Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

HOẠT ĐỘNG MẬU DỊCH VÀ ĐẦU TƯ CỦA ẤN ĐỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.66 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN: CHỦ ĐỀ 6

“HOẠT ĐỘNG MẬU DỊCH VÀ ĐẦU
TƯ CỦA ẤN ĐỘ”

GVHD :Ts NGUYỄN HÙNG PHONG
MÔN: QTKD Quốc Tế
LỚP: MBA10B
HVTH:Nhóm_6
1.
2.
3.
4.

Lê Thị Linh Đa
Nguyễn Phương Thùy
Nguyễn Văn Tuyên
Hồ Văn Cứ

TP HỒ CHÍ MINH
Ngày 16-07-2012

[Type text]

Page 1


1.Tổng quan về Ấn Độ:


Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết bán đảo Ấn Độ. Ấn Độ có ranh giới với
Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và Afghanistan. Ấn Độ là
nước đơng dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ người, và đồng thời lớn thứ bảy
về diện tích.
Cộng hồ Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Sự thiết
lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những người tại Nam Á để thoát
khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh.
Địa lý:
Lãnh thổ Ấn Độ chiếm một phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ, nằm trên Mảng kiến tạo Ấn Độ
(India Plate), phần phía bắc Mảng kiến tạo Ấn-Úc, phía nam Nam Á. Các bang phía bắc
và đơng bắc Ấn Độ nằm một phần trên dãy Himalaya. Phần cịn lại ở phía bắc, trung và
đơng Ấn gồm đồng bằng Ấn-Hằng phì nhiêu. Ở phía tây, biên giới phía đông nam
Pakistan, là Sa mạc Thar. Miền nam Bán đảo Ấn Độ gồm toàn bộ đồng bằng Deccan,
được bao bọc bởi hai dãy núi ven biển, Tây Ghats và Đông Ghats.
Khí hậu Ấn Độ đa dạng chính là lý do khiến Ấn Độ được liệt vào quốc gia có đa dạng sinh
học cao nhất thế giới, cả về số loài và số lượng cá thể. Số loài động thực vật ở tiểu lục địa
Ấn Độ chỉ đứng thứ hai trên thế giới sau tồn Châu Phi, và có nhiều lồi chỉ có mặt tại
đây. Ấn Độ hiện là quê hương của hơn 3000 hổ Bengal, 10000 voi châu Á và khoảng 8000
con bị tót, những lồi thú q hiếm bậc nhất thế giới.
Kinh tế:

Chỉ số nhạy cảm của Thị trường chứng khoán Bombay được sử dụng làm yếu tố xác định
sức mạnh của kinh tế Ấn Độ
Kinh tế Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới nếu tính theo sức mua ngang giá, với GDP
tính theo đơla Mỹ đạt 3.63 nghìn tỷ. Nếu tính theo tỷ giá hối đối với USD, nó là nền kinh
tế lớn thứ mười hai thế giới với GDP tính theo đơla Mỹ đạt 775 tỷ (2005). Ấn Độ là nền
kinh tế phát triển nhanh thứ hai thế giới, với tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt 8.1% ở cuối quý
đầu tiên năm 2005–2006. Tuy nhiên, dân số khổng lồ của Ấn Độ khiến thu nhập trên đầu
người đứng ở mức $3.400 và được xếp vào hạng nước đang phát triển.
Trong đa phần lịch sử độc lập của mình Ấn Độ ln có khuynh hướng tiếp cận chủ nghĩa

xã hội, với quản lý chặt chẽ của chính phủ trên lĩnh vực tư nhân, thương mại nước ngoài,
và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đầu thập kỷ 1990, Ấn Độ đã dần mở cửa thị trường
thông qua các biện pháp cải cách kinh tế bằng cách giảm bớt quản lý chính phủ trên
thương mại nước ngồi và đầu tư. Tư nhân hố các ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà

[Type text]

Page 2


nước và mở cửa một số lĩnh vực cho các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài dần xuất hiện
trong những cuộc tranh luận chính trị.
Ấn Độ có một lực lượng lao động 496.4 triệu người trong số đó nông nghiệp chiếm 60%,
công nghiệp 17%, và dịch vụ 23%. Nơng nghiệp Ấn Độ sản xuất ra gạo, lúa mì, hạt dầu,
cốt tơng, sợi đay, trà, mía, khoai tây; gia súc, trâu, cừu, dê, gia cầm và cá. Các ngành cơng
nghiệp chính gồm dệt may, hóa chất, chế biến thực phẩm, thép, thiết bị vận tải, xi măng,
mỏ, dầu khí và cơ khí.
Gần đây, Ấn Độ cũng đã lợi dụng được số lượng đơng đảo dân số có trình độ học vấn cao,
thành thạo tiếng Anh để trở thành một vị trí quan trọng về dịch vụ thuê làm bên ngoài
(outsourcing), tư vấn khách hàng (customer service) và hỗ trợ kỹ thuật của các cơng ty
tồn cầu. Nó cũng là một nước xuất khẩu hàng đầu về nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực
dịch vụ phần mềm, tài chính và chế tạo phần mềm. Đối tác thương mại quan trọng nhất
của Ấn Độ là Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, và Các Tiểu Vương
quốc Ả Rập Thống nhất.
Dân cư
Ấn Độ là nước đông dân thứ hai trên thế giới với ước tính khoảng 1,19 tỷ người năm
2006. Hầu hết 70% dân số sống tại các vùng nông thôn. Vùng thành thị đông dân nhất là
Mumbai, Kolkata, Delhi, Chennai và Bangalore. Những nỗ lực nhằm loại trừ tình trạng
mù chữ đã đạt được những thành cơng đầu tiên. Năm 1947 tỷ lệ biết chữ tại Ấn Độ là
11%. Ngày nay, 65,1% dân số (53,4% phụ nữ, 75,3% nam giới) có thể đọc và viết. Tình

trạng nạo thai để lựa chọn giới tính và giết trẻ sơ sinh vẫn tồn tại ở các vùng nông thôn. Tỷ
lệ giới tính quốc gia là 933 phụ nữ trên 1000 nam giới. Độ tuổi trung bình là 24,66, và tỷ
lệ tăng dân số là 22,32 trẻ trên 1000.
Văn hoá
Ấn Độ có một di sản văn hóa phong phú và đặc trưng duy nhất, và họ ln tìm cách giữ
gìn những truyền thống của mình trong suốt thời kỳ lịch sử trong khi vẫn hấp thu các
phong tục, truyền thống và tư tưởng từ phía cả những kẻ xâm lược và những người dân
nhập cư. Nhiều hoạt động văn hố, ngơn ngữ, phong tục và các cơng trình là những ví dụ
cho sự đan xen văn hóa qua hàng thế kỷ đó. Những cơng trình nổi tiếng như Taj Mahal và
các cơng trình kiến trúc có ảnh hưởng Hồi giáo là di sản từ triều đại Mughal. Chúng là kết
quả của một truyền thống hợp nhất mọi yếu tố từ mọi phần của quốc gia.
2.Những biến đổi của nền kinh tế Ấn Độ sau khi hội nhập quốc tế:
Ấn Độ cho đến thập kỷ 80, chiến lược hướng nội và kế hoạch hóa nền kinh tế đã
kìm hãm sự phát triển. Công cuộc cải cách bắt đầu từ cuối thập kỷ 80, đầu 90 với q trình
tự do hóa thương mại và tư nhân hóa đã thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh. Điểm đặc
biệt của Ấn Độ là quốc gia này đã nắm bắt được xu thế phát triển và những cơ hội to lớn
của cuộc cách mạng thông tin để phát triển ngành công nghệ phần mềm, tạo nên một bước
[Type text]

Page 3


đột phá trong phát triển. Rất có thể đây là một con đường độc đáo, tận dụng ưu thế quốc
gia và những cơ hội to lớn của công nghệ mới đã giúp Ấn Độ khơng phải trải qua q trình
cơng nghiệp hóa tuần tự thơng thường, mà là một bước nhảy vọt lên một tầng nấc mới của
phát triển.

