Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận nguyên tắc tự phê bình và phê bình của đảng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.27 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................2
2. Mục đích của việc nghiên cứu...........................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu............................................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

………………………….2

6. Kết cấu của tiểu luận ……………………………………………….3
NỘI DUNG …………………………………………………………………..4
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH …….4

1.1. Khái niệm………………………………………………………….4
1.2. Vai trị của tự phê bình và phê bình của Đảng trong giai đoạn hiện
nay…………………………………………………………………………….4
1.3. Những u cầu có tính nguyên tắc đối với tự phê bình và phê bình
của Đảng trong giai đoạn hiện nay …………………………………………..5
2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH
VÀ PHÊ BÌNH CỦA ĐẢNG THỜI GIAN QUA …………………….......6
2.1 Những ưu điểm …………………………………………………….6
2.2. Hạn chế và nguyên nhân…………………………………………. 8
2.2. Một số đề nghị giải pháp thực hiện tới ..........................................11
KẾT LUẬN ...............................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THẢO KHẢO .....................................................16


1
MỞ ĐẦU


Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là phương
pháp để giáo dục, rèn luyện đảng viên, là vũ khí sắc bén để chống tả khuynh
và hữu khuynh; uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức; ngăn chặn suy thối
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; khắc phục tư tưởng ngại khó, ngại khổ;
tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí; nói thẳng, nói thật; nhận rõ những
khuyết điểm, yếu kém, sai phạm… nhằm mục đích để xây dựng, củng cố sự
đồn kết thống nhất trong Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch
vững mạnh, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tăng
cường đoàn kết, thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, lý tưởng đến hành
động cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là để học cái hay,
tránh cái dở, chứ khơng phải để nói xấu nhau. Phê bình và tự phê bình là để trị
bệnh cứu người, dân chủ trong Đảng tốt hơn, kỷ luật cao hơn, cán bộ, đảng
viên gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm hơn, làm cho mỗi tổ chức mạnh
hơn, lãnh đạo tốt hơn. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên thực hiện tự
phê bình và phê bình “như rửa mặt hàng ngày”, mỗi tổ chức đảng coi tự phê
bình và phê bình là cơng việc thường xun. Nêu cao tính tự giác, tính chiến
đấu, tính nêu gương, chân thành, thẳng thắn, khách quan, trung thực, làm rõ
những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, đề xuất những biện pháp phát huy ưu
điểm, khắc phục khuyết điểm...được như thế thì trong đảng sẽ khơng có bệnh
Tự phê bình và phê bình là thuộc tính vốn có của một chính đảng cách
mạng chân chính. Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động và phát triển trong điều
kiện xã hội cịn có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì những mâu thuẫn nảy
sinh trong Đảng là khó tránh khỏi. Việc đấu tranh để giải quyết những vấn đề
nảy sinh trong Đảng làm cho Đảng không ngừng lớn mạnh là cần thiết và tất
yếu. Nhưng đấu tranh giải quyết những vấn đề nảy sinh đó tuyệt đối khơng
được dùng biện pháp bạo lực để thanh trừng, đấu đá, loại bỏ lẫn nhau, mà
phải đấu tranh bằng tự phê bình và phê bình để giúp nhau cùng tiến bộ. Tự
phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm túc, kịp thời trên tinh thần



2
thành thật với mình và chân thành, mạnh dạn với đồng chí chắc chắn sẽ góp
phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy, tự phê bình và phê bình trong Đảng hiện nay vẫn còn
những hạn chế, khuyết điểm nhất định. Do vậy, bản thân lựa chọn chủ đề
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Đảng trong giai đoạn hiện nay
làm bài tiểu luận
2. Mục đích của việc nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về phương thức lãnh đạo của
Đảng, thực hiện các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của đảng trong giai đoạn
hiện nay. Để nêu cao tính tự giác, tính chiến đấu, tính nêu gương, chân thành,
thẳng thắn, khách quan, trung thực, làm rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên
nhân, đề xuất những biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm của
mình
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, những thực trạng hiện
tại cũng như tầm quan trọng về thực hiện các nguyên tắc tổ chức, hoạt động
của đảng trong giai đoạn hiện nay tại địa phương công tác.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện mới.
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp lơgíc và lịch sử. Ngồi ra, cịn sử dụng
các phương pháp khác như: thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp.
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của đề tài
Nghiên cứu nội dung Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Đảng
trong hiện nay là cơ sở quan trọng để bổ sung hoàn thiện toàn diện hơn về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đấu tranh phịng, chống tham

nhũng, và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh tồn diện, nhằm bổ sung


