Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Những dự báo của chủ nghĩa xã hội khoa học về xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.95 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC VÀ KHXH

TIỂU LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Chủ đề 3:
Những dự báo của Chủ nghĩa xã hội khoa học về xã hội Cộng sản chủ
nghĩa tương lai. Liên hệ những vấn đề ở Việt Nam hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn

:

Họ và tên

:

Lớp

:

Mã sinh viên

:

Hà Nội, ngày 3 tháng 10 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
NỘI DUNG.............................................................................................................2


1. Thế nào là Chủ nghĩa cộng sản?.......................................................................2
2. Những dự báo của CNXHKH về xã hội Cộng sản chủ nghĩa tương lai...........3
2.1. Sở hữu.........................................................................................................5
2.2. Phân phối....................................................................................................6
2.3. Giai cấp.......................................................................................................6
2.4. Nhà nước.....................................................................................................7
3. Sự liên hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản..................................8
3.1. Điểm tương đồng........................................................................................8
3.2. Điểm khác biệt............................................................................................9
4. Liên hệ vấn đề ở Việt Nam hiện nay...............................................................10
KẾT LUẬN...........................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................13


MỞ ĐẦU
Kế thừa những nhân tố tích cực của các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không
tưởng trong lịch sử và những tinh hoa của nhân loại; khảo sát và phân tích thực tiễn
của chủ nghĩa tư bản, Các Mác và Phriđrích Ăngghen đã sáng lập ra một lý thuyết
khoa học về chủ nghĩa xã hội, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa Mác-Lênin
bao gồm ba bộ phận hợp thành là triết học Mác - Lênin, kinh tế học chính trị Mác Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, trở thành một học thuyết khoa học và hoàn
chỉnh, trở thành hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân hiện đại,
soi đường cho cách mạng xã hội chủ nghĩa giải phóng nhân loại khỏi chế độ tư hữu,
áp bức bất công và nghèo nàn lạc hậu.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một ý nghĩa – về mặt lý luận nằm trong khái niệm
“chủ nghĩa xã hội”, là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác-Lênin,
nghiên cứu sự vận động xã hội nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Qua việc học môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, em đã có nhận thức vềiệc việc tìm
hiểu những vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội xung quanh mình. Do đó bài tiểu luận
này em xin trình bày chủ đề 3: “Những dự báo của Chủ nghĩa xã hội khoa học về xã

hội Cộng sản chủ nghĩa tương lai. Liên hệ những vấn đề ở Việt Nam hiện nay” nhằm
phân tích những chế độ xã hội, tư tưởng về tầng lớp, giai cấp, từ đó áp dụng vào thực
tế của Việt Nam.

1


NỘI DUNG
1. Thế nào là Chủ nghĩa cộng sản?
Chủ nghĩa cộng sản là một hình thái kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ
việc thiết lập xã hội phi nhà nước, không giai cấp, tự do, bình đẳng, dựa trên sự sở
hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất nói
chung. C.Mác cho rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của lịch sử, đạt
được qua một cuộc cách mạng vô sản. Trong xã hội cộng sản, các quyết định về
việc sản xuất cái gì và theo đuổi những chính sách gì được lựa chọn một cách dân
chủ, cho phép mọi thành viên của xã hội tham gia vào q trình quyết định trong cả
hai lĩnh vực chính trị và kinh tế. Việc sản xuất và phân phối của cải được tiến hành
công bằng giữa các công dân. Karl Marx chưa bao giờ miêu tả chi tiết về việc chủ
nghĩa cộng sản sẽ vận hành như thế nào trong vai trò một hệ thống kinh tế - xã hội,
nhưng người ta hiểu rằng một nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ dựa trên sở hữu toàn
dân đối với các tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa cộng sản cố gắng đưa ra một giải pháp khác cho các vấn đề của kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa và di sản của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân tộc.
C.Mác khẳng định rằng cách duy nhất để giải quyết các vấn đề này là tầng lớp lao
động (vô sản), những người mà theo ơng là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất
trong xã hội và là những người bị tầng lớp tư bản (tư sản) bóc lột, đứng lên làm tầng
lớp cầm quyền thay cho giới tư sản để thiết lập một xã hội tự do, không phân biệt giai
cấp hay chủng tộc.
Người lao động đã được tổ chức thành giai cấp thống trị sẽ tước bỏ quyền tư hữu
và kiểm sốt tư liệu sản xuất vì lợi ích của xã hội. Theo quan điểm của những người