Từ sau khi giành được độc lập năm 1947 cho đến đầu thập niên 90, Ấn Độ áp dụng một
chiến lược tăng trưởng do chính phủ kiểm sốt và điều hành trực tiếp. Theo Daniel Yergin
and Joseph Stanislaw (2002), kết quả của đường lối kinh tế đóng và kế hoạch hố đã dẫn

Ấn Độ đến một hệ thống kinh tế có ba điểm bất hợp lý.

Điểm bất hợp lý thứ nhất là “Chế độ Cấp phép – Permit Raj” - một hệ thống kiểm soát và
cấp phép phức tạp, bất hợp lý và khó hiểu, kiểm sốt mọi bước đi trong sản xuất, đầu tư,
và đầu tư nước ngoài. Mục tiêu của hệ thống này - trở thành người nắm mọi thứ và cân
bằng các lợi ích kinh tế quốc gia - đã biến hệ thống thành một bộ máy quan liêu chuyên
quyền độc đoán. Mọi việc đều cần phải được phê chuẩn và đóng dấu. Nếu một nhà kinh
doanh muốn chuyển từ sản xuất xẻng nhựa sang thùng nhựa, anh ta cũng cần phải có được
một sự phê chuẩn. Một cơng ty cũng cần phải được phê chuẩn mới có thể tăng sản lượng.
Kết quả là đã tạo ra hàng loạt các quyền lợi, và những quyền lợi này thì khơng hề khuyến
khích tăng trưởng kinh tế - “Các chính trị gia thì kiếm lợi từ tham nhũng hối lộ, các quan
chức nhà nước thì có được quyền lực, các nhà kinh doanh và cơng nhân thì ưa thích một
thị trường được bảo hộ và quyền lợi của những kẻ ăn không ngồi rồi”.

Điểm bất hợp lý thứ hai là sự quá chú trọng vào sở hữu nhà nước. Khu vực kinh tế nhà
nước tăng từ 8 đến 26% tổng GDP trong khoảng thời gian từ 1960 đến 1991. Chính phủ
trung ương sở hữu khoảng 240 doanh nghiệp không kể những ngành truyền thống vẫn
thuộc sự quản lý của nhà nước như đường sắt và dịch vụ công cộng. Tầm quan trọng của
các doanh nghiệp này được thể hiện qua quy mô của họ. Vào cuối những năm 1980, 70%
việc làm được tạo ra trong những lĩnh vực lớn có tổ chức của nền kinh tế thuộc về các
công ty nhà nước. Hơn nữa, người ta tính rằng, trên thực tế, một nửa trong số 240 doanh
nghiệp đề cập ở trên đã sắp sửa phá sản. Các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động trong
các thị trường hoàn toàn được bảo hộ và không chịu một sự cạnh tranh nào. Kết quả là khu
vực kinh tế nhà nước khơng có động cơ để hoạt động hiệu quả, họ không đáp ứng được
nhu cầu khách hàng và ngày càng trở nên thua lỗ.

Điểm bất hợp lý thứ ba là không chú trọng đến thương mại quốc tế. Một tư tưởng được
miêu tả là “chủ nghĩa bi quan xuất khẩu” ngự trị trong các nhà lãnh đạo. Ấn Độ áp dụng
các chính sách hướng nội tự cung tự cấp vốn rất phổ biến ở các nước đang phát triển trong
những năm 1950 và 1960. Bằng việc từ chối thương mại và đầu tư nước ngồi, Ấn Độ đã

tự loại mình ra khỏi nền kinh tế thế giới. Ấn Độ đã phát triển một đội ngũ rất lớn các nhà
[Type text]

Page 4


khoa học và kỹ sư tài năng, nhưng cũng như Liên xơ, có q nhiều trở ngại để có thể đưa
những công nghệ mới này áp dụng vào thực tế. Thái độ thù nghịch đối với đầu tư nước
ngoài, sự hạn chế khắt khe trong thương mại quốc tế, và sự triệt tiêu cạnh tranh đã đóng
mọi cánh cửa đưa sự đổi mới vào Ấn Độ. Ấn Độ trở nên tụt hậu về công nghệ và ở nguyên
hiện trạng như những năm 1950 hay 1960.
Kết quả của mạng lưới bao cấp, thuế khoá, cấm đoán và kiểm soát này là một hệ
thống kinh tế rất kém hiệu quả và cồng kềnh, không thúc đẩy cạnh tranh hay công nghệ
mới. Bị cơ lập khỏi nền kinh tế tồn cầu, Ấn Độ sản xuất ra cùng một loại sản phẩm năm
này quan năm khác với giá thành cao. Đến đầu thập niên 90, Ấn Độ đã bị tụt hậu xa về
hầu hết mọi mặt so với các quốc gia NIE và các quốc gia Đông Nam Á.
Năm 1991, Ấn Độ ở trong tình trạng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử kể từ khi
giành độc lập. Thâm hụt ngân sách của chính phủ đang ở mức 8% GDP, vay nợ trong nước
chiếm 55% khoản thâm hụt này. Việc trả lãi cho các khoản nợ trong nước chiếm tới 4%,
trong đó nguồn tiền dành cho trả nợ nước ngoài lên đến 23% GDP. Dự trữ ngoại hối của
Ấn Độ chỉ còn chừng vài trăm triệu Đơla, vừa đủ để thanh tốn cho hàng nhập khẩu trong
vòng hai tuần. Những người Ấn kiều đã hoảng sợ rút lại tiền gửi của họ.
Tình thế buộc Ấn Độ phải thay đổi chiến lược phát triển. Thủ tướng Rao và các
cộng sự của ông như Bộ trưởng Tài chính – Manmohan Singh và Bộ trưởng Thương mại
P. Chidambaram đã đề ra một chương trình hành động tổng thể cải tổ kinh tế như thi hành
một loạt biện pháp chấn chỉnh lại toàn bộ các quy định về ngoại thương và đầu tư, nới
lỏng sự kiểm soát của nhà nước trong cơng nghiệp, tự do hố khu vực tài chính, thả nổi
các quyết định đầu tư và bãi bỏ nhiều quy định về việc cấp giấy phép tăng công suet và
giấy phép nhập khẩu. Đồng Rupee được phá giá và trở thành hồn tồn có khả năng
chuyển đổi trong tài khoản vãng lai vào 1991. Hầu hết giấy phép nhập khẩu được bãi bỏ,

hàng hoá thuế quan được hạ thấp và đơn giản hoá. Các quy định xét duyệt FDI được sửa
đổi và mức trần về sở hữu nước ngồi được tháo bỏ. Chính phủ cịn nỗ lực giảm vai trò
của khu vực Nhà nước trong nền kinh tế mở cửa một số khu vực cho tư nhân, bán bớt tài
sản nhà nước và đóng cửa các doanh nghiệp thua lỗ. Thủ tục cấp giấy phép công suất giảm
đáng kể và cho phép nước ngoài sở hữu và kinh doanh trong hệ thống ngân hàng. Các quy
định về lãi suất cũng phần nào được nới lỏng.