3
kiến thức để có thể vận dụng đúng đắn trong thực tiễn công tác đối với cơ
quan và bản thân.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài có 2 phần, cụ thể sau:


4
PHẦN NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH

1.1. Khái niệm
Trong bài báo "Tự phê bình, phê bình, sửa chữa", Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về tự phê bình và phê bình. Người viết:
Tự phê bình là cá nhân (cơ quan hoặc đoàn thể) thật thà nhận khuyết điểm của
mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa chữa, mà cũng để người khác
biết mà tránh những khuyết điểm mình đã phạm.
Phê bình là thấy ai (cá nhân, cơ quan, đồn thể) có khuyết điểm thì
thành khẩn nói cho họ biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ.
Mục đích của tự phê bình và phê bình đều nhằm giúp nhau sửa chữa
khuyết điểm, phát triển ưu điểm, cùng nhau tiến bộ
1.2. Vai trò của tự phê bình và phê bình của Đảng trong giai đoạn
hiện nay.
- Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng
VI.Lê-nin chỉ rõ: "Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới
nay, đều bị tiêu vong vì tự cao, tự đại, vì khơng biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức

mạnh của mình, và vì sợ sệt khơng dám nói lên những nhược điểm của mình.
Cịn chúng ta, chúng ta sẽ khơng bị tiêu vọng, vì chúng ta khơng sợ nói lên
những nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học
được cách khắc phục..."
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Về luật phát triển, Đảng Lao động
Việt Nam dùng lối tự phê bình và phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục
quần chúng"
- Tự phê bình và phê bình là một nguyên tắc xây dựng Đảng và là biện
pháp căn bản xây dựng, củng cố và phát triển sự đồn kết thống nhất của
Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng".


5
Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội XI: "Đảng là một tổ chức chặt chẽ,
thống nhất ý chí và hành độg, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách..., đồng thời thực hiện các
nguyên tắc: tự phê bình và phê bình..."
- Tự phê bình và phê bình là phương pháp giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên
Tự phê bình và phê bình đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xem là “thang
thuốc hay nhất” để sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm.
1.3. Những yêu cầu có tính ngun tắc đối với tự phê bình và phê
bình của Đảng
a) Tính đảng
Tính đảng: tự phê bình và phê bình trong Đảng phải vì lợi ích, vì cơng
việc của Đảng, trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng,
khơng được bóp méo hoặc lợi dụng tự phê bình và phê bình để phục vụ ý đồ

cá nhân. Tự phê bình và phê bình phải trong phạm vi tổ chức đảng.
Tính giáo dục: tự phê bình và phê bình phải vì mục đích “cốt để giúp
nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn,
đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ” chứ không phải cốt để tìm
khuyết điểm để kỷ luật. Những hiện tượng phê bình chỉ thấy khuyết điểm,
không thấy ưu điểm của người khác, cốt nhằm đả kích cá nhân cho hả giận,
kèn cựa, bới móc nhau là trái với u cầu của tính giáo dục trong trong thực
hiện phê bình.
Tính trung thực, chân thành, cơng khai: trong tự phê bình và phê bình
phải trung thực, khách quan, không giấu diếm khuyết điểm, cũng khơng được
lợi dụng phê bình để cơng kích, quy kết nhau; phê bình vì lịng u- ghét. Tự
phê bình và phê bình phải cơng khai, khơng được "nói sau lưng".
Tính thiết thực, hiệu quả, kịp thời: tự phê bình và phê bình phải nhằm
vào hai mặt tư tưởng và cơng tác của người cán bộ, đảng viên, nhằm thúc đẩy
công việc, hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau tiến bộ.
Tránh tự phê bình và phê bình chung chung, phê bình những việc, những vấn


