TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HỐ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN LÝ VĂN HÓA, NGHỆ THUẬT
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: Lịch sử văn minh thế giới
TÊN ĐỀ TÀI: Chiến tranh và những vấn đề đặt ra cho sự phát triển của nhân loại
Người thực hiện: Trần Đăng Khơi
Lớp: 21DTCSKVH
MSSV: 21DQL090
GVHD: Phan Đình Dũng
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm
1
Mục lục
Phần I : Tìm hiểu về chiến tranh
1
I. Tổng quan về chiến tranh:
1
1. Khái niệm, nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất và đặc điểm của chiến tranh:
1
1.2. Nguồn gốc
2
1.3. Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh:
2
1.4. Bản chất của chiến tranh:
4
1.5. Đặc điểm của chiến tranh:
5
2. Các sự kiện quân sự cấu thành nên lịch sử của một cuộc chiến tranh:
5
*Chiến cuộc:
5
*Chiến dịch:
5
*Trận đánh:
6
3. Phân loại chiến tranh:
6
3.1. Dựa trên tính chất của mục đích chiến tranh:
6
3.2. Dựa trên quy mô mục tiêu và mức đô ̣ tham gia của xã hôị
6
3.3. Dựa trên chủ thể tham gia:
7
3.4. Dựa trên vũ khí sử dụng trong chiến tranh:
7
Phần II: Chiến tranh và những vấn đề đặt ra cho sự phát triển của nhân loại
I. Chiến tranh trong tổng thể mối quan hệ xã hội
8
8
1. Chiến tranh và chính trị
8
2. Chiến tranh và kinh tế
8
3. Chiến tranh và văn hóa
8
4. Chiến tranh và tôn giáo
8
II. Chiến tranh - một hiện thực chi phối mạnh mẽ lịch sử nhân loại
9
1. Các cuộc chiến có tầm ảnh hưởng lớn, tác động mạnh mẽ đến lịch sử thế giới 9
1.1. Chiến tranh thế giới thứ nhất
9
1.1.1. Tổng quan về chiến tranh thế giới thứ nhất
9
1.1.2. Hậu quả
9
1.2. Chiến tranh thế giới thứ hai
10
1.2.1.Tổng quan về chiến tranh thế giới thứ hai
10
1.2.2.Hậu quả
10
1.3. Chiến tranh lạnh:
11
1.3.1.Tổng quan về chiến tranh lạnh:
11
1.3.2.Hậu quả:
11
III. Chiến tranh và những tác động đối với quan hệ quốc tế:
1. Sự đối đầu Đông – Tây và cuộc chiến tranh cục bộ:
1.1.
12
12
Cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp (1945-1954)
12 1.2. Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
12
1.3. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mĩ (1954-1975)
13
2. Thế giới sau chiến tranh lạnh:
Phần 3: Tổng kết
13
14
Phần I : Tìm hiểu về chiến tranh
I. Tổng quan về chiến tranh:
1.
Khái niệm, nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất và đặc điểm của
chiến tranh:
1.1. Khái niệm:
-Theo từ điển tiếng Việt :
‘‘Chiến tranh’’ là một hiện tượng xã hội, mang tính lịch sử, biểu hiện bằng cách
sử dụng bạo lực, các cuộc xung đột vũ trang giữa hai thế lực đối kháng trong một
nước hay các quốc gia với nhau: chiến tranh và hịa bình chống chiến tranh.
-Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin :
“Chiến tranh” là một trong những vấn đề phức tạp, là một hiện tượng chính trị xã hội có tính lịch sử, là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp nhà nước
(hoặc liên minh giữa các nước) nhằm đạt mục đích chính trị nhất định.
Như vậy. theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin thì chiến tranh là kết quả
của những quan hệ giữa người với người trong xã hội. Nhưng nó không xuất phát từ
mối quan hệ cá nhân mà xuất phát từ mối quan hệ của một tập đoàn người với mục
đích chính trị đối lập nhau.
-Theo Claodơvít – nhà lý luận quân sự nổi tiếng của nước Phổ:
Chiến tranh là một hành vi bạo lực dùng để buộc đối phương phục tùng ý chí
của mình. Chiến tranh là sự huy động sức mạnh không hạn độ, sức mạnh đến tột cùng
của các bên tham chiến. Đó khơng phải là sự tác động của một lực lượng sống vào lực
lượng chết mà là sự xung đột quyết liệt giữa hai lực lượng sống. Vì vậy, khi chưa đánh
bại được kẻ địch thì lực lượng tham chiến vẫn sợ nó đánh bại mình.
Từ đó, ta có kết luận rằng:
-Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội, mang tính lịch sử được đánh
dấu bằng các sự kiện có các mốc thời gian cụ thể, rõ ràng.
-Chiến tranh là hành vi sử dụng bạo lực, các cuộc xung đột vũ trang giữa hai thế
lực đối nghịch nhau, khác nhau về mục đích chính trị, tư tưởng.