[Type text]

Page 5


Tốc độ tăng trưởng GDP Ấn Độ và Nam Á (%/năm)

Nguồn: ADB. 1999; 2003
Vẫn còn nhiều cuộc tranh cãi về bản chất của các cuộc cải cách tại Ấn Độ. Mặc dù
gặp nhiều khó khăn, các cuộc cải cách đang diễn ra đã có những tác động đáng kể đến
nhiều khu vực của nền kinh tế, nhất là ở những khu vực được mở cửa và cho phép cạnh
tranh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được đẩy nhanh, đặc biệt kể từ năm 1996, tốc độ này lên
đến 7% vào cuối thập niên 90. FDI đổ vào, tổng thương mại tính theo GDP tăng gần 20%,
nền kinh tế mở hơn, và đầu tư gián tiếp cũng tăng lên. Sau cùng, khu vực công nghệ thông
tin và truyền thông, đặc biệt là xuất khẩu phần mềm, đã trở thành điển hình nổi bật cho nỗ
lực cải cách khi nhiều công ty mới của Ấn Độ được niêm yết trên thị trường chứng khốn
ở cả trong và ngồi nước.
Trong nhiều khu vực, cải cách vẫn cịn kém hiệu quả hoặc khơng được thực hiện.
Các cuộc tranh chấp liên quan đến FDI, bao gồm cả giá trị hợp đồng và quyền sở hữu vẫn
đang diễn ra. Các thủ tục xét duyệt khiến cho FDI không vào được những doanh nghiệp
nhỏ hơn nhưng năng động hơn. Tuy vậy, Ấn Độ đã có những bước tiến đáng kể trong việc
mở cửa nền kinh tế.
Ấn Độ đã biết nắm lấy làn sóng dịch chuyển cơng nghệ cao

Giáo sư T. N. Srinivasan của đại học Yale, Hoa Kỳ cho rằng: "đối với một nền kinh
tế có ba nguồn tạo nên tăng trưởng đó là sự tăng lên của đầu vào; sự cải thiện trong việc
phân bổ các đầu vào; và sự đổi mới với việc tạo ra các sản phẩm mới, công nghệ mới ".
Nền kinh tế càng hiệu quả và có sức bật nhanh khi yếu tố thứ 3-sự đổi mới-càng phát
triển, tốc độ nhanh, đóng góp lớn trong nền kinh tế. Trong thời đại tồn cầu hóa như hiện
nay, các tiến bộ khoa học cơng nghệ đặc biệt là cuộc cách mạng công nghệ thông tin cho
phép những bước nhảy vọt về chất. Tuy vậy, ở các nước đang phát triển, những khó khăn

[Type text]

Page 6


về vốn, nguồn lực con người, thể chế...đã làm hạn chế công cuộc phát triển công nghệ mới
và khai thác các thành quả của nó.

Kể từ giữa thập kỷ 80, khi q trình phát triển của ngành cơng nghệ cao công nghệ
thông tin đã xuất hiện một luồng dịch chuyển đầu tư của lĩnh vực này ra khỏi các nước
phát triển. Thực tế cho thấy song song với các dịch chuyển về công nghiệp như dệt may,
giày dép sử dụng lao động, hiện nay đang có xu hướng dịch chuyển vốn và công nghệ.
Các doanh nghiệp sẽ chọn địa điểm nào giảm được chi phí, đem lại lợi nhuận lớn nhất.
Theo tờ the economist, trong khi lương của một lập trình viên có 5 năm kinh nghiệm của
Hoa Kỳ là 75 ngàn USD/năm, Anh 96 ngàn USD/năm thì Ấn Độ chỉ khoảng 16 ngàn
USD/năm.
Tuy nhiên chỉ có các nước có đội ngũ lao động có trình độ, sử dụng tiếng Anh là có
khả năng tiếp nhận luồn dịch chuyển này. Trên thế giới hiện nay những nước có các cơng
ty dịch chuyển nhiều nhất là Hoa Kỳ và Anh. Ước tính, các cơng ty Hoa Kỳ chiếm tới 70%
các hoạt động kinh doanh có cơ sở ở nước ngồi. Trong xu thế dịch chuyển như vậy Ấn
Độ đang tận dụng cơ hội to lớn để phát triển nền kinh tế. Nhóm ngân hàng HSBC Anh
tuyên bố cuối năm 2003 đã dịch chuyển hoạt động kinh doanh từ Anh sang Ấn Độ, tạo

việc làm cho 4000 lao động, và tập đoàn AVIA, Na Uy dịch chuyển 2350 lao động sang
Ấn Độ. Mới đây, chính hạn chế về dịch chuyển lao động càng làm cho các doanh nghiệp
có xu hướng dịch chuyển đầu tư ra bên ngoài. Năm 2002, Hoa Kỳ cấp visa cho 195 ngàn
lập trình viên Ấn Độ vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên trước sức ép của giới lao động lo sợ mất việc,
Hoa Kỳ đã hạn chế cấp visa xuống cịn 65 ngàn. Chính hạn chế về nhập khẩu lao động đã
tăng thêm làn sóng dịch chuyển vốn ra bên ngồi của các cơng ty Hoa Kỳ. Một nghiên cứu
của Forester dự báo năm 2015 sẽ có sự dịch chuyển 3,3 triệu việc làm cao cấp từ Hoa Kỳ
sang Ấn Độ, trong đó 500 ngàn sẽ trong ngành cơng nghiệp phần mềm.
Trong một cuộc điều tra mới đây cứ 1 USD doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư sang Ấn
Độ sẽ đem lại 0,3 USD lợi nhuận cho Ấn Độ. Trong đó người lao động được hưởng 0,3
USD, thu nhập thuế của Chính phủ là 0,03 USD. Cũng theo kết quả nghiên cứu trên, phía
Hoa Kỳ cũng được lợi từ q trình dịch chuyển vốn ra bên ngồi. Hoa Kỳ được lợi ích từ
mua hàng giá rẻ do nhập khẩu sản phẩm từ nước thứ ba, cơ cấu lại lao động theo hướng
hiệu quả hơn và lợi nhuận của công ty Hoa Kỳ chuyển về từ Ấn Độ. Theo tính tốn, 1
USD các cơng ty Hoa Kỳ đầu tư trên đất Ấn Độ sẽ đem lại 1,12 USD lợi nhuận cho Hoa
Kỳ.

[Type text]

Page 7


Lợi nhuận của Ấn Độ khi các công ty Hoa Kỳ dịch chuyển 1 USD hoạt động sản xuất,
kinh doanh qua Ấn Độ (USD)

Nguồn: The economist. December. 13th 2003. Special report. Offshoring.