6
đề vụn vặt thuộc về sinh hoạt cá nhân. Cần chỉ rõ việc ấy ai làm, làm đúng
hay sai, kết quả tốt hay xấu? Ai chịu trách nhiệm?
2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH
VÀ PHÊ BÌNH CỦA ĐẢNG TRONG THỜI GIAN QUA
Trong hoạt động và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng đã chứng
minh, chỉ khi nào Đảng dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, nghiêm
túc tự phê bình và phê bình thì khi đó Đảng mới có thể nhận thức được đúng
quy luật khách quan và có quyết sách đúng đắn để tạo chuyển biến, đưa cách
mạng tiến lên. Tất nhiên, đây là cơng việc khó, địi hỏi phải có dũng khí, có
phương pháp, phải “thấu tình đạt lý” mới mang đến hiệu quả thiết thực. Tại
một hội nghị, nói về vấn đề này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những

phân tích sâu sắc: “Thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng là khâu
mấu chốt nhất nhưng cũng có nhiều khó khăn nhất. Bởi vì, nó địi hỏi mỗi
người phải tự phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân
mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không thật tự giác, chân
thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của
mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của
người khác nhiều hơn mình. Nếu khơng hết lịng vì sự nghiệp chung, khơng
có dũng khí, khơng thật sự cầu thị thì khơng dám nói hết khuyết điểm của
mình và khơng dám phê bình người khác, nhất là phê bình cấp trên. Thái độ
nể nang, hữu khuynh “im lặng là vàng”, hoặc thái độ cực đoan, muốn lợi dụng
phê bình để đả kích người khác, gây rối nội bộ, đều là không đúng. Tự phê
bình và phê bình địi hỏi mỗi người phải có tinh thần tự giác rất cao, có tình
thương u đồng chí thật sự và phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân
tình”.
Thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng. Qua đó,
cơng tác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình của đảng viên trong Đảng bộ
ngày càng đi vào nề nếp và đã đạt được một số kết quả quan trọng.
2.1 Những ưu điểm


7
Cán bộ lãnh đạo, cấp uỷ trong các chi bộ gương mẫu trong tự phê bình
và phê bình, quan tâm tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên phát huy dân chủ,
mạnh dạn đóng góp ý kiến, phê bình. Đảng viên ý thức được quyền và nghĩa
vụ của đảng viên trong thực hiện tự phê bình và phê bình, phát huy tinh thần
trách nhiệm, trong đấu tranh xây dựng nội bộ.
Kết quả kiểm điểm, tự phê bình và phê bình đã góp phần quan trọng
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng; qua kiểm điểm, tự phê
bình và phê bình có tác dụng tốt, giúp ngăn ngừa vi phạm,…Thời gian qua,
cơng tác tự phê bình và phê bình đảng viên được Đảng quan tâm lãnh đạo

thực hiện thường xuyên theo định kỳ; nội dung, quy trình, phương pháp tiến
hành được hướng dẫn đầy đủ, cụ thể; ban thường vụ các cấp ủy chú trọng chỉ
đạo, tổ chức thực hiện có nề nếp, đảm bảo dân chủ; có kế hoạch tự phê bình
và phê bình luân phiên từng đảng viên tại các kỳ sinh hoạt lệ chi bộ và tự phê
bình cuối năm gắn với đánh giá xếp loại đảng viên. Qua đó, cơng tác kiểm
điểm, tự phê bình và phê bình được triển khai thực hiện khá nghiêm túc, phát
huy tác dụng; sau kiểm điểm, quan tâm sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm.
Thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình đảng viên được các chi
bộ quan tâm thực hiện, trong đó nguyên tắc tập trung dân chủ được coi trọng,
phát huy tính tự giác của người tự phê bình, tính chiến đấu của chi bộ trong
thực hiện phê bình, làm rõ đúng sai từng vấn đề, chỉ rõ những điểm tốt, mặt
chưa tốt của từng đảng viên với tinh thần chân tình, cởi mở, thẳng thắn, tăng
cường đồn kết thống nhất, khơng lợi dụng phê bình để nói xấu, bơi nhọ đồng
chí mình. Việc tổ chức tự phê bình và phê bình đã góp phần quan trọng vào
việc giáo dục, ngăn ngừa những sai phạm, tiêu cực về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống của cán bộ, đảng viên, giúp tổ chức đảng và đảng viên làm tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nội dung tự phê bình và phê bình phần lớn được chuẩn bị chu đáo, có
kết hợp đánh giá với nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh, đánh giá những mặt ưu điểm, khuyết điểm và nguyên