-Chiến tranh xuất phát từ những mâu thuẫn tư tưởng khác nhau, đối nghịch
nhau. Nguyên nhân của những mâu thuẫn này bắt nguồn từ những tham vọng của con
người, khi những tham vọng đối nghịch này tác động với nhau đến mức cực hạn, căng
thẳng, cao trào thì chính điều đó sẽ là chất xúc tác châm ngịi cho một cuộc chiến tranh
sắp bùng nổ. Chỉ khi nào tồn tại hai mâu thuẫn, hai hệ tư tưởng, hai thế lực khác nhau
thì chiến mới thật sự tồn tại.
1.2. Nguồn gốc :
Chủ nghĩa Mac-Lênin khẳng định: sự xuất hiện và tồn tại của chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất là nguồn gốc trực tiếp (nguồn gốc kinh tế ), suy đến cùng
đã dẫn đến sự xuất hiện và tồn tại của chiến tranh. Đồng thời, sự xuất hiện và tồn tại
của giai cấp và đối kháng giai cấp là nguồn gốc sâu xa(nguồn gốc xã hội) dẫn đến sự
xuất hiện và tồn tại của chiến tranh.
Chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có
đối kháng và giai cấp bóc lột, chiến tranh khơng phải là định mệnh gắn liền với con
người và xã hội lồi người. Muốn xóa bỏ chiến tranh thì phải xóa bỏ nguồn gốc nảy
sinh ra chiến tranh.
1.3. Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh:
Nguyên nhân của chiến tranh thường do mâu thuẫn giữa các giai cấp, dân tộc,
tôn giáo phát triển đến mức gay gắt nhất hoặc do mâu thuẫn trong nội bộ một dân tộc,
tơn giáo. Nói tóm lại, chiến tranh là sự xung đột do từ mâu thuẫn ý thức giữa các tư
tưởng khác nhau.
*Về lợi ích kinh tế:
Thơng thường các cuộc chiến tranh gây nên bởi một quốc gia mong muốn kiểm
soát sự giàu có của quốc gia khác. Bất kể những ngun nhân khác là gì, vẫn ln có
một động lực về kinh tế nằm ẩn sâu dưới hầu hết các mâu thuẫn, thậm chí nếu mục
tiêu của chiến tranh của các quốc gia thường được truyền bá là nhầm mục đích cao
thượng.
Trong thời kỳ tiền cơng nghiệp hóa, những thèm khát của một quốc gia gây
chiến có lẽ là những nguyên liệu quý hiếm như vàng và bạc, hay những vật nuôi như
gia súc và ngựa.
Trong thời hiện đại, những nguồn được mong đợi kiếm được từ chiến tranh
chính là dầu mỏ, khoáng sản hay nguyên liệu dùng cho sản xuất.
Một vài nhà khoa học tin rằng khi dân số thế giới tăng lên và nguồn cung căn
bản trở nên thiếu hụt, các cuộc chiến ra tranh giành những nhu cầu thiết yếu, như là
thức ăn và nước uống, sẽ nổ ra nhiều hơn.
*Về lợi ích lãnh thổ:
Một quốc gia có lẽ quyết định rằng nó cần nhiều đất đai hơn, để làm nơi sinh
sống, sử dụng cho nông nghiệp, hoặc dành cho những mục đích khác. Lãnh thổ có thể
được sử dụng như “vùng đệm” giữa hai bên địch thủ.
Liên quan đến những vùng đệm đó là các cuộc chiến ủy nhiệm. Đây là những
xung đột được đấu tranh gián tiếp giữa các cường quốc đối lập ở một nước thứ ba.
Mỗi cường quốc hỗ trợ phe phù hợp nhất với lợi ích hậu cần, quân sự và kinh tế của
họ.
Các cuộc chiến tranh ủy nhiệm đặc biệt phổ
biến trong thời kỳ Chiến tranh
Lạnh.
*Về tơn giáo:
Xung đột tơn giáo thường có nguồn gốc rất
sâu xa. Chúng có thể âm ỉ trong
nhiều thập kỷ, chỉ để nổ ra trong vài năm với hậu quả khơn lường.Các cuộc chiến tơn
giáo thường có thể được gắn liền với các lý do khác để gây nên xung đột, chẳng hạn
như chủ nghĩa dân tộc hoặc trả thù cho sự nhận thức lịch sử trong quá khứ.
Mặc dù các tôn giáo khác nhau chiến đấu với nhau có thể là nguyên nhân của
chiến tranh, nhưng các giáo phái khác nhau trong một tôn giáo (ví dụ, Tin lành và
Công giáo, hoặc Sunni và Shiite) chiến đấu với nhau cũng có thể gây ra chiến tranh.
*Nội chiến:
Điều này thường diễn ra khi có sự bất đồng nội bộ gay gắt trong một quốc gia.
Sự bất đồng có thể là về ai cai trị, đất nước nên được điều hành như thế nào hay quyền
lợi của người dân sẽ ra sao. Những rạn nứt nội bộ này thường biến thành những kẽ hở
dẫn đến xung đột dữ dội giữa hai hoặc nhiều nhóm đối lập.