Để thấy được lợi ích to lớn của làn sóng cơng nghệ mới có thể làm một phép tính
đơn giản. Trung Quốc đã trở thành nước tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài lớn tuy nhiên
Trung Quốc chủ yếu tiếp nhận cơng nghệ ở mức trung bình, và như vậy mức lương cho

người lao động ở mức thấp. Hiện nay lương của các công nhân dệt trong các liên doanh
của Trung Quốc là 100-150 USD/năm, trong khi lương của một kỹ sư Ấn Độ trong các
ngành công nghiệp phần mềm là 1300 USD1/năm. Rõ ràng là thu nhập của công nhân “cổ
trắng” cao gấp nhiều lần so với công nhân “cổ xanh”.
Tuy nhiên câu chuyện không chỉ dừng lại ở lương mà còn là một sự hấp thụ một
nền sản xuất tiên tiến và biến nó thành tài sản quốc gia. Trong thời đại tồn cầu hóa như
hiện nay, các tiến bộ khoa học công nghệ đặc biệt là cuộc cách mạng công nghệ thông tin
cho phép những bước nhảy vọt về chất. Sự tiếp nhận và phát triển một ngành kinh tế mới
với công nghệ tiên tiến sẽ tạo nên lực bẩy để thay đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi một nền
sản xuất lạc hậu sang nền sản xuất tiên tiến. Một ví dụ điển hình là ngành công nghiệp
phần mềm. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp phần mềm đã tạo nên bước đột
phá về phát triển, thay đổi cơ cấu kinh tế, tăng hiệu quả cho nền kinh tế. Những năm 90
xuất khẩu phần mềm của Ấn Độ mới đạt chưa đến 500 triệu USD, đến năm 2003 đã đạt
9,5 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay công nghiệp phần mềm
tạo việc làm cho 650 ngàn lao động.
Ấn Độ sẽ vươn lên là một trong 4 nền kinh tế lớn nhất thế giới (GDP tỷ USD).

1

[Type text]

Page 8


Nguồn: Dominic Wilson. at al. October 2003.
Thực tế cho thấy chỉ trong vòng hơn 15 năm qua các ngành mũi nhọn đã tạo cho
Ấn Độ tốc độ tăng trưởng ngoạn mục, bắt đầu với cơng nghiệp dược phẩm, tiếp đó là cơng
nghiệp phần mềm và cơng nghiệp giải trí. Ngân hàng Goldman Sachs dự báo với việc duy
trì chính sách kinh tế vĩ mô ổn định và lành mạnh, tiếp tục cải cách thể chế và mở cửa,
phát triển nguồn nhân lực có trình độ sẽ giúp Ấn Độ trở thành một trong 4 nền kinh tế lớn

nhất thế giới. Dự báo đến năm 2050, GDP của Ấn Độ đạt tới gần 30000 tỷ USD, vượt cả
Nhật Bản, chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Thu hút vốn đầu tư mạo hiểm
Đối với nhiều nước đang phát triển vốn đầu tư nước ngoài là động lực rất quan
trọng để tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh vốn đầu tư nước ngồi, có một loại hình
vốn đầu tư khác đang ngày càng trở nên quan trọng là vốn kinh doanh mạo hiểm. Chính
dịng vốn kinh doanh mại hiểm này đã là nền tảng cho sự hình thành và phát triển nền
công nghệ cao ở thung lũng Silicon, Hoa Kỳ, sự đi lên của ngành công nghiệp điện tử Đài
Loan và đặc biệt mới đây vốn kinh doanh mạo hiểm đang chảy rất mạnh vào Ấn Độ, tạo
nên bước nhảy vọt cho sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm nước này. Thực tế
cho thấy, những gì đang diễn ra ở Ấn Độ chứng minh rằng đất nước Nam Á với hơn 1 tỷ
dân này đang trở thành một nơi hấp thụ vốn của các nhà kinh doanh mạo hiểm, vươn lên
trở thành một địa chỉ công nghệ quan trọng trên trên bản đồ thế giới. Vậy vốn đầu tư mạo
hiểm, hay các quỹ kinh doanh mạo hiểm là gì và tại sao Ấn Độ lại trở thành nơi thu hút
dòng vốn này?
Các “quỹ đầu tư kinh doanh mạo hiểm” là các trung gian tài chính đứng ra quản lý
tiền do các nhà tài trợ khác đóng góp, đặc biệt là của các nhà đầu tư có tổ chức, những
người có ít hiểu biết về ngành mà vốn của họ được đầu tư vào. Nhiều nhà đầu tư vào lĩnh
vực cơng nghệ tin học có thể khơng cần biết phần cứng của máy tính khác với một ổ đĩa
CD-ROM như thế nào. Nhưng các nhà quản lý quỹ đầu tư kinh doanh có được bí quyết mà
cả nhà đầu tư và cơng ty được đầu tư khơng có, liên quan đến cách tạo lập một công ty hay
[Type text]

Page 9


thương mại hóa một sản phẩm. Họ biết được các cơ hội tăng trưởng dựa trên nhiều kinh
nghiệm về các giai đoạn phát triển của doanh nghiệp và sản phẩm, từ việc tìm người cung
cấp đến soạn hợp đồng với các nhà phân phối, làm việc với luật sư và các cán bộ tiếp thị
để bảo đảm rằng sản phẩm sản xuất ra có thị trường tiêu thụ. Nhờ những hoạt động đó,

vốn kinh doanh trở thành một sự đầu tư tạo ra giá trị gia tăng. Chính những nhà kinh
doanh mạo hiểm đã tạo nên một sự thần kỳ và nền tảng cho thung lũng Silicon nổi tiếng về
phát triển cơng nghệ thơng tin trình độ cao ở Mỹ.
Tuy nhiên ngày nay, thung lũng Silicon khơng cịn là nơi duy nhất hút vốn kinh
doanh mạo hiểm nữa mà hiện đang có xu hướng dịch chuyển vốn đầu tư của các quỹ này
sang các nước khác. Các nhà đầu tư mạo hiểm Mỹ đang để mắt đến các nền kinh tế mới
nổi, đặc biệt là các nước châu Á, trong đó Ấn Độ đang là một trọng tâm hướng tới. Trong
tháng 11/2003, có hơn 20 tập đồn kinh doanh mạo hiểm lớn nhất của Mỹ như Battery
Ventures, Sequoia Capital và Bessemer với tổng số vốn lên đến 30 tỷ USD đã đến khảo sát
thị trường Ấn Độ. Trong số này có Silicon Valley Bank sở hữu 4 tỷ USD đang gấp rút xúc
tiến thành lập một dự án đầu tư lớn ở Ấn Độ. Vốn kinh doanh mạo hiểm không chỉ đổ vào
cơng nghệ thơng tin mà cịn vào các lĩnh vực mới nổi vốn có nhu cầu lớn và tăng mạnh ở
các nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Trong tháng 7/2003, TSJ Media đã đầu tư 180 triệu
USD vào ngành thực phẩm và phương tiện nghe nhìn.
3. Đầu tư trực tiếp vào Ấn Độ:
Khi nền kinh tế lớn thứ ba thế giới về PPP, Ấn Độ là một điểm đến ưa thích đối với
FDI, Ấn Độ có thế mạnh trong viễn thông, công nghệ thông tin và các khu vực quan trọng
khác như các thành phần tự động, hóa chất, hàng may mặc, dược phẩm, và đồ trang sức.
Mặc dù một sự đột biến trong đầu tư nước ngoài, cứng nhắc chính sách FDI là một trở
ngại đáng kể. Tuy nhiên, do cải cách kinh tế tích cực nhằm bãi bỏ nền kinh tế và kích
thích đầu tư nước ngồi, Ấn Độ đã định vị mình là một trong những chạy phía trước của
phát triển nhanh chóng khu vực châu Á-Thái Bình Dương . Ấn Độ có một hồ bơi lớn có
kỹ năng quản lý và kỹ thuật chuyên mơn. Kích thước của dân số thuộc tầng lớp trung lưu
đứng ở mức 300 triệu USD và đại diện cho một thị trường tiêu dùng ngày càng tăng.
Trong thời gian 2000-2010, đất nước đã thu hút 178.000.000.000 $ là vốn đầu tư
nước ngồi.
Ấn Độ gần đây đã tự do hóa chính sách FDI (2005) cho phép lên đến 100% cổ phần
có vốn đầu tư nước ngồi trong liên doanh. Cải cách chính sách cơng nghiệp đã giảm
đáng kể u cầu cấp phép công nghiệp, loại bỏ hạn chế về mở rộng và tạo điều kiện dễ
dàng tiếp cận công nghệ nước ngoài và FDI đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các đường cong