8
nhân. Tập thể chi bộ có nhiều ý kiến góp ý cho đảng viên trên tinh thần xây
dựng, phân tích những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân để đảng viên nhận
thấy hạn chế, khuyết điểm của mình và đề ra giải pháp khắc phục. Tinh thần,
thái độ, trách nhiệm của đảng viên trong tự phê bình và phê bình cơ bản thực
hiện tốt, tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng.
Cơng tác tự phê bình và phê bình đã góp phần hạn chế, ngăn ngừa sai

phạm, những tiêu cực về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán
bộ, đảng viên; phần lớn cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt chức trách, nhiệm
vụ được giao, góp phần xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Một số cấp uỷ chưa quan tâm quán triệt, chỉ đạo thực hiện tốt mục đích,
yêu cầu ngun tắc tự phê bình và phê bình; tính tự giác, trung thực, dũng cảm
của cán bộ, đảng viên cịn hạn chế; cơng tác kiểm tra, giám sát, giúp đỡ đảng
viên có khuyết điểm, hạn chế chưa được cấp uỷ có thẩm quyền quan tâm đúng
mức.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu trong học tập quán
triệt nghị quyết và trong công tác, rèn luyện, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý;
tình trạng nói khơng đi đơi với làm, mất đồn kết, mất dân chủ, ngại va chạm
còn diễn ra ở một số cơ quan, đơn vị; tính chiến đấu của tổ chức đảng và đảng
viên ở một số nơi còn yếu; việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh ở một số nơi chưa đạt yêu cầu.
Ý thức, thái độ và tính chiến đấu của một số đảng viên, cơ quan, đơn vị
chưa tạo điều kiện cho đảng viên mạnh dạn góp ý hoặc ý kiến góp ý khơng
được tiếp thu (một số nơi khơng có ý kiến góp ý) chưa cao, chưa phát huy
được tinh thần đấu tranh cách mạng của người đảng viên nên khi thực hiện tự
phê bình và phê bình cịn có biểu hiện nể nang, né tránh,“dĩ hịa vi q”. Đảng
viên khơng dám góp ý cho thủ trưởng, an phận, giữ mình, nếu có phê bình thì
cũng chỉ là sự “phê bình khen ngợi”…
Việc chuẩn bị nội dung bản kiểm điểm cá nhân của nhiều đảng viên
chưa chu đáo, chủ yếu nêu thành tích, ưu điểm, chưa làm rõ trách nhiệm của


9
cá nhân đối với những hạn chế, yếu kém ở địa phương, cơ quan, đơn vị, cũng
như những lĩnh vực được phân công đảm nhiệm.
Chưa thực hiện nghiệm nguyên tắc tự phê bình và phê bình có nơi cịn

