Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Vấn đề nhận thức trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” và ý nghĩa của nó trong thời đại 4 0 hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.7 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

LÊ THỊ BÌNH

VẤN ĐỀ NHẬN THỨC TRONG TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA
DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN” VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ TRONG THỜI ĐẠI 4.0 HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

LÊ THỊ BÌNH

VẤN ĐỀ NHẬN THỨC TRONG TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA
DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN” VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ TRONG THỜI ĐẠI 4.0 HIỆN NAY



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Triết học
Chuyên ngành: Triết học Mác – Lênin
Mã số: 7229001

Người hướng dẫn: PGS.TS. Ngơ Đình Xây

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu: “Vấn đề nhận thức trong tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” và ý nghĩa
của nó trong thời đại 4.0 hiện nay.” là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong khóa luận có nguồn gốc rõ
ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận
do tơi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với
thực tiễn. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.

Sinh viên thực hiện

Lê Thị Bình


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong
Khoa Triết học, Trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đã tạo điều kiện
giúp đỡ và chỉ bảo trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Đặc biệt, xin được bày tỏ lịng biết ơn đối với Thầy hướng dẫn PGS.TS.
Ngơ Đình Xây đã giúp đỡ và chỉ dạy tận tình trong suốt q trình nghiên cứu
khóa luận.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực, song trình độ cịn có hạn, khóa luận khơng
tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của qúy
thầy cơ và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên thực hiện

Lê Thị Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ NHẬN THỨC TRONG TÁC PHẨM “CHỦ
NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN” ....... 4
1.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm và kết cấu tác phẩm ................................... 4
1.2. Sự phê phán các nhận thức sai lầm trong triết học ................................ 8
1.3. Quan điểm của Lênin về nhận thức thông qua lý luận nhận thức mà
Người đã phát triển ..................................................................................... 13
1.4. Lênin tiếp tục phát triển lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện
chứng qua phân tích “Cuộc cách mạng mới nhất trong khoa học tự nhiên”. ... 33
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NHẬN
THỨC THỜI ĐẠI 4.0 HIỆN NAY ................................................................ 44
2.1. Thời đại 4.0 - những đặc điểm và những ảnh hưởng nổi bật của nó ......... 44
2.2. Đặc điểm mới của nhận thức con người trong thời đại 4.0 so với nhận
thức của thời kỳ Lênin ................................................................................ 53
2.3. Xu hướng biến đổi của nhận thức con người trong thời đại 4.0 .......... 59
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 66


1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong lịch sử phát triển của triết học cho thấy, vấn đề nhận thức được
đặt ra từ rất sớm. Tuy nhiên, do hạn chế về phương tiện và phương pháp nhận
thức cũng như khả năng của mình nên nhận thức của con người đối với thế giới
khách quan cịn giản đơn, mang tính phỏng đoán. Từ trước đến nay, vấn đề
nhận thức là một những bộ phận cơ bản của khoa học triết học. Trong lịch sử
triết học, vấn đề nhận thức ln đóng vai trị chủ yếu thậm chí cịn là vấn đề
trung tâm của triết học (thời Cận đại ở Tây Âu). Lý luận nhận thức là học
thuyết về sự nhận thức của con người, về xuất hiện và phát triển của nhận thức,
cũng như con đường và phương pháp nhận thức chân lý và tiêu chuẩn kiểm tra
chân lý. Nhận thức là một q trình phức tạp, nó bắt đầu từ việc xem xét các
hiện tượng một cách trực tiếp, sáng tạo và phải dựa trên cơ sở thực tiễn.Bằng
nhãn quan của một nhà duy vật biện chứng Lênin đã chứng minh rằng: “Nhận
thức của con người là một quá trình và sự nhận thức của con người không phải
đi theo một đường thẳng”.
Mỗi một hệ thống triết học đều có lý luận nhận thức riêng và nó ln là
nội dung chiếm vị trí quang trọng trong mỗi hệ thống. Vấn đề cơ bản của triết
học là điểm xuất phát của lý luận nhận thức, từ đây hình thành những quan
điểm khác nhau, đối lập nhau. Đây là lĩnh vực thể hiện cuộc đấu tranh gay gắt
giữa các hệ thống triết học duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình trong
lịch sử triết học. Khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quan niệm và
phương pháp nhận thức của các giai đoạn trước đó. Mác và Ăngghen đã đưa ra
quan điểm ngun tắc có tính nền tảng về lý luận nhận thức, tạo ra bước ngoặt
cách mạng vĩ đại trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. Tư

tưởng vĩ đại đó được Lênin tiếp tục kế thừa và phát triển sâu sắc, không những
giúp cho chúng ta có một cách hiểu hồn chỉnh hơn về vấn đề nhận thức mà