cộng sản, chủ nghĩa cộng sản là con đường để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng nhân loại. Thực hiện chủ nghĩa cộng sản thông qua cách mạng, bao gồm
cách mạng lật đổ chế độ "người bóc lột người", và cách mạng xây dựng xã hội mới.
2


Trong vai trị một hệ tư tưởng chính trị, chủ nghĩa cộng sản thường được xem là
một nhánh của chủ nghĩa xã hội; một nhóm học thuyết triết học chính trị và kinh tế
được rút ra từ nhiều phong trào chính trị và tri thức có nguồn gốc từ các tác phẩm của
các nhà lý thuyết của Cách mạng Công nghiệp và Cách mạng Pháp. Nhánh kia là lý
luận của các đảng Dân chủ xã hội hiện có nhiều ảnh hưởng tại Tây Âu và Bắc Âu. Do
cùng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, các đảng cộng sản và Dân chủ xã
hội thường có quan hệ đồng minh với nhau thành một lực lượng chung được gọi
là cánh tả.
Chủ nghĩa cộng sản bắt nguồn từ phương Tây nhưng càng di chuyển về phương
Đông càng bị biến đổi tùy theo tâm lý, văn hóa và những điều kiện kinh tế - xã hội
của địa phương mà nó đi qua làm nảy sinh ra những trường phái tư tưởng cộng sản
khác nhau với cách hiểu khác nhau về chủ nghĩa cộng sản. Những hình thức nổi bật
của chủ nghĩa cộng sản, chẳng hạn như Chủ nghĩa Lenin, Chủ nghĩa Stalin, Chủ nghĩa
Mao và Chủ nghĩa Trotsky, đều kế thừa từ Chủ nghĩa Marx, nhưng giữa chúng có
những khác biệt tùy theo cách hiểu và bối cảnh xã hội mà nhà lý luận chịu ảnh hưởng.
2. Những dự báo của CNXHKH về xã hội Cộng sản chủ nghĩa tương lai.
Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp
các lý luận chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với các phong trào xã
hội, phong trào chính trị rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ XIX, nở rộ và thoái trào trong thế
kỷ XX - nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội khơng giai cấp, khơng
có sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trong đó mọi người là bình đẳng, khơng có hiện
tượng "người bóc lột người" và tiến tới xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới
đại đồng" khơng có biên giới quốc gia khi người với người là bạn, thương yêu lẫn
nhau. Tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra dồi dào tới mức phân

phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
Trong xã hội cộng sản, mỗi cá nhân được tự do phát huy mọi khả năng của mình
theo triết lý "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
3