Nội chiến cũng có thể được châm ngịi bởi các nhóm ly khai muốn thành lập
quốc gia độc lập của riêng họ, hoặc, như trong trường hợp Nội chiến Hoa Kỳ, các
bang muốn ly khai khỏi một liên minh lớn hơn.
*Chiến tranh cách mạng:
Điều này xảy ra khi một bộ phận lớn dân số của một quốc gia nổi dậy chống lại
cá nhân hoặc nhóm thống trị đất nước vì họ khơng hài lịng với sự lãnh đạo của họ.
Các cuộc cách mạng có thể bắt đầu vì nhiều lý do, bao gồm khó khăn kinh tế
giữa các bộ phận dân cư nhất định hoặc nhận thấy sự bất công do nhóm cầm quyền
khơng thực hiện đúng cam kết. Các yếu tố khác cũng có thể gây nên chuến tranh cách
mạng, chẳng hạn như các cuộc chiến không được ủng hộ với các quốc gia khác.
Chiến tranh cách mạng có thể dễ dàng trở thành cuộc nội chiến.
1.4. Bản chất của chiến tranh:
Bản chất của chiến tranh thể hiện trên hai mặt cơ bản ln có sự thống nhất với
nhau: Mặt chính trị và mặt bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, bạo lực vũ trang là
phương thức, biện pháp để thực hiện mục đích chính trị. Mặt chính trị và mặt phương
thức bạo lực vũ trang không tách rời nhau.
*Mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị:
Giữa chiến tranh và chính trị có mối quan hệ khắng khít, biện chứng với nhau.
Trong đó, chính trị quyết định chiến tranh và chiến tranh tác động to lớn trở lại đối với
chính trị. Thực chất, đây là mối quan hệ giữa hai hiện tượng xã hội, mỗi hiện tượng
bao gồm lực lượng vật chất và tinh thần, giữa tư tưởng và tổ chức. Đây là mối quan hệ
đa chiều.
Giữa chiến tranh và chính trị có quan hệ chặc chẽ với nhau:
+ Chính trị chỉ đạo chi phối,quyết định tồn bộ tiến trình và kết cục chiến
tranh,quy định mục tiêu và điều chỉnh mục tiêu,hình thức tiến hành đấu tranh vũ trang;
use kết quả sau chiến tranh để đề ra những nhiệm vụ,mục tiêu mới cho giai cấp ,xã hội
trên cơ sở những thắng lợi hay thất bại của chiến tranh.
+ Chiến tranh là một bộ phận,một phương tiện của chính trị,là kết quả phản ánh
những cố gắng cao nhất của chính trị.
Trong thời đại ngày nay mặc dù chiến tranh có những thay đổi về phương thức
tác chiến,vũ khí, trang bị,song bản chất chiến tranh vẫn khơng có gì thay đổi,chiến
tranh vẫn là sự tiếp tục chính trị của nhà nước và giai cấp nhất định.
Đường lối chính trị của đế quốc và các thế lực thù địch vẫn luôn chứa đựng
nguy cơ chiến tranh.
1.5. Đặc điểm của chiến tranh:
Chiến tranh gồm các đặc điểm sau:
-Là một hiện tượng chính trị - xã hội.
-Là hoạt động đấu tranh vũ trang (sử dụng bạo lực) của một tổ chức.
-Là một hiện tượng mang tính tiêu cực ( nhưng sẽ có các cuộc chiến mang lại
kết quả tích cực).
-Khi một trận chiến kết thúc, kết quả luôn mang lại sự hao tổn về lực lượng, về
kinh tế hoặc có thể làm cho một quốc gia hay một tổ chức bị hủy hoại nặng nề và có
thể dẫn đến sự diệt vong.
-Nhằm đạt được mục đích chính trị nhất đích chính trị nhất định.
Chiến tranh là một hiện tượng mang xu hướng tiêu cực.
2. Các sự kiện quân sự cấu thành nên lịch sử của một cuộc chiến tranh:
*Chiến cuộc:
Chiến cuộc là hình thức tác chiến chiến lược bao gồm một số chiến dịch, chiến
dịch chiến lược và các hình thức tác chiến khác diễn ra trong không gian rộng (một
hoặc một số chiến trường trên bộ và có thể cả trên biển), trong một thời gian tương đối
dài (mấy tháng, mấy mùa) nhằm đạt những mục đích quân sự – chính trị của chiến
tranh. Chiến cuộc thường được gọi tên theo chiến trường , theo thời gian – năm hay
mùa diễn ra chiến cuộc (VD: Chiến cuộc Đông Xuân 1953–1954 diễn ra ở Việt Nam).
Chiến cuộc là đối tượng nghiên cứu của chiến lược quân sự.
*Chiến dịch:
Trong quân sự, chiến dịch là toàn bộ các trận chiến đấu diễn ra trên một chiến
trường và trong một thời gian, tiến hành theo kế hoạch và ý định thống nhất, nhằm
thực hiện mục đích chiến lược nhất định. (VD: Chiến dịch Điện Biên Phủ.)