2
còn là một đòn giáng nặng nề vào những quan điểm duy tâm, phản khoa học về
vấn đề nhận thức.
Đi sâu vào tìm tịi, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nhận thức với
một cái nhìn sâu sắc, khoa học, Lênin đã trình bày một cách hệ thống vấn đề
này trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.
Vậy chúng ta đã nhìn nhận và đánh giá vấn đề này như thế nào? Từ đó liên hệ
làm rõ ý nghĩa của vấn đề này trong thời đại 4.0 hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài làm
khóa luận tốt nghiệp là: “Vấn đề nhận thức trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” và ý nghĩa của nó trong thời đại
4.0 hiện nay.”
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Vấn đề nhận thức đã được đặt ra từ lâu trong lịch sử triết học. Đặc
biệt, từ khi triết học Mác ra đời, vấn đề nhận thức được xem là một trong
những vấn đề trung tâm xuyên suốt cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm. Với những quan điểm tiến bộ về nhận thức, Lênin đã trình
bày vấn đề này một cách khoa học và có hệ thống, đặc biệt được thể hiện rõ
nhất trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.
Đặc biệt, từ những quan điểm tiến bộ về nhận thức, Lênin đã vạch rõ lối đi
đúng đắn trong việc xem xét và giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Trong quá trình thu thập tài liệu, những nội dung bàn về vấn đề nhận
thức đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, tiếp cận ở mức độ tương đối
sâu sắc như các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu của tác giả Vũ Văn Viên, Đỗ
Thị Hưng về vấn đề lý luận nhận thức. Hay cơng trình nghiên cứu “Tiếp cận
một số vấn đề về nhận thức khoa học” của Tiến sĩ Bùi Mạnh Hùng. Và các bài

viết liên quan đến vấn đề nhận thức trong tác phẩm “Sức sống của một tác
phẩm triết học”. Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đều đã trình bày
một cách khái quát nhất và có hệ thống góp phần mang lại cái nhìn hồn thiện


3
hơn về vấn đề nhận thức. Tuy nhiên đối với đề tài nghiên cứu về: Vấn đề nhận
thức trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
và ý nghĩa của nó trong thời đại 4.0 hiện nay, vẫn chưa có cơng trình nào
nghiên cứu. Những cơng trình trên là nguồn tài liệu q giá để tơi tham khảo
và hình thành được đề tài nghiên cứu của mình.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vấn đề nhận thức trong tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, qua đó giúp
chúng ta hiểu được ý nghĩa của nó trong thời đại 4.0 hiện nay
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài đi sâu làm rõ các nội dung liên quan đến vấn đề nhận thức trong
tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” từ đó giúp
cho chúng ta có một cách hiểu đúng đắn và hồn chỉnh hơn nữa về vấn đề nhận
thức
- Thơng qua tìm hiểu vấn đề nhận thức trong tác phẩm, từ đó chúng ta
thấy rõ được ý nghĩa của nó trong thời đại 4.0 hiện nay
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: Đề tài nghiên cứu về vấn đề nhận thức trong tác phẩm
“Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” và ý nghĩa của nó
trong thời đại 4.0
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề nhận thức của
con người đặc biệt là vấn đề nhận thức trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” từ đó hiểu được ý nghĩa của nó khi nghiên

cứu vấn đề này trong thời đại 4.0 hiện nay.
- 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là lý luận


4
về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngồi ra đề tài cịn còn sử dụng kết hợp các phương pháp như: phương pháp
phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp kết hợp giữa lịch sử và logic, phương
pháp khái qt hóa...
6. ĐĨNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Đề tài đã khái quát, hệ thống những nội dung liên quan đến vấn đề
nhận thức trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”
- Thông qua các nội dung đã được trình bày, để tài tiếp tục liên hệ thực
tế để hiểu được ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề nhận thức trong thời đại
4.0 hiện nay
- Ngoài ra đề tài còn là nguồn tài liệu tham khảo cho các sinh viên
chuyên ngành triết học và những ai quan tâm
7. KẾT CẤU CỦA KHĨA LUẬN
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu đề tài có kết cấu thành
2 chương và 6 tiết:
CHƯƠNG 1
VẤN ĐỀ NHẬN THỨC TRONG TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA
DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN”
1.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm và kết cấu tác phẩm
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Lênin viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán” trong hoàn cảng nước Nga sau thất bại của cuộc cách mạng dân chủ tư

sản (1905 - 1907). Trước tình trang thối trào của cách mạng, nước Nga bị đặt
dưới quyền thống trị hà khắc của chế độ qn chủ chun chế Nga Hồng.
Chính quyền chun chế Nga Hoàng thẳng tay đàn áp các nhà cách mạng, tước
đoạt mọi thành quả mà cuộc cách mạng thu được, bọn phản động đã tấn công