tất cả mọi người", tự do làm những điều không ảnh hưởng đến lợi ích và quyền tự do
của người khác trên cơ sở tư liệu sản xuất chung để đảm bảo quyền tự do của tất cả
mọi người. Các ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản đã có trước Mác từ rất lâu tại các nền
văn minh khác nhau và được nhiều nhà tư tưởng đề cập đến. Có thể tìm thấy các ý
tưởng này trong Cơng giáo, Đạo giáo, Nho giáo và nhiều tôn giáo khác. C.Mác là
người đưa ra khả năng hiện thực hóa các ý tưởng đó trong tương lai dựa trên nền tảng
kinh tế - xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra và xem đó như một sự tiến hóa của xã hội
lồi người.
Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa này chưa tồn tại. Theo Mác, khi lực lượng
sản xuất của chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển, tất yếu dẫn tới nền sản xuất ngày
càng mang tính xã hội hóa do nó địi hỏi sự hợp tác của nhiều người khiến tư hữu mất
vai trò đối với lực lượng sản xuất, thay vào đó lực lượng sản xuất cần được quản lý vì
lợi ích xã hội. Theo Mác: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến
cái điểm mà chúng khơng cịn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa...
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của
một quá trình tự nhiên" Quan hệ sản xuất đặc trưng: quan hệ hợp tác sản xuất bình
đẳng với nhau, lực lượng sản xuất được quản lý vì lợi ích của xã hội.
Ý tưởng ban đầu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân
đạo và chủ nghĩa tự do với mục tiêu giải phóng con người và xã hội. Vì lý tưởng nhân
đạo của nó, học thuyết này đã thu hút được sự chú ý của các tầng lớp quần chúng của
thế giới trong thế kỷ XX, tạo nên một phong trào xã hội to lớn mà cuộc đấu tranh của
nó là một nhân tố chủ đạo trong lịch sử loài người trong thế kỷ XX. Tuy vậy, xã hội
cộng sản chủ nghĩa khơng cịn nhà nước, quân đội, tư hữu, giai cấp, tôn giáo, xóa bỏ
các mâu thuẫn sắc tộc đến nay vẫn chỉ là lý tưởng đẹp, chưa trở thành hiện thực.

Theo Mác, một con người sống ở thời đại của một hình thái kinh tế-xã hội cũ sẽ rất
khó hình dung hình thái kinh tế-xã hội mới sẽ ra sao, họ thường khơng tin xã hội lồi
người sẽ biến chuyển sâu sắc như vậy (ví dụ: một người sống ở thời phong kiến thế
kỷ XVI sẽ cho rằng một xã hội không có vua chúa chỉ là chuyện hoang đường, nhưng
4


400 năm sau điều đó đã trở thành sự thực ở đa số các nước trên thế giới). Cũng như
vậy, vào thời của Mác, người ta chưa thể mường tượng một xã hội khơng có các ơng
chủ tư bản sẽ tổ chức sản xuất ra sao, và làm thế nào mà mọi cơng dân đều có thể
hưởng các phúc lợi xã hội (giáo dục, y tế, nhà ở, ăn mặc...) một cách miễn phí. Nhiều
người nghĩ mơ hình do Mác tiên đốn chỉ là viển vơng. Nhưng đến đầu thế kỷ XXI thì
những yếu tố ban đầu đã có thể nhận thấy: các công ty cổ phần ngày càng chiếm ưu
thế so với công ty một chủ sở hữu, các công nghệ mới như robot, tin học, nano, lượng
tử... bắt đầu hình thành. Khi được nghiên cứu hồn chỉnh, các công nghệ mới sẽ đẩy
khả năng sản xuất lên rất cao, vượt xa nền sản xuất công nghiệp truyền thống trong
khi chi phí sản xuất sẽ rất rẻ (Ví dụ: chỉ cần 1 nhóm vài người, với sự trợ giúp
của robot tự động có thể làm ra lượng sản phẩm tương đương hàng vạn cơng nhân
hiện nay; hoặc một lít nước có thể tạo ra năng lượng bằng hàng triệu tấn than thông
qua phản ứng hợp hạch nhân tạo). Do sản lượng rất lớn và chi phí ngày càng thấp, các
mặt hàng cơ bản sẽ được giảm giá tới mức chúng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng
thu nhập của người lao động. Khi đó một người lao động khơng cần bỏ nhiều cơng
sức cũng có thể ni sống cả gia đình ở mức sung túc.
2.1.

Sở hữu.

Trong xã hội cộng sản khơng cịn sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, khơng cịn sự
phân phối thu nhập xã hội dựa trên lao động, khơng cịn sự tha hóa của lao động là
đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Con người được giải phóng khỏi phân cơng lao động

do nền sản xuất công nghiệp tạo ra để phát huy hết sở trường của mình. Đặc điểm
khác biệt của chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa xã hội chỉ đạt mục
đích tư liệu sản xuất thuộc về tồn dân thơng qua Nhà nước quản lý, (hay hình thức sở
hữu tập thể, hợp tác, công xã hoặc sở hữu xã hội hóa - quản lý kiểu vơ chính phủ), cịn
khơng hướng đến sự xóa bỏ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, xóa bỏ sự phân phối thu
nhập xã hội theo lao động.