Trên phạm vi rộng hơn, chiến dịch là toàn bộ những việc làm tập trung và khẩn
trương, tiến hành trong một thời gian nhất định, nhằm thực hiện một mục đích nhất
định. (VD: Phát động chiến dịch phòng bệnh mùa hè; mở chiến dịch truy quét tội
phạm trên toàn quốc.)
*Trận đánh:
Trận đánh là một phần khái niệm trong hệ thống phân cấp của hoạt động quân
sự trong chiến tranh giữa hai hoặc nhiều quân đội, hoặc các chiến binh. Một cuộc
chiến tranh bao gồm nhiều trận đánh. Các trận đánh thường được định nghĩa theo chu
kỳ, khu vực và lực lượng vũ trang.
Các trận đánh thường diễn ra trong thời gian dài và thiệt hại về người và của.
3. Phân loại chiến tranh:
3.1.Dựa trên tính chất của mục đích chiến tranh:
Gồm có hai loại chiến tranh là chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa.
Chiến tranh chính nghĩa (just wars) là chiến tranh được tiến hành với mục đích
phù hợp với luât pháp quốc tế và giá trị đạo đức nhân loại. Chiến tranh chống xâm
lược và giải phóng dân tôc là chiến tranh chính nghĩa.
Chiến tranh phi nghĩa (unjust wars) là chiến tranh được tiến hành với mục đích
trái với luât pháp quốc tế và giá trị đạo đức nhân loại. Chiến tranh đế quốc và chiến
tranh xâm lược là chiến tranh phi nghĩa.
3.2.Dựa trên quy mô mục tiêu và mức đơ ̣tham gia của xã hơị:
Gồm có hai loại là chiến tranh tổng lực và chiến tranh hạn chế
Chiến tranh tổng lực hay chiến tranh toàn diên (total wars) là chiến tranh trong
đó quy mơ mục tiêu là rông khắp bao gồm cả quân sự và dân sự, với sự tham gia của
quả thường là lớn. Hai cc Chiến tranh thế giới lần
tồn bơ ̣ sức mạnh quốc gia
và hâu
thứ nhất (1914 – 1918) và lần thứ hai (1939 – 1945) đều thuôc loại này.
Chiến tranh hạn chế hay chiến tranh cục bơ ̣ (limited wars) có mục đích hạn hẹp
hơn. Mục tiêu chủ yếu là quân sự với quy mô không hạn chế. Lực lượng tham gia là
môt
phần quân đôị . Mức đô ̣ tàn chiến tranh biên
phá thường không quá lớn.
Các cuôc
giới thường thuôc loại này.
3.3.Dựa trên chủ thể tham gia:
chiến.
Gồm có hai loại là chiến tranh quốc
tế và nôi
Chiến tranh quốc tế (international wars) là chiến tranh giữa các chủ thể QHQT,
thường là các quốc gia. Tất cả chiến tranh giữa các quốc gia đều thuôc loại này.
chiến (civil wars) là cuôc
chiến tranh giữa các phe
Nơi
nhóm chính trị bên trong
quốc gia. Các cc
mơt
thời hiên
đại, nhiều
cuôc
nôi
trong môi trường an ninh quốc tế cũng như
nổi dây
chiến mang
tính quốc tế
rõ rêt
hay khởi nghĩa được
xếp trong loại hình
này. Trong
bởi sự phụ
lẫn nhau
thc
gián tiếp với
có sự liên hê ̣ trực tiếp hoăc các quốc gia
bên ngồi.
3.4.Dựa trên vũ khí sử dụng trong
chiến tranh:
Gồm có hai loại là chiến tranh thông thường và chiến tranh hủy diêṭ hàng loạt.
Chiến tranh thông thường (conventional wars) hay chiến tranh quy ước là loại
chiến tranh trong đó lực lượng tham gia chủ yếu là binh lính chính quy và bán chính
quy, vũ khí sử dụng có mức đơ ̣ phá hủy hạn chế. Tất cả chiến tranh đã xảy ra đều
thuôc
loại này.
Chiến tranh hủy diêt
hàng loạt (mass destruction
wars) là chiến tranh sử dụng
chủ yếu các loại vũ khí hủy diêt hàng loạt như hạt nhân, hóa học và sinh học. Loại
chiến tranh này chưa từng xảy ra trong thực tiễn măc dù các loại vũ khí này đã từng
được sử dụng trong vài cuôc chiến tranh thông thường.
Phần II: Chiến tranh và những vấn đề đặt ra cho sự phát triển của nhân
loại I.Chiến tranh trong tổng thể mối quan hệ xã hội:
1.Chiến tranh và chính trị:
Giữa chiến tranh và chính trị có mối quan hệ khắng khít, biện chứng với nhau.
Trong đó, chính trị quyết định chiến tranh và chiến tranh tác động to lớn trở lại đối với
chính trị. Thực chất, đây là mối quan hệ giữa hai hiện tượng xã hội, mỗi hiện tượng
bao gồm lực lượng vật chất và tinh thần, giữa tư tưởng và tổ chức. Đây là mối quan hệ
đa chiều.