5
cách mạng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng đời sống nhân dân vô
cùng khổ cực
Nguy hại hơn, sự thất bại của cuộc cách mạng 1905 không những đem
lại sức mạnh cho cuộc tấn công trực diện của bọn phản động vào triết học Mác
mà còn làm cho bộ phận tham mưa của giai cấp công nhân Nga bị phân hóa
sâu sắc, một số phần tử tri thức là đảng viên đảng dân chủ xã hội và một số
người trong giai cấp tư sản vốn là đồng minh của cách mạng đã chao đảo rời bỏ
hàng ngũ cách mạng đi theo chế độ chuyên chế Nga Hoàng. Phái Men-sê-vích
thì sa sút tinh thần, hoảng sợ... từ đó dấy lên phong trào chống đảng, đòi thủ
tiêu đảng, thủ tiêu đấu tranh chính trị... xuất hiện trào lưu cơ hội thỏa hiệp với
chế độ phản động, chống lại phong trào cách mạng. Đây cũng là thời kỳ mà
Lênin nhận xét là “Chủ nghĩa duy vật đâu đâu cũng bị ruồng bỏ” và các thế lực
đủ loại “ liên minh với nhau và cùng thù ghét chủ nghĩa biện chứng”... Trong
xã hội, một số ngã theo chủ nghĩa duy tâm, thần bí, xuất hiện trào lưu “Tìm
thần” và “Tạo thần” trong giới tri thức. Trong văn học nghệ thuật, người ta tán
dương sự sùng bái chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng phi chính trị, từ bỏ những tư
tưởng dân chủ cách mạng có tính chất truyền thống của nước Nga. Có thể nói
rằng, các thế lực cách mạng đã làm tất cả những gì có thể làm để bơi nhọ giai
cấp cơng nhân và chính đảng của nó, phá bỏ những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác
Đặc biệt, trong những năm cuối cùng của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
trước sự phát triển của khoa học tự nhiên, đặc biệt là vật lý học phát triển như
vũ bão. Con người không chỉ nhận thức, khám phá thế giới vĩ mô mà cịn đi

sâu nhận thức thế giới vi mơ, nhiều quan điểm mới về thế giới tự nhiên, về thế
giới vật chất buộc triết học phải đi sâu nghiên cứu và tìm câu trả lời. Trước địi
hỏi đó, Lênin đã miệt mài nghiên cứu và đấu tranh chống lại mọi trào lưu triết
học phản Mácxít, bảo vệ và phát triển triết học Mác. Tác phẩm “Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” ra đời đã khái quát những thành tựu


6
mới của khoa học tự nhiên, vạch ra con đường, phương pháp thoát khỏi sự
khủng hoảng trong khoa học tự nhiên. Lênin đã phê phán chủ nghĩa Makhơ,chủ
nghĩa duy tâm về vật lý và làm giàu thêm triết học Mácxít trên tất cả các lĩnh
vực từ thế giới quan, nhận thức luận,những quan điểm về xã hội.... tất cả đã
đem đến cho triết học Mácxít một diện mạo mới.
1.1.2. Kết cấu tác phẩm
Tác phẩm tính đến lần xuất bản lần thứ nhất (5/1905), ngoài phần lời
tựa, phần thay lời mở đầu và phần kết luận, tác phẩm gồm 6 chương với 39
mục. Trong Khóa luận này, tác giả phân tích các luận điểm của Lênin dựa trên
bản dịch tiếng Việt của tác phẩm in trong Lênin – Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến
Bộ, Matxcơva, 1981.
Chương 1: Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và
chủ nghĩa duy vật biện chứng I
Trong chương này, Lênin đã phê phán những nguyên lý triết học sai lầm
của Makhơ và Avênariút. Lênin bác bỏ quan niệm của phái Makhơ cho rằng
“cảm giác” hay “yếu tố” là cái có trước vật chất. Đồng thời, Lênin chỉ rõ toàn
bộ lịch sử khoa học tự nhiên đều chứng thực tính chính xác của nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật: vật chất là cái có trước ý thức và cảm giác là cái có sau.
Trong chương này, Lênin cũng phát triển tư tưởng của Ăngghen về vật chất
hữu cơ phát sinh từ vật chất vô cơ.
Chương 2: Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và
chủ nghĩa duy vật biện chứng II

Trong chương này, bằng sự phê phán khả tri luận của Cantơ, hồi nghi
luận của Hium, chủ nghĩa tín ngưỡng của Makhơ. Lênin đã bảo vệ và phát triển
lý luận nhận thức Mácxít. Theo Cantơ con người chỉ nhận thức được hiện
tượng mà khơng thể biết về “vật tự nó”... Quan niệm của Cantơ đối lập với
quan điểm của chủ nghĩa Mác về tính có thể nhận thức thế giới, về chân lý
khách quan, về thực tiễn được coi là tiêu chuẩn của chân lý