5


2.2.

Phân phối.

Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa nền sản xuất chưa phát triển đến mức đủ sức thỏa
mãn nhu cầu của tất cả mọi thành viên trong xã hội nên nguyên tắc phân phối của cải
trong chủ nghĩa xã hội là "Làm theo năng lực, hưởng theo lao động" có nghĩa là làm
đúng với khả năng, và được hưởng theo đúng đóng góp cho xã hội. Do có sự chênh
lệch kỹ năng, trí tuệ, thể lực giữa các thành viên trong xã hội nên sẽ có sự bất bình
đẳng trong phân phối của cải xã hội. Sự bất bình đẳng của cải sẽ được xóa bỏ khi lực
lượng sản xuất phát triển cao đủ sức thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi người. Việc
phân phối thu nhập xã hội theo lao động bị thay thế bằng phân phối theo nhu cầu.
Theo Mác: "Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng đang chiếm hữu
những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu
ấy để nô dịch lao động của người khác".
2.3.

Giai cấp.

Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa, vẫn cịn có sự phân cơng lao động do đó vẫn tồn

tại giai cấp theo phân cơng lao động là cơng nhân và nơng dân, và tầng lớp trí thức.
Sự phát triển của trình độ sản xuất sẽ dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất, đưa
đến sự xóa nhịa giai cấp, và xóa nhịa ranh giới lao động trí óc - chân tay. Sau khi
giành được chính quyền, quốc hữu hóa các tư liệu sản xuất, giai cấp vô sản công nông
tự tổ chức xã hội mới, xây dựng con người mới có đủ trình độ, ý thức để làm chủ xã
hội, có trách nhiệm với xã hội, với cộng đồng trên tình thân ái, giúp đỡ lẫn nhau, với
tư liệu sản xuất chung, dần xóa nhòa ranh giới giàu - nghèo trên tinh thần cộng đồng,
bác ái, bằng lao động chân chính (chứ khơng phải người nghèo "nhận bố thí" của
người giàu trong các mơ hình xã hội chủ nghĩa kiểu an sinh hay thiện nguyện). Cách
mạng xây dựng xã hội mới thông qua lao động mà Lenin cho rằng "Đó là bước đầu
của một cuộc cách mạng khó khăn hơn, căn bản hơn, triệt để hơn, quyết liệt hơn là
việc lật đổ giai cấp tư sản, vì đó là một thắng lợi đối với bệnh thủ cựu của chúng ta,
đối với tình trạng lơi lỏng của chúng ta, đối với bệnh ích kỷ tiểu tư sản của chúng ta,
6


đối với những tập quán của chủ nghĩa tư bản tệ hại đã để lại cho công nhân và nông
dân".
2.4.

Nhà nước.

Theo phương pháp luận của Mác (duy vật lịch sử) thì khi xóa bỏ giai cấp và tư
hữu, thì Nhà nước tự diệt vong, vì cơ sở tồn tại của nó là tư hữu và giai cấp khơng cịn
nữa. Lúc đó chế độ cộng sản được xây dựng dựa trên nền tảng sở hữu công cộng và
làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Lenin cũng cho rằng "Nhà nước là sản phẩm
và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được. Bất cứ đâu, hễ
lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp khơng thể
điều hịa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là khơng thể điều hịa được." Chính vì thế theo Lenin

"Mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ tiêu nhà nước, nghĩa là thủ tiêu
mọi bạo lực có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo lực, nói chung, đối với con người.
Chúng ta khơng mong có một chế độ xã hội mà trong đó nguyên tắc thiểu số phục
tùng đa số sẽ không được tuân theo. Nhưng khi hướng đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta
tin chắc rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, và do đó, nói
chung sẽ khơng cịn cần thiết phải dùng bạo lực đối với con người, không cần thiết
phải buộc người này phục tùng người khác, bộ phận dân cư này phục tùng bộ phận
dân cư khác, vì người ta sẽ quen tuân theo những điều kiện thơng thường của đời sống
tập thể, mà khơng cần có bạo lực và khơng cần có phục tùng".
Lenin quan niệm chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản, là
giai đoạn chuyển tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản mà ở đó vẫn cịn nhà nước để lãnh
đạo xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Vai trò nhà nước và pháp luật mờ dần đi khi nhân
dân tự gánh vác các công việc xã hội, điều hịa lợi ích, giảm thiểu mâu thuẫn, trên cơ
sở tư liệu sản xuất chung, phân phối công bằng và đầy đủ, thỏa mãn. Giai cấp vô sản
giành quyền lực trên tồn thế giới, giai cấp vơ sản các nước tiên tiến hơn giúp đỡ giai
cấp vô sản các nước lạc hậu hơn tiến kịp. Như vậy cùng với sự nghiệp xây dựng thành
7


công chủ nghĩa xã hội và cộng sản trong mỗi nước, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
cộng sản trên toàn thế giới là sự nghiệp chung của vơ sản tồn nhân loại. Khi các
nước hoàn thành xây dựng chủ nghĩa cộng sản, toàn bộ Nhà nước và hệ thống pháp
luật trên tồn thế giới khơng cịn cần thiết nữa, các quốc gia biến mất. Chủ nghĩa đại
đồng cũng là để bảo đảm công bằng chiếm hữu tài nguyên của các dân tộc khác nhau
trên toàn thế giới, và triệt tiêu chủ nghĩa đế quốc.
3. Sự liên hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
3.1.

Điểm tương đồng.


Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản đều bắt nguồn từ việc phản đối việc bóc
lột, chế độ tư hữu của các địa chủ, các chủ doanh nghiệp giàu có trong cuộc cách
mạng Công nghiệp. Chế độ ra đời nhằm phản ánh tình trạng làm việc q sức, hết sức
bóc lột người lao động thời đó, khi mà họ phải làm việc từ 12 đến 14h/1 ngày và 6
ngày/1 tuần.
Không những thường xuyên phải làm việc trong môi trường nghèo nàn mà người
lao động khi đó cịn làm việc trong điều kiện tệ hại như: khơng có các bữa trưa, thiếu
sánh áng, điều kiện làm việc khơng an tồn, khơng có hệ thống thơng gió, máy sưởi,
máy móc thường xun bị hư hại,….
Để chống lại các vấn đề hết sức bóc lột của chủ nghĩa Tư bản, C.Mác Ph.Ăngghen
đã cho ra đời hình thái kinh tế xã hội và hệ thống tư tưởng chính trị mới: Chủ nghĩa
Cộng sản.
Mác và Ăngghen lên án, chỉ trích chế độ tư hữu, lạm dụng sức lao động của Chủ
nghĩa tư bản khi đó và đưa ra giả thuyết rằng tầng lớp lao động (vô sản) cần đứng lên
cầm quyền thay cho giới tư bản nhằm thiết lập trật tự xã hội mới, không cịn một tư
liệu sản xuất (ví dụ như: nhà máy, đất đai, máy móc…) nào là tư hữu. Tất cả đều là
của chung, của cải vật chất làm ra sẽ được chia đều cho mọi người, hướng đến thiết

8


lập một xã hội tự do, khơng có sự phân chia giai cấp, chủng tộc trong cộng đồng, hệ
thống chính trị.
Chủ nghĩa xã hội về lý thuyết thì giống với Chủ nghĩa Cộng sản trên vài phương
diện, Chủ nghĩa Xã Hội hướng đến bình đẳng giai cấp trong xã hội, tạo ra một xã hội
trật tự và thường nhấn mạnh các giá trị cơ bản như bình đẳng, cơng bằng, đồn kết.
3.2.