hình thức, làm lướt. Mức độ khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm của
đảng viên sau tự phê bình và phê bình cịn chung chung, thiếu cụ thể, chưa
kịp thời, chưa mang lại hiệu quả thiết thực, vẫn còn hạn chế “nói khơng đi đơi
với làm”.
Cơng tác đánh giá chất lượng cơ sở đảng và đảng viên ở một số nơi
chưa đúng thực chất. Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình để đánh giá
xếp loại chất lượng chưa phản ánh đúng mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
từng đảng viên, có biểu hiện tình cảm, nể nang, chạy theo thành tích.
Tính tự giác, trung thực, thẳng thắn trong cơng tác tự phê bình và phê
bình chưa cao. Tác dụng răn đe, giáo dục, sửa sai của tự phê bình, phê bình
cịn hạn chế.
Tổ chức đảng, đảng viên có thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm khơng tự
giác tự phê bình, tìm mọi cách để trốn tránh, bao che, giấu giếm khuyết điểm,
đổ lỗi cho khách quan, cho tổ chức, thậm chí cịn viện cớ là sợ mất thành tích,
mất cán bộ.
Cán bộ lãnh đạo thấy nhân viên của mình có khuyết điểm vi phạm
nhưng sợ mất thành tích của đơn vị, sợ bị mất phiếu khi bầu cử, đề bạt, bình
bầu thi đua, khen thưởng nên chỉ nhắc nhở qua loa, không xử lý nghiêm túc.
Cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, trong cơ quan, đơn vị thấy thủ
trưởng hoặc đồng chí mình có thiếu sót, khuyết điểm nhưng nhận thức không
đúng, sợ bị trả thù, trù dập, ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị và quyền lợi
của bản thân, nên cũng khơng dám đấu tranh, phê bình cấp trên và đồng chí
mình; hoặc cũng đã có khuyết điểm, vi phạm, sợ nói ra sẽ bị “đập lại”, đành
“im lặng” để phòng thân.
- Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:
Nội dung gợi ý kiểm điểm, tự phê bình và phê bình của cấp trên đối với
cấp dưới có trường hợp chưa sát với tình hình thực tiễn; công tác kiểm tra,


10

giám sát việc khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm
điểm, chưa được quan tâm thực hiện.
Tính chiến đấu của một số tổ chức đảng, đảng viên cịn yếu; cịn định
kiến và tư tưởng cả nể, khơng dám phê bình người khác. Tinh thần đấu tranh,
xây dựng của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa thật sự mạnh dạn, thẳng thắn,
nên chưa phát huy tốt tác dụng của cơng tác tự phê bình và phê bình.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý có nơi thiếu gương mẫu, còn sợ
khuyết điểm, chưa phát huy tốt dân chủ trong thực hiện nguyên tắc tự phê
bình và phê bình hoặc thấy cấp dưới có khuyết điểm, vi phạm, nhưng sợ mất
thành tích của địa phương, cơ quan, đơn vị nên khơng mạnh dạn phê bình, xử
lý vi phạm, thậm chí bao che, giấu giếm cho nhau.
Một số cán bộ, đảng viên sợ trù dập, sợ định kiến, sợ mất việc làm...
không dám đấu tranh với những khuyết điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý,
người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Việc sơ kết, tổ chức Hội nghị chuyên đề về
tự phê bình và phê bình chưa được quan tâm thực hiện.
- Một số kinh nghiệm thực tiễn
- Phải thường xun làm tốt cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm
cho cán bộ, đảng viên có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, vai trò, tác dụng của
thực hiện cơng tác tự phê bình và phê bình; giúp cán bộ, đảng viên xây dựng
động cơ đúng đắn, hiểu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp tiến
hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình.
- Từng đồng chí cấp uỷ viên, đặc biệt là đồng chí bí thư, phó bí thư cấp
uỷ phải thật sự gương mẫu trong công tác và sinh hoạt; nêu cao ý thức trách
nhiệm trong kiểm điểm, tự phê bình và phê bình; khơng nể nang, né tránh và
sẵn sàng tiếp nhận ý kiến góp ý của đảng viên để có biện pháp sửa chữa, khắc
phục khuyết điểm.
- Phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung, dân chủ trong sinh hoạt đảng;
duy trì nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, bảo đảm chặt chẽ, đúng
ngun tắc, có mục đích, nội dung cụ thể, tránh làm qua loa, hình thức. Phát
huy tốt quyền dân chủ trong Đảng nhằm động viên tính tích cực, chủ động