7
Lênin còn phê phán Makhơ lấy cớ bác bỏ thuyết “bất khả tri” để phủ
nhận sự tồn tại của “vật tự nó” phủ nhận thế giới hiện thực, để khẳng định chỉ
có cảm giác mới tồn tại trực tiếp và thế giới bên ngoài là một hỗn hợp của
những cảm giác. Từ đó, Lênin đã nêu ra 3 kết luận cơ bản của lý luận nhận
thức Mác xít và trong chương này Lênin đã nêu lên một định nghĩa kinh điển
về phạm trù vật chất.
Chương 3:Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và và
chủ nghĩa duy vật biện chứng III.
Ở đây, Lênin đã phê phán tính chất duy tâm chủ quan của phái Makhơ
xung quanh vấn đề vật chất, các mối liên hệ, và các hình thức tồn tại của nó.
Lênin đã vạch ra tiền đề nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thừa
nhận sự tồn tại khách quan của sự vật, của tự nhiên và đưa ra những quan niệm
khoa học về tính tất yếu, tính nhân quả, tính quy luật của thế giới, về không
gian và thời gian, về tự do và tất yếu.
Chương 4:Những nhà triết học duy tâm, bạn chiến đấu và những kẻ kế
thừa của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
Lênin làm rõ khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán và mối liên hệ của nó với các khuyanh hướng triết học khác ở phương
Tây thời bấy giờ, phê phán các biến dạng khác của chủ nghĩa Makhơ như
thuyết kinh nghiệm ký hiệu, thuyết kinh nghiệm nhất nguyên, thuyết nội tại...
Lênin khẳng định quan điểm của chủ nghĩa duy vật về thế giới vật chất. Thế

giới vật chất tồn tại từ trước khi có con người và tồn tại độc lập với ý thức của
con người, ý thức là đặc tính của vật chất có tổ chức cao: bộ óc con người,là cơ
năng của bộ óc con người.
Chương 5:Cuộc cách mạng mới nhất trong khoa học tự nhiên và phê
phán chủ nghĩa duy tâm vật lý học.
Khái quát những phát hiện mới trong vật lý học, Lênin phê phán chủ
nghĩa Makhơ đã lợi dụng những thành tựu đó để chống lại chủ nghĩa duy vật,


8

giải thích nguyên nhân cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên, vạch ra
thực chất của cuộc khủng hoảng vật lý học và chỉ ra con đường thoát khỏi cuộc
khủng hoảng đó. Đồng thời, Lênin đã làm giàu thêm lý luận nhận thức Mác xít
về chân lý khách quan về tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý, quan hệ
giữa lý luận và thực tiến
Chương 6: Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Lênin phê phán chủ nghĩa duy tâm của Makhơ trong lĩnh vực xã hội, qua
đó phát triển và làm giàu những nguyên lý duy vật lịch sử của Mác và
Ăngghen. Lênin cũng phân tích và nhấn mạnh tính đảng trong triết học, vạch rõ
con đường thứ ba trong triết học phương Tây đương đại và phê phán các triết
gia tư sản muốn đứng lên trên các các đảng phái triết học
Phần Kết Luận:
Lênin đã phê phán tính chất sai lầm, phản tiến bộ của chủ nghĩa Makhơ
và chủ nghĩa duy tâm vật lý trong khoa học tự nhiên. Ngoài ra, ông cũng nêu
lên 4 chỉ dẫn quan trọng trong việc đánh giá chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
Tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” là
một trong những tác phẩm mẫu mực trong việc bảo vệ và phát triển triết học
Mác trên cả hai phương diện nội dung và phương pháp.
1.2. Sự phê phán các nhận thức sai lầm trong triết học

Chủ nghĩa Makhơ (hay chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán) xuất hiện vào
những năm 70 của thế kỷ XIX ở Đức và Áo. Sự ra đời của nó nhằm chống lại
chủ nghĩa Mác, đây là lý luận triết học duy tâm chủ quan.
Để chống lại chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đã lấy chủ
nghĩa Cantơ làm vũ khí nhưng đã “tước bỏ” và “làm sạch” những yếu tố duy
vật trong triết học của Cantơ là thừa nhận “vật tự nó” để đi đến chủ nghĩa duy
tâm chủ quan và chủ nghĩa “bất khả tri” của Béccơli và Hium.
Phái Makhơ lập luận rằng, người ta nói với chúng ta rằng những người
duy vật thừa nhận là có một cái gì đó khơng thể tư duy được và không thể nhận