Đỉnh cao là chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ cuối thế kỉ XX.
*Ảnh hưởng của quan hệ ngoại giao đối với chiến tranh:
Chiến tranh có thể gây nên sự thù địch hoặc hòa giải giữa các nước.
2. Chiến tranh và kinh tế:
Trong bối cảnh lịch sử, nhiều cường quốc như Mỹ, Liên Xô,..dựa vào chiến
tranh để làm giàu bằng cách buôn vũ khí cho các nước tham chiến. Nhưng các cuộc
chiến tranh cũng gây tổn thất nặng nề về kinh tế của các nước tham chiến.
3. Chiến tranh và văn hóa:
Chiến tranh là niềm cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học, cùng với các thể
loại khác nhau như: thơ ca, tiểu thuyết,.. Các tác phẩm này thường xoay quanh những
sự thật mà chiến tranh đem lại, mang hơi hướng của cuộc sống. Các tác phẩm tái hiện
lại những chuỗi ngày đen tối của chiến tranh, những mất mát đau thương của nhân loại
và ở mỗi tác phẩm cịn là tiếng nói, sự đồng cảm của tác giả muốn gửi gắm đến độc
giả, mong muốn được cuộc sống tự do để không ai phải sống trong những tháng ngày
đau khổ.
Các tác phẩm tiêu biểu trong thời chiến: Chiến tranh và Hịa bình - Lev Tolstoy.
Những người khốn khổ - Victor Hugo,…
4. Chiến tranh và tôn giáo:
Chiến tranh tôn giáo là một phần của lịch sử loài người. Thời điểm từ thế kỷ X–
XV xảy ra rất nhiều các cuộc chiến tranh tôn giáo. Nguyên nhân chính dẫn đến các
cuộc chiến tranh này là sự xung khắc, mâu thuẫn giữa các phe phái tôn giáo khác
nhau.
II. Chiến tranh - một hiện thực chi phối mạnh mẽ lịch sử nhân loại :
1.
Các cuộc chiến có tầm ảnh hưởng lớn, tác động mạnh mẽ đến lịch sử thế
giới : Nhìn lại lịch sử thế giới, nhân loại đã trải qua rất nhiều cuộc chiến khác nhau
nhưng đã có ba cuộc chiến có sự tác động mạnh mẽ đến lịch sử phát triển của nhân
loại.
1.1.Chiến tranh thế giới thứ nhất:
1.1.1. Tổng quan về chiến tranh thế giới thứ nhất:
Chiến tranh thế giới thứ nhất, còn được gọi là Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Đệ
nhất Thế chiến hay Thế chiến I, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
châu Âu từ ngày 28 tháng 7 năm 1914 đến ngày 11 tháng 11 năm 1918.Cuộc chiến
tranh này là một trong những sự kiện có ảnh hưởng nhất trong lịch sử thế giới.[5] Đây
là cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao trùm khắp châu Âu và ảnh hưởng ra
toàn thế giới, lôi kéo tất cả các cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ vào cuộc chiến với số
lượng người chết trên 19 triệu người, đồng thời có sức tàn phá và ảnh hưởng về vật
chất lẫn tinh thần của nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Khác với các cuộc chiến tranh
trước đó, người Âu châu phải chiến đấu cả trên chiến trường lẫn ở hậu phương. Phụ
nữ phải làm việc thay nam giới, đồng thời sự phát triển của cơng nghệ cũng có ảnh
hưởng đến tính chất chiến tranh; có thể thấy sự hiệu quả của khơng quân và xe tăng
trong chiến đấu kể từ cuộc Đại chiến này.
1.1.2. Hậu quả :
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã gây ra những thảm họa hết sức
nặng nề đối với nhân loại:
-Thiệt hại về người: khoảng 1,5 tỷ người bị cuốn vào vịng khói lửa, 10 triệu
người chết, trên 20 triệu người bị thương, nền kinh tế Châu Âu bị kiệt quệ.
-Thiệt hại về vật chất: Nhiều thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy
bị phá hủy. Thiệt hại vật chất lên tới 338 tỷ USD. Số tiền các nước tham chiến chi phí
cho chiến tranh vào khoảng 85 tỉ USD.
-Trong quá trình chiến tranh, thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga và thành
lập Nhà nước Xô viết đánh dấu bước chuyển lớn trong cục diện chính trị thế giới.
-Hệ thống Hiệp ước Versailles và sau đó là Hệ thống Hiệp ước Washington ra
đời với mục đích tổ chức lại thế giới thời hậu chiến sao cho phù hợp với tương quan
lực lượng mới, song thực chất là các đế quốc phân chia lại thuộc địa, cũng như xác lập
lại sự áp đặt, nô dịch đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.Tuy nhiên, cuộc phân
chia lại lợi ích và ảnh hưởng sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất đã không hóa giải được
những mâu thuẫn gốc rễ, mà cịn làm cho những mâu thuẫn đó trở nên trầm trọng hơn.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới Chiến tranh Thế giới thứ hai
bùng nổ năm 1939.