tăng trưởng trở lên chuyển động của lĩnh vực bất động sản nợ một số tín dụng cho một nền
kinh tế đang bùng nổ và tự do hóa vốn đầu tư nước ngoài chế độ. Trong tháng 3 năm
2005, chính phủ sửa đổi các quy tắc để cho phép 100% FDI trong ngành xây dựng, bao
gồm cả xây dựng cơ sở hạ tầng và các dự án phát triển xây dựng bao gồm nhà ở, cơ sở
thương mại, bệnh viện, cơ sở giáo dục, cơ sở giải trí, và cơ sở hạ tầng thành phố và cấp
[Type text]

Page 10


vùng. Mặc dù một số thay đổi trong chính sách có vốn đầu tư nước ngồi để loại bỏ mũ
trong hầu hết các ngành, vẫn cịn chưa hồn thành một chương trình nghị sự cho phép FDI
trong các lĩnh vực chính trị nhạy cảm như bảo hiểm và bán lẻ. Dòng vốn chủ sở hữu tổng
số vốn đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ trong năm 2008-09 đạt 122.919 rupee ( US $ 24,52
tỷ), tăng trưởng 25% trong điều kiện đồng rupee so với giai đoạn trước của Ấn Độ. thương
mại và lĩnh vực kinh doanh đã phát triển nhanh chóng. Ấn Độ hiện đang chiếm 1,5%
thương mại thế giới năm 2007 theo các thống kê thương mại thế giới WTO trong năm
2006

Năm quốc gia đầu tư FDI vào Ấn Độ. (2000-2010)
Dòng vốn
(Triệu USD)

Quốc gia

Hạng

Dòng vốn
(%)


1

Mauritius

50164

42,00

2

Singapore

11275

9,00

3

Hoa Kỳ

8914

7,00

6158

5,00

4968


4,00

4

5

Vương
Anh
Hà Lan

quốc

4. Những lợi thế cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu của Ấn Độ:
Bắt đầu từ những năm 90, Ấn Độ thực hiện chính sách “hướng Đơng” với mục đích
là để hội nhập kinh tế và hợp tác chính trị với Đơng Nam Á, kết quả của cách tiếp cận thực
tế hơn trong quan hệ đối ngoại. Chính sách này đang mang lại những kết quả đáng khích
lệ trong việc cải thiện và tăng cường quan hệ giữa Ấn Độ với ASEAN nói chung và Việt
Nam nói riêng. Ấn Độ là một đối tác được các quốc gia ASEAN lựa chọn để thiết lập khu
vực thương mại tự do từ năm 2003 và Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ
(AITIG) được ký kết. Ấn Độ hiện đang có mức thuế suất trung bình ở mức cao trên thế
giới nên việc Ấn Độ cắt giảm thuế theo cam kết sẽ tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu của
các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam nhờ sự chênh lệch giữa thuế ưu đãi và thuế thông
thường.

[Type text]

Page 11


Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ trong một thập kỷ vừa qua là khoảng trên

6%/năm. Năm 2008-2009, GDP tăng 6,7%, dự kiến năm 2009-2010 tăng 6,5-7%.
Bảng 1: Một số chỉ số kinh tế của Ấn Độ
Các chỉ số
Mức tăng GDP

Đơn
tính
%

vị

2003 -2004

2004-2005 2005-2006

2006-2007 2007-2008

2008-2009

8,5

7,5

9,5

9,7

9,0

6,7


29,8

31,7

34,2

35,7

37,7

-

198,4

208,6

217,3

230,8

229,9

Tỷ lệ tiết kiệm
Sản xuất

%

- Lương thực


Triệu tấn 213,2

- Chỉ số Công%
nghiệp
%
- Phát điện
Giá cả

7,0

8,4

8,2

11,6

8,5

2,6

5,1

5,1

5,2

7,3

6,3


2,7

- Lạm phát (WPI) %

5,5

6,5

4,4

5,4

4,7

8,4

- Lạm phát (CPI) %

3,9

3,8

4,4

6,7

6,2

9,1


Ngoại thương
- Xuất khẩu

%

21,1

30,8

23,4

22,6

28,9

3,6

- Nhập khẩu

%

27,3

42,7

33,8

24,5

35,4


14,4

113,0

141,5

151,6

199,2

309,7

252,0

- Dự trữ ngoại tệ Tỷ $

Nguồn: Bộ Tài chính Ấn Độ
Khác với Trung Quốc, tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ không lệ thuộc quá lớn vào
công nghiệp cũng như xuất khẩu mà phụ thuộc phần quan trọng vào lĩnh vực dịch vụ. Lĩnh
vực này chiếm trên 50% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và đang tăng 15-20% hàng năm.
Ấn Độ rất chú trọng tới phát triển công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Năm
2005-2006, nước này xuất khẩu 31,4 tỷ USD phần mềm tin học, năm 2006-2007 xuất khẩu
40 tỷ USD và năm 2008-2009 xuất khẩu 46,3 tỷ USD, trở thành một trong những trung
tâm của thế giới về dịch vụ công nghệ thông tin.
Nhờ những lợi thế này, Ấn Độ đang trở thành quốc gia thu hút sự chú ý của giới
kinh doanh toàn cầu.

[Type text]


Page 12


Về hoạt động ngoại thương, trong năm tài chính 2009-2010, Ấn Độ xuất khẩu
176,574 tỷ USD, giảm 4,7% so với mức 185,295 tỷ USD cùng kỳ năm trước và nhập khẩu
278,681 tỷ USD, giảm 8,2% so với mức 303.696 tỷ USD cùng kỳ năm 2007-2008. Thâm
hụt thương mại là 102,106 tỷ USD so với mức 118,401 tỷ USD năm 2008-2009.
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Ấn Độ
Đơn vị: Triệu USD
Các chỉ số
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại

2004-05
83.536
111.517
195.053
-27.981

2005-06
103.090
149.166
252.257
-46.075

2006-07
126.414
185.735

312.149
-59.321

2007-08
163.132
251.654
414.786
-88.522

2008-09
185.295
303.696
488.992
-118.401

2009-10
176.574
278.681
455.255
-102.106

Nguồn: Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ
Mặc dù xuất khẩu hàng hóa của Ấn Độ chiếm tỷ trọng không lớn trong GDP (biến
động khoảng 20-28%) nhưng trong những năm gần đây tăng trưởng xuất khẩu của Ấn Độ
tương đối ổn định, đạt mức trung bình 10%/năm.
Bảng 3: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Ấn Độ
Đơn vị: tỷ USD
Mặt hàng
Sản phẩm xăng dầu
Trang sức, đá quý

Máy móc, thiết bị
Dược phẩm
Sợi cotton
Sản phẩm kim loại
Thiết bị vận tải
Sản phẩm sắt thép
Dệt may

2004-05
24,4
18,3
8,9
6,5
6,9
7,3
6,8
4,9
4,1

2005-06
25,5
18,6
7,8
6,9
7,1
7,4
7.0
4,7
4,0


2006-07
26,9
16,9
6,9
7,3
8,1
6,3
7,1
6,4
4,5

2007-08
25,2
18,5
9,2
7,3
7,0
6,4
6,4
4,9
4,3

2008-09
28,4
19,7
9,1
7,6
7,5
7,1
7,0

5,8
4,7

Nguồn: Eximbank India
Bên cạnh các thị trường trọng yếu như Mỹ, Châu Âu, Trung Đông, Trung Quốc,
chiến lược dài hạn xuất khẩu hàng hóa Ấn Độ cũng đang tập trung vào các thị trường mới
như các nước Đông Á, châu Mỹ La tinh, châu Phi,...