9
thức được, cái “vật tự nó” cái vật chất “ở ngoài kinh nghiệm” ở ngoài nhận
thức của chúng ta. Họ rơi vào một thứ chủ nghĩa thần bí thật sự, vì họ thừa
nhận có một cái gì đó ở bên kia, ở ngoài giới hạn của “kinh nghiệm” và của
nhận thức. Khi giải thích rằng vật chất tác động vào giác quan của chúng ta gây
nên cảm giác thì những người duy vật lấy cái “chưa biết được”, cái hư vơ làm
cơ sở, vì theo như lời họ nói, chính họ cũng đã thừa nhận rằng cảm giác của
chúng ta là nguồn duy nhất của nhận thức. Đây chính là những lý lẽ mà phái
Makhơ dùng để cơng kích chủ nghĩa duy vật.
Từ lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Lênin phê phán sự phê
phán của phái Makhơ đối với triết học Cantơ. Lênin cho rằng, các nhà triết học
theo phái Makhơ đứng trên lập trường của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán để
phê phán Cantơ. Vậy nên “họ đã lầm to khi tưởng rằng mình là người đầu tiên
đã “gạn lọc kinh nghiệm” của Cantơ khỏi thuyết tiên nghiệm và vật tự nó và do
đó đã tạo nên một khuynh hướng “mới” trong triết học”. Nhưng thật ra họ chỉ
tiếp tục đường lối cũ của các nhà triết học duy tâm chủ quan mà thôi.
Hơn nữa, theo Lênin sự phê phán của phái Makhơ về triết học Cantơ là
một bước thụt lùi so với sự phê phán của các nhà triết học duy tâm trước đó.
Bởi lẽ, Makhơ và Avênariút chỉ trích Cantơ khơng phải vì “Cantơ đã xét vật tự

nó một cách khơng đủ thưc tại, khơng đủ duy vật mà vì Cantơ đã thừa nhận sự
tồn tại của vật tự nó; khơng phải vì Cantơ đã không chịu rút ra từ hiện thực
khách quan ra tính nhân quả và tính tất yếu của giới tự nhiên mà vì Cantơ nói
chung, đã thừa nhận bất kỳ tính nhân quả và tính tất yếu nào”. Quan điểm này
của Lênin là sự phê phán có tính chất phê phán về một trào lưu triết học tự
nhận mình là khuynh hướng triết học mới, nhưng thực ra chỉ là biến tướng đơn
thuần của chủ nghĩa duy tâm truyền thống.
Chống lại thế giới quan khoa học và chủ nghĩa duy vật, phái Makhơ đã
lảng tránh vấn đề cơ bản của triết học, lảng tránh sự phân chia các nhà triết học
thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Nhưng họ lại ln tìm cách che


10
giấu chủ nghĩa duy tâm chủ quan của mình. Nếu như Béccơli gọi các sự vật là
tổng hợp của cảm giác, thì phái Makhơ lại đưa ra học thuyết về “các yếu tố của
thế giới” và gọi sự vật là “tổ hợp của các yếu tố”. Nhưng cái gọi là “yếu tố”
thực chất cũng là kinh nghiệm, cảm giác mà thôi.
Theo Makhơ, nhận thức của con người không xuất phát từ sự tồn tại
khách quan của các sự vật mà xuất phát từ cái gọi là “tài liệu trực tiếp”, nghĩa
là từ những cảm giác về âm thanh, màu sắc, mùi vị... Tuy nhiên, Makhơ khơng
gọi những cái đó là cảm giác mà gọi là “những yếu tố của kinh nghiệm chúng
ta”. Những “yếu tố” theo Makhơ là những viên gạch đầu tiên làm cơ sở cho
toàn bộ thế giới tâm lý và vật lý. Cũng theo ông, thuật ngữ mới này đã khắc
phục được sự tranh cãi lâu nay giữa các nhà duy vật và duy tâm. Vì theo
Makhơ, các “yếu tố” không phải là vật chất, cũng không phải là tinh thần;
không phải là vật lý, cũng không phải là tâm lý, mà là “cái trung gian”. Những
người theo chủ nghĩa Makhơ ở Nga đã nắm lấy học thuyết “yếu tố” để hết lời
ca ngợi nó. Họ coi đó là phát minh vĩ đại, là cơ sở để thống nhất chủ nghĩa
Makhơ và chủ nghĩa Mác.
Lênin tiếp tục phê phán Makhơ đã xóa nhịa tính đảng trong triết học

Mác, muốn đứng trên cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng thực
chất họ là những người duy tâm chủ quan. Họ chỉ nhắc lại quan điểm cũ của
Béccơli. Cái gọi là thuật ngữ mới chẳng qua chỉ là lợi dụng những thành tựu
mới của khoa học để che đậy chủ nghĩa duy tâm. Lênin coi lý thuyết về “yếu tố
trung gian” là sai lầm của Makhơ và những người theo chủ nghĩa Makhơ”
Lênin viết rằng “Thật là trẻ con nếu nghĩ rằng bịa đặt ra một từ mới, là
có thể tránh được những trào lưu triết học cơ bản,... triết học của các ngài chỉ là
chủ nghĩa duy tâm để uổng công che đậy sự trần trụi của chủ nghĩa duy ngã
của mình bằng một thuật ngữ “khách quan” hơn. Hoặc giả “yếu tố” không phải
là cảm giác và như vậy từ “mới” của các ngài tuyệt đối khơng có một chút ý
nghĩa gì cả và các ngài, chỉ làm ồn lên vơ ích mà thơi” (Tr. 56)