Điểm khác biệt.


Cả hai hệ thống tư tưởng chính trị đều hướng đến khơng có sự phân chia giai cấp,
tuy nhiên thì cả hai đều khác nhau trong những vấn đề cơ bản. Chủ nghĩa xã hội ít
thiên tả hơn – quyền lực ít tập trung vào Chính phủ. Với Chủ nghĩa Cộng sản
thì Chính phủ sẽ kiểm sốt hoàn toàn tư liệu sản xuất và chia đều cho mọi người thì
Chủ nghĩa Xã hội cho phép các hợp tác xã của cơng nhân được quyền quản lý máy
móc, nhà xưởng. Lí do có sự khác biệt này là Chủ nghĩa Cộng sản thì chia đều của cải
cho mọi người, trong khi đó thì Chủ nghĩa xã hội phân chia của cải dựa trên đóng góp,
cơng sức của mỗi cá nhân vào trong xã hội.
Chủ nghĩa Cộng sản hướng đến tất cả nguồn lực kinh tế đều thuộc sở hữu cơng
khai và do Chính phủ kiểm sốt tồn bộ, không một ai được quyền tư hữu tài sản cá
nhân, tất cả mọi người đều bình đẳng. Trong khi đó thì trong một Xã hội chủ nghĩa
thì các cá nhân được quyền sở hữu tài sản riêng, nhưng tất cả các năng lực sản xuất
(con người, cơ sở vật chất và quá trình quản lý, tổ chức sản xuất) thì thuộc sở hữu của
cộng đồng và được quản lý bởi một Chính phủ được bầu ra một cách dân chủ.
Trong thực tế, việc hướng đến một Chủ nghĩa Cộng sản gần như là không tưởng,
khi mà Chủ nghĩa Cộng sản thuần túy vẽ nên một bức tranh thiên đường nơi mà
nguồn cung, tài nguyên, sản phẩm và phương thức sản xuất dồi dào, tiến bộ đến mức
con người có quyền làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.
Cực kì khó để một xã hội đạt đến mức đó vì Chủ nghĩa Cộng sản đã bỏ qua những
yếu tố tâm lý, sự lười biếng, lịng tham của con người. Đặt ví dụ như 100 người trong
9


1 xã hội và 99 người muốn hưởng thụ gấp đơi người khác, trong khi chỉ có 1 người
lao động, không những tài nguyên không thể đáp ứng mà cả phương thức sản xuất tối
tân cũng khó lịng đáp ứng được điều đó, dẫn đến khơng thể nào sản xuất ra được của
cải, vật chất đáp ứng được nhu cầu của cả 100 người.
Sau cùng thì trong xã hội cộng sản các nhà quản lý sẽ lấy sản phẩm, thành quả chia
đều cho mọi người một cách tùy tiện bất kể người lao động bỏ ra nhiều hay ít cơng
sức, nhiều tầng lớp công nhân, lao động nhận ra điều đó và họ dần bng bỏ. Ngược

lại thì Chủ nghĩa xã hội dựa trên tiền đề người dân sẽ được chia của cải dựa trên
mức độ đóng góp của từng cá nhân vào nền kinh tế. Vì vậy, nỗ lực đóng góp, sự
đổi mới của các cá nhân sẽ được hưởng thụ đúng với cơng sức họ góp vào nền kinh
tế.
Ngày nay trên thế giới chỉ còn hai quốc gia duy nhất theo đuổi chủ nghĩa cộng sản
là Bắc Hàn và Cuba. Trung Quốc và Việt Nam đã thực hiện nền kinh tế tư bản, tuy
nhiên thì vẫn giữ trật tự chính trị theo Cộng sản. Một số nước tiên tiến đã áp dụng
được đường lối của chủ nghĩa xã hội kết hợp với chủ nghĩa tư bản nhằm đạt được mục
tiêu lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản và các phúc lợi của của chủ nghĩa xã hội như:
Pháp, Anh, Thụy Điển,… giúp tạo động lực phát triển kinh tế, an tâm cho người dân.