[Type text]

Page 13


Bảng 4: Thị trường xuất khẩu trọng yếu của Ấn Độ
Đơn vị: tỷ USD
Nước
2004-05
Hoa Kỳ
18,1
UAE
14,2
Trung Quốc
8,2
Singapore
7,0
Anh
6,1
Hồng Kông
4,9
Hà Lan

3,9
Đức
3,8
Bỉ
2,8

2005-06
18,9
14,5
9,0
6,8
6,7
5,8
4,2
3,9
3,5

2006-07
19,5
15,0
9,3
7,1
6,6
5,6
4,7
4,6
3.7

2007-08
20

14,3
10,0
7,0
6,5
5,4
4,3
4,6
3,2

2008-09
20,7
15,6
10,8
7,4
6,7
6,3
5,2
5,1
4,2

Nguồn: Eximbank India
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Ấn Độ chủ yếu là hàng tiêu dùng và nguyên
vật liệu phục vụ sản xuất. Với dân số hơn 1,2 tỷ người và một nền sản xuất nội địa có tiềm
lực lớn, Ấn Độ nỗ lực sản xuất nhiều các loại sản phẩm hàng hóa cho thị trường. Việc bảo
hộ sản xuất trong nước dẫn đến phát sinh các rào cản thương mại hoặc đánh thuế cao đối
với hàng hóa nhập khẩu mà trong nước có khả năng sản xuất, cung ứng. Vàng và đá quý
cũng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nhập khẩu của Ấn Độ.
Trong Chính sách ngoại thương giai đoạn 2009-2014, Ấn Độ đề ra mục tiêu đạt được
tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 15%, đạt giá trị 200 tỷ USD vào năm 2011, tăng gấp
đôi xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ vào năm 2014 và trong dài hạn là tăng gấp đôi tỷ trọng

xuất khẩu của Ấn Độ trong bn bán tồn cầu vào năm 2020.
Để làm được điều này, Ấn Độ sẽ vừa mở rộng xuất khẩu các sản phẩm hiện hành,
đặc biệt là thông qua việc khai thác các thị trường mới, vừa đa dạng hóa các mặt hàng xuất
khẩu cho phù hợp với các xu hướng xuất khẩu của thế giới.
Đối với các quy định về nhập khẩu, đến nay thị trường Ấn Độ vẫn là thị trường bảo
hộ mậu dịch lớn nhất Châu Á với hàng rào bảo hộ thuế và phi thuế ở mức khá cao.
Thuế suất hải quan của Ấn Độ được cắt giảm từ năm 1991, khi nước này tiến hành
cải cách kinh tế. Đó là mức cắt giảm từ 150% năm 1991-1992 xuống 35% năm 20012002. Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn thuộc hàng các nước có thuế hải quan cao nhất thế giới. Mức
thuế hải quan MFN phổ thông hiện nay của Ấn Độ là 34,442%.

[Type text]

Page 14


5. Vậy những yếu tố gì đã làm cho Ấn Độ trở thành một nơi hấp dẫn các nhà
đầu tư rủi ro quốc tế đến như vậy?
a.
Điểm quan trọng nhất đó là hình ảnh của Ấn Độ trong con mắt của giới đầu tư
quốc tế đã thay đổi. Từ một quốc gia nghèo nàn, kế hoạch hoá, nền kinh tế đóng và khu
vực kinh tế nhà nước phình to kém hiệu quả, Ấn Độ đang chứng tỏ nước này sẵn sàng
thực hiện những bước đi táo bạo để tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho các nhà sản
xuất kinh doanh trong và ngoài nước phát triển.
Sự tăng trưởng kinh tế, mơi trường kinh doanh thơng thống hơn, cũng như sự đột
phá của ngành công nghệ thông tin chỉ là yếu tố chứng tỏ “năng lực hấp thụ đầu tư” và là
lợi thế của Ấn Độ so với các nước khác, chứ chưa phải là một đảm bảo để vốn kinh doanh
mạo hiểm chảy vào nước này. Luồng vốn đầu tư có xu hướng chảy ra khỏi nước Mỹ có
ngun nhân quan trọng từ chiến lược đa dạng hố khi có rủi ro bỏ quá nhiều vốn vào một
nơi. Kể từ cú sụp đổ của một số tập đoàn Dotcom ở Mỹ năm 2000, nhiều công ty kinh
doanh mạo hiểm của Mỹ đã có xu hướng thận trọng hơn với các khoản đầu tư và đa dạng

hoá các hoạt động kinh doanh. Nền kinh tế nào có được năng lực để tiếp nhận cũng như
nắm bắt thời cơ trong bối cảnh như vậy sẽ là địa chỉ ưu tiên cho các nhà đầu tư kinh doanh
mạo hiểm. Và Ấn Độ đã trở thành một lựa chọn hợp lý. Năm 2002 tổng số vốn đầu tư kinh
doanh mạo hiểm vào Ấn Độ là 550 triệu USD, trong 6 tháng đầu năm 2003 đạt trên 400
triệu USD, và dự kiến đến năm 2004 sẽ đạt 650 triệu USD. Mặc dù con số chưa phải là lớn
nhưng những dấu hiệu ban đầu đã cho thấy một nước có xuất phát điểm thấp nhưng giàu
tiềm năng và khả năng nắm bắt cơ hội có thể có sức bật lớn để tạo nên đột phá.
b.
Với lợi thế từ nguồn lao động giá rẻ song được đào tạo bài bản, Ấn Độ
nổi lên như một khu vực tập trung nhiều cơ sở R&D lớn trên thế giới:
Dược phẩm cũng là một lĩnh vực lớn thu hút hoạt động R&D toàn cầu về Ấn Độ.
Tháng 4/2012, nhà sản xuất thuốc lớn nhất Ấn Độ - Ranbaxy tung ra Synriam, loại thuốc
trị bệnh sốt rét mới. Giáo sư Sudershan Arora – Chủ tịch R&D của Ranbaxy cho biết: “Ấn
Độ là nước đông dân với các mẫu bệnh đa dạng, phù hợp để nghiên cứu. Đó là một trong
những thế mạnh vốn có khiến các cơng ty dược tồn cầu xem Ấn Độ là điểm đến thích
hợp cho các hoạt động liên quan tới R&D, nghiên cứu thuốc và thử nghiệm lâm sàng.”
Chuyên gia của Zinnov nhận định: Ấn Độ là thị trường chủ chốt trong các nước
đang phát triển. Các kĩ sư được đào tạo bài bản để giải quyết mọi vấn đề một cách có
phương pháp. Ví dụ, Motorola đã phát triển điện thoại có giá chưa tới 40 USD, hay GE
Healthcare “thiết kế và sản xuất” thiết bị điện tim MAC 400 tại Ấn Độ. Thiết bị chỉ mất 18
tháng và nửa triệu đô-la để hồn thành.
Bước chuyển dịch tiến tới thành phịng thí nghiệm toàn cầu mang lại cho Ấn Độ lợi
thế lớn trong việc thu hút thêm nhiều trung tâm R&D. Cũng phải nói thêm, giá nhân cơng
ở đây rất rẻ. Một kĩ sư có thể nhận mức lương chỉ 5.000 USD/năm; trưởng nhóm hay kĩ sư
đứng đầu kiếm trung bình 30.000 USD/năm. Một số ước tính cho thấy có khoảng hơn
250.000 kĩ sư Ấn Độ đang làm về R&D.
[Type text]

Page 15



c.