11
Cũng như Makhơ, Avênariút đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường duy tâm chủ quan. Ơng cho rằng, khơng có chủ thể thì khơng
có khách thể; khơng có cái gì lại khơng tồn tại cùng với sự suy nghĩ, cùng với ý
thức cả. Ông ta đã coi thường một sự thật là giới tự nhiên đã có trước con
người, tồn tại khách quan ngồi ý thức của con người.
Những người theo chủ nghĩa Makhơ đã che đậy chủ nghĩa duy tâm của
mình bằng cách tự cho họ là theo “Chủ nghĩa thực tại ngây thơ”. Ý đồ đó của
họ đã bị Lênin vạch trần: “ Thuyết thực tại ngây thơ” của bất cứ một người
lành mạnh nào, không quan nhà thương điên hay không qua trường học của
những nhà triết học duy tâm, là ở chỗ thừa nhận sự tồn tại của vật, của hoàn
cảnh, của thế giới không phụ thuộc vào cảm giác của chúng ta, vào ý thức của
chúng ta, vào cái tôi của chúng ta và vào con người nói chung” (Tr.74)
Trên cơ sở xuất phát từ quan niệm sự vật là phứ hợp của những thuộc
tính đã được gắn liền với các cảm giác và được gọi là các “yếu tố”. Makhơ đã
đặt cho khoa học nhiệm vụ cơ bản không phải là nghiên cứu hiện thực khách
quan mà là nghiên cứu phức hợp cảm giác. Vì cái vật lý và cái tâm lý đã hòa

lẫn vào nhau trong cái được gọi là các “yếu tố” và do đó đi tìm cái hiện thực ở
bên ngoài kinh nghiệm, bên ngoài phức hợp cảm giác là siêu hình. Vì vậy, theo
Makhơ nhiệm vụ của khoa học chỉ là: Thứ nhất, nghiên cứu những quy luật về
mối liên hệ giữa các biểu tượng (Tâm lý học). Thứ hai, tìm ra những quy luật
về mối liên hệ giữa các cảm giác (Vật lý học). Thứ ba, Giải thích những quy
luật về mối liên hệ giữa cảm giác và biểu tượng (Tâm lý vật lý học).
Phủ nhận thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác, Makhơ coi nhiệm
vụ của khoa học chỉ là nghiên cứu, mơ tả những tri thức có tính chất kinh
nghiệm- đó là thực chất của chủ nghĩa thực chứng Makhơ, điều đó thể hiện tính
đảng duy tâm trong triết học Makhơ.
Lênin đã chỉ rõ, triết học bao giờ cũng mang tính đảng, tính đảng của
triết học thể hiện ở chỗ nó phục vụ cho lợi ích của giai cấp nào, cho chính trị


12
của giai cấp nào và thuộc về trường phái triết học nào - duy vật hay duy tâm,
hết thảy những người theo phái Makhơ đều có tham vọng muốn “ vượt lên
trên” chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, muốn khắc phục sự “cũ kỹ” đó
nhưng cuối cùng thì họ lại mỗi lúc sa vào chủ nghĩa duy tâm và kiên quyết tiến
hành một cuộc đấu tranh đến cùng chống lại chủ nghĩa duy vật. Lênin cho rằng
triết học hiện đại hay triết học hai nghìn năm trước đây đều có tính đảng. Chủ
nghĩa Mác địi hỏi một ngun tắc tính đảng cơng khai, rõ ràng và triệt để của
triết học.
Vạch trần sự thỏa hiệp, đầu hàng của những người theo phái Makhơ ở
Nga Lênin viết: “Điều bất hạnh của những người theo phái Makhơ ở Nga là
muốn “điều hòa” học thuyết Makhơ với chủ nghĩa Mác... Các mưu toan đủ loại
của họ để phát triển và bổ sung chủ nghĩa Mác đều dựa trên những phương
pháp cực kỳ ngây thơ” (Tr 424, 425). Lênin cũng chỉ rõ, dù những người theo
chủ nghĩa Makhơ dùng những lời lẽ có vẻ khoa học, viện dẫn ra cả “nhận thức
luận hiện đại”, “triết học tối tân”, “triết học của khoa học tự nhiên hiện đại”...