1.2. Chiến tranh thế giới thứ hai :
1.2.1.Tổng quan về chiến tranh thế giới thứ hai:
Chiến tranh thế giới thứ hai (còn được nhắc đến với các tên gọi Đệ nhị thế
chiến, Thế chiến II hay Đại chiến thế giới lần thứ hai) là một cuộc chiến tranh thế giới
bắt đầu từ khoảng năm 1939 và chấm dứt vào năm 1945. Cuộc chiến có sự tham gia
của đại đa số các quốc gia trên thế giới bao gồm tất cả các cường quốc tạo thành hai
liên minh quân sự đối lập: Đồng Minh và Phe Trục. Trong diện mạo một cuộc chiến
tranh toàn diện, Thế chiến II có sự tham gia trực tiếp của hơn 100 triệu nhân sự từ hơn
30 quốc gia. Các bên tham chiến chính đã dồn tồn bộ nguồn lực kinh tế, cơng nghiệp
và khoa học cho nỗ lực tham chiến, làm mờ đi ranh giới giữa nguồn lực dân sự và
quân sự. Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử
nhân loại, gây nên cái chết của 70 đến 85 triệu người, với số lượng dân thường tử
vong nhiều hơn quân nhân. Hàng chục triệu người đã phải bỏ mạng trong các vụ thảm
sát, diệt chủng (trong đó có Holocaust), chết vì thiếu lương thực hay vì bệnh tật. Máy
bay đóng vai trị quan trọng đối với tiến trình cuộc chiến, bao gồm ném bom chiến
lược vào các trung tâm dân cư, và đối với sự phát triển vũ khí hạt nhân cũng như hai
lần duy nhất sử dụng loại vũ khí này trong chiến tranh.
1.2.2.Hậu quả:
Chiến tranh thế giới thứ hai ( 1939-1945) đã gây ra những thảm họa nặng nề tàn
khốc nhất cho nhân loại:
-
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự sụp đổ hoàn toàn của phát xít
Đức, I-ta-li-a, Nhật.
-
Thắng lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc trên thế giới đã kiên cường chiến đấu
chống chủ nghĩa phát xít.
-
Liên Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc
tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.
-
Hơn 70 quốc gia với 1700 triệu người đã bị lôi cuốn vào vòng chiến,
khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người bị tàn phế, thiệt hại vật chất 4000 tỉ đô-la.
- Chiến tranh kết thúc đã dẫn đến những biến đổi căn bản của tình hình thế giới.
1.3. Chiến tranh lạnh:
1.3.1.Tổng quan về chiến tranh lạnh:
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, giữa bối cảnh một Châu Âu bị tàn phá
và suy yếu trong hệ thống quốc tế với vai trò lu mờ của Anh, Pháp và một nước Đức
đổ nát trên bờ vực bị chia cắt, thì Mỹ và Liên Xơ nổi lên với vai trị là siêu cường thế
giới, giàu có và hùng mạnh. Cả hai quốc gia này nhanh chóng nắm quyền chi phối
toàn bộ hệ thống chính trị quốc tế. Thế nhưng, Xô – Mỹ với hai ý thức hệ đối lập đã
đứng trên hai chiến tuyến trái ngược nhau. Điều này khiến cho viễn cảnh hòa hợp thời
hậu chiến trở nên xa vời. Một loạt các xung đột liên tiếp nổi lên, tuy không gây ra đối
đầu trực tiếp nhưng lại là khởi đầu cho một giai đoạn lịch sử được biết đến với tên gọi
“Chiến tranh Lạnh”.
1.3.2.Hậu quả:
Chiến tranh lạnh đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề :
-Thế giới ln ở trong tình trạng căng thẳng, có lúc đứng trước nguy cơ bùng nổ
chiến tranh thế giới mới.
-Các cường quốc đó chi một khối lượng khổng lồ tiền của và sức người để sản
xuất các loại vũ khí huỷ diệt, xây dựng hàng ngàn căn cứ quân sự, trong khi nhân loại
vẫn phải chịu bao khó khăn do đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai…
-Lồi người phải chịu khó khăn do nghèo đói, ơ nhiễm mơi trường, bệnh tật gây
ra…
III.
Chiến tranh và
những tác động đối với
quan hệ quốc tế: 1.Sự
đối đầu Đông – Tây và
cuộc chiến tranh cục
bộ:
Trong thời kì Chiến tranh lạnh, hầu như
mọi cuộc chiến tranh hoặc xung đột
quân sự ở các khu vực trên thế giới, với những hình thức và mức độ khác nhau, đều
liên quan tới sự “đối đầu” giữa hai cực Xô - Mĩ. Tiêu biểu là các cuộc chiến tranh cục
bộ: chiến tranh chống xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp (1945-1954); chiến
tranh Triều Tiên (1950 - 1953); chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mĩ (1954
- 1975).