11
của cán bộ, đảng viên trong công tác tự phê bình và phê bình, ngăn chặn
những biểu hiện tiêu cực.
- Kết hợp tốt cơng tác tự phê bình và phê bình với cơng tác kiểm tra,
giám sát, biểu dương, khen thưởng và xử lý kỷ luật. Kiên quyết đấu tranh
chống những quan điểm, biểu hiện sai trái trong tự phê bình và phê bình như:
trù dập, “trả thù”, lợi dụng phê bình để bơi nhọ, gây chia rẽ nội bộ, làm suy
yếu tổ chức đảng và suy giảm chất lượng cán bộ, đảng viên.
2.3. Một số đề nghị giải pháp thực hiện trong thời gian tới
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá
những hạn chế của tự phê bình và phê bình hiện nay là: “Khơng ít nơi cịn
hình thức, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi,
một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm
của mình đối với nhiệm vụ được giao”. Đây có thể xem là một đánh giá khá
thẳng thẳn và đã nhìn thẳng vào sự thật.
Nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng công tác tự phê bình và phê bình
trong thời gian tới, các cấp uỷ, tổ chức đảng cần quan tâm lãnh đạo thực hiện
tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:
- Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên về ý nghĩa, tầm quan trọng, tính nguyên tắc, mục đích, u cầu của
cơng tác tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình vừa là nguyên tắc
sinh hoạt đảng, là quy luật tồn tại, phát triển của đảng, vừa là nội dung sinh
hoạt, là giải pháp xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; đồng thời, là phương
pháp rèn luyện về bản lĩnh chính trị và nhận thức cho cán bộ, đảng viên. Kiên
quyết khắc phục những yếu kém trong thực hiện cơng tác kiểm điểm, tự phê
bình và phê bình thời gian qua.
- Tiếp tục học tập cho đảng viên hiểu tự phê bình và phê bình là để cán
bộ, đảng viên giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ chứ tuyệt đối không phải là công

cụ để đấu đá, chia rẽ bè cánh, bới móc, nói xấu lẫn nhau. Thực hiện tốt tự phê
bình và phê bình cịn góp phần vào cơng tác cán bộ, là vấn đề “then chốt của
then chốt” trong công tác xây dựng Đảng. Người cán bộ (nhất là cán bộ lãnh


12
đạo), nếu thối hóa, biến chất, bng lỏng tự rèn luyện, xem nhẹ kỷ luật của
Đảng, thì rất dễ tha hoá, rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể
nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp
trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp,
nơi có biểu hiện suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng;
kịp thời đấu tranh, phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, các luận điệu
tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hoá.
- Mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ
cơng tác tự phê bình và phê bình; người đứng đầu cơ quan, đơn vị, cán bộ chủ
chốt phải thật sự gương mẫu, nghiêm túc, biết lắng nghe, phát huy tối đa dân
chủ nội bộ, tạo điều kiện, gợi mở để cán bộ, đảng viên mạnh dạn, thẳng thắn
trong góp ý phê bình. Phát huy dân chủ thật sự khơng chỉ bằng lời nói mà
bằng việc làm cụ thể, gương mẫu trong tự phê bình và phê bình; tạo khơng
khí dân chủ trong sinh hoạt chi bộ; có thái độ cầu thị trong tiếp thu ý kiến phê
bình, sau tự phê bình và phê bình cần có kế hoạch khắc phục, sửa chữa những
hạn chế, khuyết điểm.
- Quan tâm khắc phục tư tưởng ngại va chạm trong thực hiện tự phê
bình và phê bình; người đứng đầu cần phải gương mẫu, trung thực, thẳng thắn
nhận khuyết điểm, hạn chế và quan tâm công tác kiểm tra, giám sát.
- Đảng viên trẻ cần phát huy tính tiền phong, trách nhiệm của mình
trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng cơ quan, đơn vị; nắm vững những

nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp tự phê bình và phê bình; vượt
qua những trở ngại về cấp bậc, chức vụ, tình cảm, chủ động thực hiện quyền
được phê bình; khắc phục tâm lý ngại phê bình, ngại va chạm, né tránh khi
phê bình người khác, nhất là phê bình cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt.
- Các cấp uỷ tiếp tục chỉ đạo thực hiện tự phê bình và phê bình đảng
viên ln phiên ở các chi bộ có đơng đảng viên.Thực hiện nghiêm túc, có nề