thì họ vẫn khơng che dấu được thực chất của mình là những người bảo vệ chủ
nghĩa tín ngưỡng, Lênin viết: “Dựa vào tất cả những học thuyết dường như tối
tân đó, những kẻ phá hoại chủ nghĩa duy vật biện chứng ở nước ta, đã không
chút ngại ngùng đi đến chỗ thừa nhận ngay thuyết tín ngưỡng...nhưng khi cần
phải tỏ rõ thái độ của họ đối với Mác và Ăngghen thì họ lại mất hết cả dũng
khí, mất hết cả sự tơn trọng đối với niềm tin của bản thân họ. Trên thực tế, như
thế là hoàn toàn rời bỏ chủ nghĩa duy vật biện chứng, tức rời bỏ chủ nghĩa
Mác” (Tr.10)
Lênin đã vạch rõ mối liên hệ sâu sắc giữa chủ nghĩa Makhơ với tơn giáo,
chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy tâm, với tính cách là một xu hướng triết học, là biện
pháp quan trọng để duy trì và giữ vững tơn giáo. Nhờ kết quả sự nghiên cứu
toàn diện về chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, nhờ đem so sánh chủ nghĩa ấy
với các biến dạng khác của chủ nghĩa duy tâm. Lênin đã đi đến kết luận rằng


13
chủ nghĩa duy tâm “... chẳng qua chỉ là một hình thái tế nhị và tinh vi của chủ
nghĩa tín ngưỡng, một chủ nghĩa được vũ trang đầy đủ, có trong tay những tổ
chức rất rộng lớn và lợi dụng những sự dao động nhỏ nhất trong tư duy triết
học, không ngừng tiếp tục ảnh hưởng vào quần chúng”. “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” là tác phẩm của chủ nghĩa vơ thần mang tính
chiến đấu của giai cấp vô sản, dựa trên cơ sở một thế giới quan khoa học triệt
để là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, khơng điều
hịa với bất kỳ hình thức biện hộ nào cho tơn giáo.
Có thể nói rằng, cơng lao vĩ đại nhất của Lênin là ở chỗ: trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết bất khả tri, Người đã phát
triển tồn diện học thuyết Mácxít về tính chất có thể nhận thức được thế giới,
lý luận về phản ánh. Lênin đã bảo vệ quan niệm duy vật về cái tâm lý, về ý
thức với tính cách là sản phẩm cao nhất của vật chất, với tính cách là chức
năng của óc con người. Người nhấn mạnh rằng tư duy, ý thức là sựu phản ánh

thế giới bên ngoài. Người đã định nghĩa một cách xuất sắc cảm giác là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan, đã phê phán thuyết tượng trưng hay
thuyết tượng hình - một thứ lý luận bất khả tri - cho rằng cảm giác chỉ là những
ký hiệu ước lệ chứ khơng phải là hình ảnh của những vật có thực. Ngay trong
thời đại của chúng ta, thuyết này vẫn được các đại biểu của những xu hướng
triết học tư sản hiện đại tuyên truyền, cho nên sự phê phán của Lênin đối với
những cái thuyết ấy vẫn có một ý nghĩa nóng hổi.
1.3. Quan điểm của Lênin về nhận thức thông qua lý luận nhận thức
mà Người đã phát triển

1.3.1. Nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức khoa học
Lênin coi lý luận nhận thức là một vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa duy
tâm đã lợi dụng những thành tựu của vật lý học và khoa học tự nhiên để ra sức
chứng minh rằng thế giới là không thể nhận thức được, rằng nhận thức của con


14
người là hạn chế... Trong ba chương đầu của tác phẩm, Lênin đã phê phán nhận
thức luận của chủ nghĩa Makhơ, vạch rõ sự khác nhau giữa lý luận nhận thức
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và cái gọi là “lý luận nhận thức” của chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán.
Lênin đã giải quyết vấn đề nhận thức luận xuất phát từ cách giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học. Lênin khẳng định rằng, trong mọi điều kiện của
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thì việc nhận thức
đúng đắn thực chất và tính chất phát triển của khoa học chỉ có thể thực hiện
được trên cơ sở nhận thức một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học mà
triết học Mác đã vạch ra.
Xuất phát từ tư tưởng này, Lênin cho rằng những nhà triết học hay bác
học hoặc có ý thức hoặc vô ý thức nhất định phải trả lời những vấn đề sau: Một