1.1. Cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp
(1945- 1954):
Tháng 9 - 1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược ba nước Việt Nam,
Campuchia, Lào. Nhân dân các nước Đông Dương đã kiên cường kháng chiến.
Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (10-1949), cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam mới có điều kiện liên lạc và nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của
Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Từ sau năm 1950, Mĩ ngày càng
can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh của thực dân Pháp ở Đông Dương. Từ đó,
chiến tranh Đơng Dương ngày càng chịu sự tác động của hai phe. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơnevơ được triệu tập để bàn về việc chấm dứt chiến tranh
ở Đông Dương.
Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương là một thắng lợi to lớn của nhân dân
Việt Nam, Lào và Campuchia, nhưng mặt khác cũng phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt
giữa hai phe. Đại biểu Mĩ ra tuyên bố không chịu sự ràng buộc của Hiệp định nhằm
chuẩn bị cho sự xâm lược sau này.
1.2. Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953):
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bán đảo Triều Tiên tạm thời chia làm hai miền
Nam-Bắc, theo vĩ tuyến 38:
+ Miền Bắc bán đảo Triều Tiên do qn đội Liên Xơ chiếm đóng.
+ Miền Nam bán đảo Triều Tiên do quân đội Mĩ chiếm đóng.
- Năm 1948, 2 nhà nước ra đời trên bán đảo Triều Tiên:
+ Tháng 8/1948, Đại Hàn dân quốc (Nam Triều Tiên).
+ Tháng 9/1948, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên).
- 1950 - 1953, cuộc nội chiến giữa hai miền bán đảo Triều Tiên:
+ Trung Quốc nỗ lực chi viện cho Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
+ Mĩ hậu thuẫn cho Đại Hàn dân quốc.
- Tháng 7/1953, hiệp định đình chiến giữa hai miền bán đảo Triều Tiên được kí
kết.
Sau hơn 3 năm chiến tranh diễn ra khốc liệt giữa miền Bắc được Trung Quốc
chi viện miền nam được Mĩ giúp sức, ngày 27-7-1953, Hiệp định đình chiến được kí
kết. Theo đó, vĩ tuyến 38 vẫn là ranh giới quân sự giữa hai miền. Cuộc chiến tranh
Triều Tiên là một “sản phẩm’’ của chiến trnah lanh và là sự đụng đầu trực tiếp đầu tiên
giữa hai phe.
1.3. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mĩ (1954-1975):
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1945 về Đông Dương, Mĩ đã nhanh chóng thay thế
Pháp dựng lên chính quyền Ngơ Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến
Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ. Nhưng mưu đồ của Mĩ
đã vấp phải ý chí quật cường và cuộc đấu tranh anh dung của nhân dân Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam đã trở thành cuộc chiến cục bộ lớn nhất phản ánh mâu thuẫn
giữa hai phe. Nhưng cuối cùng mọi chiến lược chiến tranh của Mĩ đều bị phá sản.
Tháng 1-1973, Hiệp định Pari được kí kết. Theo đó, Mĩ cam kết tơn trọng quyền dân
tộc cơ bản, tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cảu Việt Nam
và rút quân khỏi Việt Nam, cam kết không dính lieesuveef quân sự hoặc can thiệp về
chính trị đối với Việt Nam.
Tóm lại, trong thời kì Chiến tranh lạnh, hầu như mọi cuộc chiến tranh hoặc
xung đột quân sự ở các khu vực trên thế giới, với những hình thức và mức độ khác
nhau, đều liên quan tới sự “ đối đầu” giữa hai cực Xô-Mĩ.
2. Thế giới sau chiến tranh lạnh:
- Từ 1989 - 1991, chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã.
- Ngày 28/6/1991, khối SEV giải thể
- Ngày 01/07/1991, Tổ chức Vácsava chấm dứt hoạt động.
-
Trật tự hai cực Ianta sụp đổ, phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu
và châu Á mất đi, ảnh hưởng của Mỹ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi.
-Từ 1991, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn và phức tạp, phát triển theo
các xu thế chính sau đây:
Một là, trật tự thế giới “hai cực” đã sụp đổ, nhưng trật tự thế giới mới mang lại
đang trong quá trình hình thành theo xu hướng “đa cực”, với sự vươn lên của các
cường quốc như Mĩ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Liên bang Nga, Trung Quốc.
Hai là, sau Chiến tranh lạnh, hầu như các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược
phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế để xây dựng sức mạnh thực sự của mỗi quốc
gia.
Ba là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mĩ một lợi thế tạm thời, giới cầm
quyền Mĩ ra sức thiết lập trật tự thế giới “một cực” để Mĩ làm bá chủ thế giới. Nhưng
trong tương quan lực lượng giữa các cường quốc, Mĩ không dễ gì có thể thực hiện
được tham vọng đó.
Bốn là, sau Chiến tranh lạnh, hịa bình thế giới được củng cố, nhưng ở nhiều
khu vực tình hình lại khơng ổn định với những cuộc nội chiến, xung đột quân sự đẫm
máu kéo dài như ở bán đảo Ban-căng, ở một số nước châu Phi và Trung Á.