13
nếp chế độ tự phê bình và phê bình theo định kỳ trong các cấp uỷ, tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Coi trọng việc xây
dựng động cơ đúng đắn cho cán bộ, đảng viên trong thực hiện tự phê bình và
phê bình; qua đó, giúp cho từng cán bộ, đảng viên có sự chuẩn bị chu đáo về
mọi mặt và tiến hành tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, thẳng
thắn, trung thực.
- Phối hợp chặt chẽ việc nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tự phê
bình và phê bình trong Đảng với nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chú trọng thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng; chống mọi biểu
hiện chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, gây mất
đoàn kết nội bộ.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ
ban kiểm tra cấp trên đối với cấp uỷ, tổ chức đảng, cấp uỷ viên cấp dưới trong
việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, tự phê bình và
phê bình trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp uỷ. Tăng cường theo dõi, kiểm
tra việc tiếp thu phê bình, sửa chữa khuyết điểm của tổ chức, cá nhân. Tổ
chức đảng có thẩm quyền phải kiên quyết xử lý những đảng viên và tổ chức
đảng có hành vi trả thù, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình.
- Trong mỗi nhiệm kỳ đại hội, các cấp uỷ cần có kế hoạch đào tạo, tập
huấn kỹ năng sinh hoạt chi bộ và cơng tác tự phê bình và phê bình đảng viên

cho các đồng chí bí thư, phó bí thư đảng bộ, chi bộ cơ sở.
- Thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và đề ra biện pháp
phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, cơ quan, đơn vị nhằm đảm bảo
cho cơng tác tự phê bình và phê bình có chất lượng, đạt hiệu quả thiết thực.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các quy chế, quy định về chế độ
công tác, lề lối làm việc của cấp uỷ, tổ chức đảng; trong đó, có nội dung tự
phê bình và phê bình.
- Kịp thời biểu dương, khen thưởng các cấp uỷ, tổ chức đảng và cá
nhân có nhiều sáng kiến, thực hiện tốt cơng tác tự phê bình và phê bình trong


14
sinh hoạt đảng; đồng thời, phê bình, nhắc nhở hoặc xem xét trách nhiệm đối
với những trường hợp thực hiện khơng nghiêm, có khuyết điểm hoặc vi phạm
ngun tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng.


15
KẾT LUẬN
Trải qua hơn 91 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn khẳng định: tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng, là thuộc tính của một chính đảng cách mạng, là công cụ sắc bén để giáo
dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên của Đảng và củng cố khối đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Vì vậy, tự phê bình và phê bình là việc làm khơng thể thiếu
trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta.
Từ cả lý luận và thực tiễn, việc thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và
phê bình sẽ giúp mỗi đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình và chỉ ra
ưu khuyết điểm của đồng chí để cùng nhau sửa đổi để tốt hơn. Mỗi đảng viên
tốt sẽ xây dựng thành chi bộ tốt, các chi bộ tốt sẽ giúp đảng bộ tốt, cứ như vậy
thì Đảng sẽ trong sạch, vững mạnh. Tự phê bình và phê bình là một trong 5

nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu tất cả
đảng viên học, hiểu và thực hành đúng như những nội dung căn bản của
nguyên tắc tự phê bình và phê bình sẽ góp phần quan trọng cho việc xây dựng
Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Bởi vậy, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình là
biện pháp hết sức tích cực giúp cán bộ, đảng viên đứng vững trước những
cám dỗ của hoàn cảnh khách quan, chống tha hoá, biến chất dẫn đến “tự
chuyển hóa”, “tự diễn biến”. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong
Đảng cịn có ý nghĩa quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiếu đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên,
nâng cao uy tín của Đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng.
Thành thật với mình, thành thật với mọi người, đó chính là nhân cách là trách
nhiệm của con người nói chung và đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên nói
riêng, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện tốt tự phê bình và phê
bình sẽ là cơ sở góp phần tiếp tục phát huy dân chủ, khơi dậy trí tuệ của từng
cán bộ, đảng viên, góp phần tăng cường và củng cố khối đoàn kết thống nhất
trong toàn Đảng.


16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ
XI, XII, XIII - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
2. Giáo trình dung cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị – Lý luận
chung về Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới – Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh Sóc Trăng lần thứ XIII nhiệm kỳ
2020 - 2021
5. Thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng hiện nay Báo Tạp chí Cộng sản điện tử;

6. Tài liệu khác



×