Tân dụng nguồn năng lượng tái tạo :

Các công ty đa quốc gia quan tâm đang đến các dự án năng lượng tái tạo tại Ấn Độ do
chính phủ Ấn Độ khuyến khích phát triển lĩnh vực này bằng các ưu đãi tài chính, bao gồm
giảm thuế.
Cơng ty sản xuất năng lượng gió ReNew Wind Power (Ấn Độ) ngày 26-9 cho biết tập
đồn đầu tư tài chính Goldman Sachs (Mỹ) sẽ đầu tư 201 triệu đô la Mỹ vào công ty này.
Hiện nay, ReNew đang xây dựng một trang trại gió cơng suất 25MW ở bang Gujarat và
một trang trại công suất 60MW ở bang Maharashtra. Công ty cũng vừa ký hợp đồng kinh
doanh với các công ty sản xuất năng lượng gió Kenersys GmBH (Đức), Regen Powertech
(Ấn Độ) và Suzlon (Ấn Độ) để xây dựng các trang trại gió ở Ấn Độ. ReNew cho hay sẽ
lắp đặt 200-300 megawatt (MW) cơng suất điện gió mỗi năm và đạt cơng suất 1.000MW
vào năm 2015.
Ấn Độ có cơng suất năng lượng tái tạo lắp đặt là 20 gigawatt (GW). Đầu tháng 9-2011, Bộ
trưởng Năng lượng tái tạo liên bang, ông Farooq Abdullah, cho biết nước này cần 100 tỉ
đô la Mỹ để nâng công suất năng lượng tái tạo thêm 50GW vào năm 2020.
Ấn Độ có cơng suất điện gió lắp đặt lớn thứ năm thế giới. Năng lượng gió gần đây là dạng
năng lượng tái tạo phát triển nhanh nhất Ấn Độ và đang chiếm khoảng 8% tổng công suất
điện quốc gia.
Theo số liệu của công ty tư vấn năng lượng tái tạo Energy Alternatives India, trong năm
2009 và 2010, đầu tư vào năng lượng gió của Ấn Độ trung bình đạt hơn 3 tỉ đơ la Mỹ mỗi
năm.
d.

Trở thành nước đầu về xuất khẩu CEO:

Trong 500 CEO danh tiếng do Fortune bình chọn có tới 13 là người Ấn Độ, các nước

khác nhiều nhất chỉ có 4 người.
Các CEO Ấn Độ lớn lên trong một quốc gia đa văn hóa với mơi trường cạnh tranh gay gắt
phức tạp, nguồn tài nguyên lại rất hạn chế. Quan trọng hơn, họ trưởng thành trong một
môi trường sử dụng tiếng Anh, loại ngơn ngữ tồn cầu. Nhờ vậy, những Ajay Banga, Vindi
Banga, Vikram Pandit hay Indra Nooyi…, đều là các CEO được ngưỡng mộ nhất.
6. Những rào cản khi các quốc gia khác xâm nhập vào kinh tế Ấn Độ :
-

Văn hóa ẩm thực:

Ấn Độ là một trong những nhà sản xuất lớn nhất trên thế giới về các loại hoa quả, rau,
ngũ cốc và sữa, một số lượng thực phẩm bị mất đi hàng năm do thiếu lưu trữ, vận chuyển,
[Type text]

Page 16


lưu trữ lạnh và máy móc chế biến. Người tiêu dùng Ấn Độ có truyền thống ưa chuộng các
loại nguyên liệu sạch và các bữa ăn nấu tại nhà. Tuy nhiên, với thu nhập ngày càng tăng,
một lượng dân số trẻ, lao động nữ nhiều hơn, một ngành bán lẻ thực phẩm đang mở rộng
và q trình đơ thị hóa ổn định đang kết hợp lại để thay đổi các kiểu tiêu dùng thực phẩm
với sự nhấn mạnh vào sự tiện lợi, chất lượng và an toàn thực phẩm. Theo dữ liệu được
cung cấp bởi Bộ chế biến thực phẩm, ngành chế biến thực phẩm chiếm 14% sản xuất sản
phẩm nội địa và có giá trị 58 tỉ đơ la. Ngành hàng hiện đại này, đại diện bởi các nhãn hiệu
đa quốc gia và các nhãn hiệu Ấn Độ chiếm 30% lượng hàng sản xuất và 50% giá trị sản
xuất. Sự cân bằng được tạo ra trong cái đề cập đến ngành hàng “không được sắp xếp” của
Ấn Độ bao gồm các nhà sản xuất nhỏ. Theo truyền thống, một bộ phận quan trọng của chế
biến thực phẩm ở Ấn Độ được giới hạn trong việc sơ chế (xay và nghiền) các loại ngũ cốc,
đậu và hạt có dầu, cùng với chế biến thực phẩm như dưa chua truyền thống, hỗn hợp gia
vị, và đồ ăn nhanh (bánh và đồ ăn nhẹ chiên mặn). Cho đến cuối những năm 1990, hầu hết

ngành chế biến thực phẩm bị giới hạn trong các ngành cơng nghiệp quy mơ nhỏ (SSI) chỉ
có các cơng ty nhỏ có thể có được giấy phép để chế biến thực phẩm. Trong vài năm trở lại
đây, luật đã thay đổi cho phép các công ty lớn đầu tư vào ngành này và các công ty thực
phẩm của Ấn Độ và trên toàn thế giới đã tham gia vào ngành này. Bất chấp đầu tư ngày
càng tăng và q trình hiện đại hóa trong cơng nghiệp, mức độ chế biến các thực phẩm
nhanh hỏng vẫn cịn thấp.
Chính phủ Ấn Độ đã đơn giản hóa các thủ tục đầu tư trong ngành chế biến thực phẩm với
nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài. Số lượng các sản phẩm thực phẩm dành cho các ngành
công nghiệp quy mô nhỏ đã giảm; các khoản đầu tư được cho phép theo “lộ trình tự động”
đơn giản hóa thủ tục báo cáo về vốn, lên đến 100% vốn chủ sở hữu nước ngồi có thể
được đầu tư cho hầu hết các sản phẩm, một số loại thuế nhất định đã được giảm cho các
nhà đầu tư và thuế nhập khẩu một số thiết bị cũng đã được giảm. Đáp lại điều này, ngành
công nghiệp chế biến thực phẩm đã thu hút được 1,3 tỉ đô la đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
(FDI) qua 11 năm chiếm 1% tổng số luồng vốn FDI.
Những thách thức đặt ra cho ngành:



Các loại thực phẩm được chế biến vẫn bị nhiều người tiêu dùng coi là cấp thấp hơn
so với thực phẩm tươi.
Các mối liên kết chuyển tiếp và ngược trở lại vẫn đang phát triển.