-
Sang thế kỷ XXI, xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển đang diễn ra thì vụ
khủng bố 11/9/2001 ở nước Mỹ đã đặt các quốc gia, dân tộc đứng trước những thách
thức của chủ nghĩa khủng bố với những nguy cơ khó lường, gây ra những tác động to
lớn, phức tạp với tình hình chính trị thế giới và trong quan hệ quốc tế.
-
Ngày nay, các quốc gia dân tộc vừa có những thời cơ phát triển thuận lợi,
đồng thời vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay gắt.
Phần 3: Tổng kết
Như vậy, chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội, mang tính lịch sử,
biểu hiện bằng các cuộc xung đột vũ trang. Xuất phát từ những mâu thuẫn tư tưởng
khác nhau, đối nghịch nhau. Nguyên nhân của những mâu thuẫn này bắt nguồn từ
những tham vọng của con người, khi những tham vọng đối nghịch này tác động với
nhau đến mức cực hạn, căng thẳng, cao trào thì chính điều đó sẽ là chất xúc tác châm
ngòi cho một cuộc chiến tranh sắp bùng nổ. Chỉ khi nào tồn tại hai mâu thuẫn, hai hệ
tư tưởng, hai thế lực khác nhau thì chiến mới thật sự tồn tại.
Chiến tranh là hiện tương mang tính tiêu cực. Hậu quả mà chiến tranh mang lại
là vô cùng nặng nề. Điểm nhìn lại cuộc chiến trong quá khứ đã có hàng triệu sinh đã
hy sinh một cách vơ nghĩa chỉ vì chiến tranh. Không chỉ mang lại sự mất mát về người
mà ở đó cịn là sự phát hủy về vật chất, các nền kinh tế và cả các nền văn minh của
nhân loại, tiêu biểu là các cuộc chiến phi nghĩa như: Thế chiến I, Thế chiến thứ II và
chiến tranh Đông Dương.
Chiến tranh không chỉ là một tội ác mà ở đó nó cịn vạch trần bộ mặt thật của
nhân loại. Những tham vọng, dục vọng, sự thèm khát địa vị, bành trướng sức mạnh.
Bắt nguồn từ những điều tiêu cực của con người mà biết bao gióng nịi phải sống trong
cảnh lầm than. Những tội ác đã được lịch sử ghi lại, trong bản Tuyên ngôn độc lập của
Hồ Chí Minh đã thẳng thừng nói lên tội ác của thực dân Pháp đã gây nên cho đất nước
Việt Nam. Nạn đói năm Ât Dậu đã lấy đi biết bao những tổn thương mất mát và đỉnh
điểm là :‘‘Từ cuối năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ hơn hai triệu
người dân ta đã bị chết đói”. Song chiến tranh luôn mang lại mất mát dù ở bất cứ một
quy mô nào.
Chiến tranh là một hiện tượng tiêu cực nhưng nếu chúng ta đặt chiến tranh dưới
góc nhìn lạc quan thì chiến tranh cũng mang lại sự tích cực.
Chiến tranh xâm lược là một cuộc chiến tiêu cực nhưng trái lại thì chiến tranh
cách mạng là cuộc chiến tích cực. Chiến tranh cách mạng được coi là thai nghén cho
sự ra đời của xã hội mới (VD: chiến tranh Cách mạng Mĩ, chiến tranh Cách mạng Việt
Nam (1945-1975),…).
Chúng ta phải bảo vệ hịa bình để ngăn chặn chiến tranh. Tất cả mọi người
không ai mong muốn sẽ có chiến tranh xảy ra. Việc chiến tranh diễn ra sẽ mất đoàn
kết giữa các nước, phá hoại đất nước, nhà cửa, hao tổn nền kinh tế, phá hỏng nhà cửa,
của cải, vật chất. Bất kể ai được sinh ra đều có quyền được sống và bảo vệ mạng sống
của chính mình. Vì vậy, chiến tranh là một điều phi lí và hãy bảo sự bình yên ngay tại
thời điểm này và cả cho tương lai mai sau !
Tài liệu tham khảo
1.
Paul Goodman, The 8 main reasons for war
( sciences/The-Main-Reasons-For-War ;truy
cập ngày 18/04/2021) - Dịch Giả: Nguyễn Kim Phượng - Nguồn: ToMo:
Learn Something New.
2.Phan Ngọc Liên (2014), Lịch sử 12, Nxb Giáo dục, tr.58.
3.
Đào Huy Hiệp - Nguyễn Mạnh Hưởng - Lưu Ngọc Khải (2013),Giáo trình
giáo dục quốc phịng – an ninh, Nxb Giáo dục Việt Nam, tr.12.
4.
Cơng ty Luật TNHH Minh Khuê,Chiến tranh là gì? Tìm hiểu về chiến
tranh
( />- nhu-the-nao--.aspx ;truy cập ngày 07/06/2021).