4. Liên hệ vấn đề ở Việt Nam hiện nay.
Tại Việt Nam hiện nay, từ khi học tập, tiếp thu những tư tưởng của chủ nghĩa Mác
Lenin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước ta đã giành được độc lập dân tộc
và đi lên Chủ nghĩa xã hội. Chúng ta luôn phản đối việc bóc lột sức lao động của
người dân, mục tiêu là tất cả mọi người đều được sống, đối xử bình đẳng, cơng bằng
như nhau. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu của các địa chủ đã thể hiện rõ trong những năm
1955. Tuy nhiên nước ta là nước có chế độ xã hội chủ nghĩa chứ khơng phải cộng sản
chủ nghĩa, nên Nhà nước khơng kiểm sốt hồn toàn tư liệu sản xuất mà chúng ta làm
theo khả năng, hưởng theo nhu cầu. Những người lao động chăm chỉ, cần cù và có ý
10


chí phấn đấu sẽ được hưởng thành quả lao động nhiều hơn những người lười nhác,
khơng có ý chí phấn đấu trong xã hội. Đây là hệ quả tất yếu sau khi xóa bỏ chế độ bao
cấp, bởi trong xã hội sẽ có những người lười biếng khơng muốn làm chỉ muốn hưởng
thụ, và như đã phân tích ở trên, khơng có chuyện 1 người làm và 99 người ăn được
bởi lịng tham con người là vơ đáy.
Đất nước chúng ta đã thực hiện nền kinh tế tư bản, cụ thể là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Người dân có tồn quyền cạnh tranh với nhau để phát triển

kinh tế - xã hội tuy nhiên phải nằm dưới sự điều hành, quản lý của Nhà nước. Bên
cạnh đó, thể chế chính trị - xã hội nước ta vẫn theo Cộng sản. Chỉ có một Đảng duy
nhất đại diện cho toàn thể nhân dân quản lý các vấn đề xã hội, kinh tê, chính trị và bảo
vệ những lợi ích chính đáng của nhân dân. Điều này giúp nước ta có một nền chính trị
ổn định, một xã hội trật tự, an toàn. Đây là điều kiện chính để thu hút đầu tư kinh tế từ
trong và ngồi nước. Việt Nam nói riêng và các quốc gia nói chung, để có một nền
kinh tế phát triển thì điều kiện tiên quyết là nền chính trị phải ổn định, mà kinh tế phát
triển thì nhân dân mới có đời sống ấm no, hạnh phúc, tránh được các tệ nạn xã hội
trong nhân dân.

11


KẾT LUẬN
Những dự báo của Chủ nghĩa xã hội khoa học về xã hội cộng sản tương lai đều
được tạo dựng lên để cải thiện đời sống của những người bình thường và sự chia sẻ
của cải cơng bằng hơn.
Tuy nhiên, Chủ nghĩa Cộng sản không đem lại sự năng động, động lực để làm
việc. Sau cùng, các nhà quản lý trung ương sẽ lấy lại mọi sản phẩm và chia đều chúng
một cách tùy tiện, bất kể bạn bỏ ra bao nhiêu cơng sức vào cơng việc. Điều đó dẫn
đến sự nghèo nàn và sự bần cùng hóa. Tầng lớp cơng nhân nhanh chóng nhận ra rằng
họ khơng được hưởng lợi từ việc làm việc chăm chỉ hơn, và họ từ bỏ. Trái ngược lại,
chủ nghĩa xã hội tưởng thưởng sự chăm chỉ. Cuối cùng, phần lợi nhuận giữa những
người lao động được phân phát dựa trên công sức, sự đóng góp của người đó cho xã
hội.
Tùy vào từng điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia mà sẽ thực hiện những chế độ
xã hội khác nhau. Tuy nhiên mục đích chung vẫn là đem lại cuộc sống ấm no cho
người dân, trật tự xã hội được bảo đảm và kinh tế phát triển.

12



TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học – ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà
Nội
- Website: wikipedia.org
- />
13



×