Chuỗi cung ứng dài và bị phân đoạn.



Các công ty chế biến tìm kiếm nguồn nguyên liệu của họ ở địa phương.




Ngành bán lẻ hiện đại tương đối nhỏ.



Các loại thuế cao và vấn đề tiếp cận thị trường.



Bất chấp việc khẩu vị ngày càng mở rộng, hầu hết người tiêu dùng thích món ăn
Ấn Độ.



[Type text]

Page 17


-

Chế độ chính trị :

Ấn Độ từng được coi là một trong những điểm đến hấp dẫn hàng đầu châu Á. Tuy
nhiên, đến thời điểm này, sự hấp dẫn của nền kinh tế hơn một tỷ dân đang dần bị xói
mịn. Nhiều cơng ty, nhà đầu tư nước ngồi đã bắt đầu rục rịch tìm kiếm những thị
trường mới.
Một trong những nguyên nhân được cho là dẫn tới tình trạng trên là sự suy yếu của
chính quyền Thủ tướng Manmohan Singh trước sự chống đối của các đối thủ chính trị

và nhiều vụ bê bối. Ngồi ra, các chính sách thuế, quy định thiếu linh hoạt, cũng như
việc khơng có các tiến bộ và cải cách quan trọng đã khiến nhiều nhà đầu tư nước ngồi
khơng mặn mà với thị trường này.
7. Việc một quốc gia phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư nước ngồi có thể đưa
đến một số rủi ro đã được nhìn nhận:
- Rủi ro lớn nhất là việc rút vốn đầu tư nước ngoài sẽ làm mất cân bằng cán cân thanh
toán quốc gia xuất phát từ mất cân đối của các yếu tố tài khoản vốn, tài khoản tài
chính, tài khoản vãng lai, ngồi ra việc rút vốn hoặc thu hẹp trong sản xuất của khu
vực đầu tư nước ngồi cịn làm giảm sản phẩm xuất khẩu đồng thời gia tăng hàng hóa
nhập khẩu, đặc biệt đối với các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu càng làm trầm trọng thêm
mức độ thâm hụt cán cân thương mại, việc rút vốn khiến cho nhu cầu ngoại tệ tăng
lêndẫn đến đồng nội tệ bị mất giá mạnh, lạm phát tăng cao, để giảm lạm phát thì thắt
chặt tiền tệ sẽ được áp dụng dẫn đến lãi suất sẽ tăng theo có thể ảnh hưởng đến huy
động nguồn vốn đầu tư trong nước. Việc rút vốn đồng loạt, đặc biệt đối với các quỹ
đầu tư gián tiếp sẽ khiến thị trường chứng khốn giảm giá mạnh thậm chí có thể làm
sụp đổ thị trường chứng khốn như trường hợp khủng hoảng của các nước Đông Nam
Á vào những năm cuối của thập kỷ 90 thế kỷ trước.
Điều đó được phản ánh phần nào qua tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Ấn Độ
vào cuối năm 2011 các tháng đầu năm 2012, trong năm tài khóa 2011-2012 đầu tư FDI
vào Ấn Độ đạt 46,84 tỷ USD, so với 34,8 tỷ USD của tài khóa trước đó. Tính riêng
trong tháng 3/2012, Ấn Độ đã thu hút 8,1 tỷ USD vốn FDI. Tuy nhiên, theo báo cáo
mới đây của Nomura, tính theo năm dương lịch thì các nhà đầu tư nước ngoài đã rút ra
khỏi Ấn Độ một khoản vốn kỷ lục 10,7 tỷ USD. Tập đồn chứng khốn Kotak cũng
cho biết trong tháng 5/2012, Ấn Độ đã chứng kiến dòng vốn trong các quỹ chủ chốt bị
chảy ra khỏi đất nước là 455 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ trong
tài khóa 2011-2012 đạt 303,7 tỷ USD, tăng 21% so với 2010-2011, trong khi tổng giá
trị nhập khẩu là 488,7 tỷ USD, khiến cán cân thương mại của Ấn Độ trong tài khóa
vừa qua bị thâm hụt 185 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay.
Tính đến ngày 1/6/2012, tổng dự trữ ngoại hối của Ấn Độ đạt 285,86 tỷ USD. Đồng
rupee Ấn Độ đã trượt giá tới 22% kể từ đầu năm đến nay và hiện dao động ở mức

55,5-56 rupee/USD.

[Type text]

Page 18


Các số liệu chính thức của Chính phủ Ấn Độ công bố ngày 31/5 cho thấy lạm phát
hàng năm tại nước này tính đến tháng 5/2012 là 7,55%, so với mức 7,23% của tháng 4
và 7,69% của tháng 3. Chỉ số giá thực phẩm hàng năm trong tháng 5/2012 tăng tới
10,74% so với 8,25% cùng kỳ năm. Các chuyên gia cho rằng những con số này chứng
tỏ sức ép lạm phát tại Ấn Độ vẫn mạnh. Do sức ép lạm phát nên Ngân hàng Trung
ương Ấn Độ (RBI) buộc phải áp dụng chính sách thắt chặc tiền tệ với13 lần liên tiếp
tăng mức lãi suất kể từ tháng 3/3010 trước khi quyết định cắt giảm vào giữa tháng
4/2012 và giữ nguyên lãi suất repo ở mức 8% và tỷ lệ dự trữ tiền mặt bắt buộc tại các
ngân hàng là 4,75%. Thâm hụt tài khoản vãng lai đã đẩy lợi suất trái phiếu Chính phủ
kỳ hạn 10 năm lên khoảng 9% .
- Rủi ro thứ hai là khi các nhà đầu tư nước ngồi rút vốn cơng ăn việc làm sẽ thu hẹp,
làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng cao,và việc nội tệ mất giá cịn có nghĩa GDP bình quân
đầu người quy đổi theo ngoại tệ bị mất giá làm cho sức mua bị giảm sút khiến cho đời
sống của một bộ phận dân cư gặp nhiều khó khăn có thể đưa đến các bất ổn xã hội.
Việc chuyển lợi nhuận về nước của các cơng ty nước ngồi cũng là yếu tố đáng kể góp
phần làm mất cân đối trong cung cầu ngoại tệ dẫn đến các hệ quả như đã phân tích ở
trên.
Với ưu thế về vốn, công nghệ và quản lý của các nhà đầu tư nước ngồi, các nhà sản
xuất trong nước khó có thể cạnh tranh được với các nhà đầu tư nước ngoài, nếu nhà
đầu tư trong nước không thể cạnh tranh được buộc phải ngưng sản xuất sẽ làm tình
trạng thất nghiệp tăng lên, tuy nhiên điều này vừa là rủi ro nhưng đồng thời cũng là
động lực hoặc là điều kiện (với các liên doanh) để các doanh nghiệp trong nước thay
đổi nâng cao trình độ sản xuất để tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh cao.

Từ những nhận định trên ta thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố quan trọng
góp phần ổn định tình hình kinh tế trong nước cho nên việc tạo môi trường thuận lợi
cho đầu tư nước ngoài là mối quan tâm của các Chính phủ, bên cạnh đó đầu tư nước
ngồi đặc biệt đối với đầu tư gián tiếp và vốn vay các ngân hàng nước ngồi có thể đem
lại những tác động bất lợi với nền kinh tế. Do đó, nhiều Chính phủ đã ban hành những
quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.

[Type text]

Page 19



×