,
gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam - một nước cịn nghèo,
đang phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp”, v.v.. Nhưng để trở thành xã hội xã hội
chủ nghĩa với những đặc trưng nêu trên, khơng có cách nào khác là toàn Đảng, toàn
dân ta phải nỗ lực sáng tạo, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội. Và, Việt Nam đang
từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện thực.
2.2.2. Xã hội “do nhân dân làm chủ”.
“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là
xã hội của loài người, do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ mệnh của mình.
Lịch sử đấu tranh cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử
đấu tranh giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhưng, chỉ đến chủ nghĩa
xã hội, nhân dân mới thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là
đặc trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ

nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh”. Nói dân giàu, nước mạnh chính là thể hiện vai trị chủ thể
của nhân dân đối với nhà nước - dân là chủ. “Dân chủ” trong đặc trưng nêu trên chính
là nền dân chủ của xã hội. Và chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện xã hội
“do nhân dân làm chủ”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, cơng chức là “công bộc” của nhân dân, tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ.
2.2.3. “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên
quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển cao. Bởi vì kinh tế là lực lượng


15

vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững vàng và
phát triển của xã hội. Đến lượt mình, nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại. Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ thực hiện được bởi
“một nền đại công nghiệp”. Nền đại công nghiệp phát triển trên cơ sở khoa học - công
nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất
hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát
triển lên trình độ cao của phương thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Để có nền kinh tế nêu trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền

kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ
nghĩa.
2.2.4. “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho phát
triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã hội. Văn hóa
là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là sức mạnh
con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền văn hóa dân tộc phải kết
tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại, đồng thời phải chuyển
hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm bản sắc riêng của mình. Nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì vậy, chính là mục tiêu của xã hội xã hội
chủ nghĩa, đồng thời là động lực và sức mạnh thúc đẩy xã hội đó phát triển.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần kế thừa và phát huy
những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự
là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần
của xã hội, là động lực và sức mạnh cho xã hội phát triển. Chính vì vậy, Đảng ta chủ


16

trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất
trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa Việt Nam.
2.2.5. “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện”.
Suy đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là vì con người. Đó là con người
có trí tuệ và tình cảm, có khát vọng và khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết
của nhân loại. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con người đấu tranh xóa bỏ
mọi lực cản của thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội cao đẹp nhất - xã hội đó
chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa là bản chất và trình
độ phát triển của con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no cho con

người như là địi hỏi tiên quyết. Nhưng bản tính con người là khơng bao giờ thỏa mãn
với những gì đã đạt được. Con người phải được tự do - tự do không chỉ bó hẹp trong
nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nơ dịch, kìm hãm về mặt xã hội. Điều quan
trọng hơn là nó được thăng hoa tiềm năng trí tuệ, tình cảm và năng lực vốn có để thực
hiện những khát vọng cao đẹp của mình. Sự phát triển toàn diện con người là ước mơ,
khát vọng của con người tự do. Xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người... như Mác
đã nói. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó chỉ có thể là
xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2.2.6. “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
“Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển
và nhân văn cao của xã hội. Sự bình đẳng đó khơng chỉ cho cá nhân cơng dân, mà còn
cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia. Mặt khác, “đoàn kết” là sức
mạnh - đó là một chân lý. Vì vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã kêu gọi:
Những người lao động ở tất cả các nước trên thế giới đồn kết lại; cịn trong cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái qt một chân lý: Đồn kết, đồn kết, đại đồn
kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành công. Đồng thời đây cũng là một giá trị đặc


17

trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đồn kết” chính là nền tảng của sự
“tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Tôn trọng và giúp nhau khơng chỉ là tình
thương, lịng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết
yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan
trọng của xã hội phát triển. Đồn kết tồn dân, tơn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân
tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh thần đó, phương
châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.2.7. “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,

vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp
luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất
nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy, là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân với nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai
cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức và quản lý xã
hội bằng hệ thống pháp luật đó và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo ngun tắc tập trung dân chủ, có sự
phân cơng, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân khơng thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - là đảng thực
hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
2.2.8. “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc
tế. Vì vậy, Đảng ta chỉ rõ: đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất hịa hảo, thiện chí và
tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành quả phát triển của mỗi


18

bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn q trình phát triển của mỗi nước. Điều có ý
nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”, “phát triển” chính là bản chất, là
khát vọng hịa đồng theo bản chất trí tuệ và tình cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại
của con người, của lồi người; điều thể hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Với những đặc trưng nói trên, chứng tỏ chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây

dựng sẽ đáp ứng mục tiêu xây dựng một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân
văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của tồn xã hội hài hịa với lợi ích chính đáng của
con người.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trên là
thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận
về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng là thành
quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”, cái chung và cái riêng
để tạo nên một mơ hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Thực tiễn 35 năm đổi mới ở
Việt Nam đã chứng tỏ rất rõ điều này.

KẾT LUẬN


19

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, khó khăn, gian khổ
bởi điểm xuất phát của nước ta rất thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, luôn bị các
thế lực thù địch chống phá, thực hiện âm mưu và hoạt động diễn biến hịa bình. Ðặc
biệt, sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp mới mẻ,
chưa có tiền lệ trong lịch sử, lại đang diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu
vực có những diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, khó đốn định,
với nhiều bất ổn, thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn đan xen; chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc
tế gia tăng. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng,
phức tạp, quyết liệt hơn. Ở trong nước, nền kinh tế nước ta đang phát triển chậm lại,
đời sống xã hội có những vấn đề nổi cộm. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra cịn tồn
tại, có mặt cịn gay gắt hơn. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ cũng như
những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. An ninh biển đảo đang đứng trước

những thách thức to lớn; các thể lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chống phá cách
mạng nước ta.
Trong bối cảnh nói trên, địi hỏi Ðảng ta khơng chỉ kiên định con đường đã chọn
mà cịn cần có bản lĩnh chính trị vững vàng và phải có trình độ trí tuệ cao, có tư duy
đổi mới, có tầm nhìn chiến lược, biết nhìn xa trơng rộng, đề ra những chủ trương và
quyết sách phù hợp đưa đưa nước ta tiếp tục phát triển lên một giai đoạn mới trên con
đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đến năm 2045 nước ta trở thành nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có thu nhập cao.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:


20

1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (Cương lĩnh 1991 và
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.3, t. 11, t.12, t.15, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, 2011.
4. Văn kiện Đại hội VII của Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
5. Văn Kiện Đại hội X của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2006.
6. Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011.
7. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, t.1, t.2
8. Bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về "Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam".
9. Bài giảng của giảng viên học phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
chủ nghĩa xã hội”, lớp Cao học khơng chun K27, ngành Xây dựng Đảng và Chính
quyền nhà nước tỉnh Sóc Trăng.




×