là, vật chất hay là ý thức cái nào có trước. Hai là, có thừa nhận khả năng nhận
thức đúng đắn thế giới xung quanh của con người không. Thực tiễn đã chứng
minh rằng, thế giới quan của nhà nghiên cứu thường được thể hiện trong những
khái quát khoa học. Bằng cách này hay cách khác, thế giới quan đó ln để lại
dấu ấn của mình trong những kết luận khoa học của họ. Vì vậy, chỉ có sự phân
tích những kết luận ấy trên lập trường vấn đề cơ bản của triết học, thì mới vạch
ra được nguyên nhân dẫn đến những kết quả khoa học có giá trị, được ẩn giấu
dưới các hình thức triết học khác nhaucủa nhà khoa học đó. Chính vì vấn đề cơ
bản của triết học có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận to lớn như vậy,
cho nên xung quanh vấn đề này có rất nhiều ý kiến trái chiều khác nhau.
Vấn đề cơ bản của triết học, theo Ăngghen là mối quan hệ giữa tư duy và
tồn tại, khi đề cập đến mối quan hệ giữa hai mặt của vấn đề cơ bản, một số lớn
các nhà triết học trước Mác đã tách rời hai mặt đó, họ cho rằng mỗi mặt do một
ngàng khoa học nghiên cứu riêng biệt. Mặt thứ nhất thuộc về bản thể luận tức
học thuyết về tồn tại; mặt thứ hai thuộc về nhận thức luận tức học thuyết về
nhận thức. Họ đã đối lập bản thể luận với nhận thứ luận, coi đó là hai ngành


15
tách rời nhau. Đối với họ, nhận thức luận chỉ nghiên cứu về tư duy, khơng liên
quan gì đến thế giới khách quan, vì theo họ nhận thức là do trời ban cho, là do
sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” chứ không phải do sự phản ánh của hiện
thực khách quan. Đó là nhận thức luận duy tâm.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng tìm thấy mối liên hệ khăng khít
và sự thống nhất hữu cơ giữa bản thể luận và nhận thức luận và cho rằng: nhận
thức là sự phán ánh thế giới khách quan vào bộ não người, nhận thức chỉ là
những hình ảnh của các sự vật tồn tại khách quan ngoài ý thức con người. Thế
giới khách quan đang vận động, phát triển khơng ngừng, sự vận động, phát
triển đó tn theo những quy luật của phép biện chứng; do đó ý thức con người
phản ánh thế giới khách quan cũng không ngừng vận động, phát triển và cũng

tuân theo những quy luật của phép biện chứng. Lênin đã đưa ra 3 kết luận cơ
bản của nhận thức luận Mác xít như sau: Thứ nhất, sự vật tồn tại một cách
khách quan và độc lập với ý thức của chúng ta. Thứ hai, giữa hiện tượng và
“vật tự nó” khơng có một sự khác biệt có tính ngun tắc nào cả. Thứ ba, sự
nhận thức hiện thực phát triển từ chỗ đi từ chưa biết đến biết, từ nhận thức
chưa đầy đủ, chưa chính xác đến nhận thức đầy đủ và chính xác hơn.Như vậy,
lý luận về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng đòi hỏi phải giải quyết
trên cơ sở duy vật cả mặt thứ nhất và mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học.
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là
q trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Ở
đây chủ thể nhận thức là con người, tuy nhiên khi tiến hành một hoạt động
nhận thức cụ thể nào đó, chủ thể có thể là một cá nhân, một tầng lớp, một giai
cấp, dân tộc. Trong khi tiến hành hoạt động nhận thức, con người ln chịu sự
chi phối của hồn cảnh lịch sử - xã hội cụ thể, tức là luôn hoạt động với tư cách
một thực thể xã hội với những lợi ích giai cấp nhất định, với những chuẩn mực
giá trị, những tâm trạng, truyền thống được thể hiện trong nền văn hóa củ dân
tộc... Cịn khách thể nhận thức là toàn bộ thế giới hiện thực. Với một con người


16
cụ thể, một nhóm người cụ thể, khách thể nhận thức là một sự vật, hiện tượng
nào đó, một bộ phận của hiện thực nằm trong phạm vi tác động của hoạt động
nhận thức của chủ thể đó. Như vậy, không chỉ chủ thể nhận thức, mà cả khách
thể nhận thức cũng mang tính lịch sử - xã hội.
1.3.2. Bản chất của nhận thức
Xung quanh vấn đề nhận thức có rất nhiều ý kiến trái chiều khác nhau.
Các nhà triết học duy tâm không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với
ý thức, và do đó khơng thừa nhận rằng nhận thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan. Đối với nhiều nhà duy tâm chủ quan, tất cả mọi cái đang tồn tại
đều là phức hợp những cảm giác của con người. Do đó, nhận thức theo họ

chẳng là sự nhận thức các cảm giác, biểu tượng của con người.
Nhiều nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới, song coi nhận thức cũng không phải là sự phản ánh hiện thực
khách quan chỉ là sự tự nhận thức của ý niệm, tư tưởng tồn tại ở đâu đó ngồi
con người.
Những người theo thuyết Hồi nghi thì nghi ngờ tính xác thực của tri
thức, biến sự nghi ngờ thành một nguyên tắc nhận thức, thậm chí chuyển thành
nghi ngờ sự tồn tại của bản thân thế giới bên ngồi. Cịn những người theo
thuyết Không thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức của thế giới. Đối với
họ, thế giới là khơng thể biết được, lý trí của con người có tính chất hạn chế và
ngồi giới hạn của cảm giác ra con người khơng thể biết được gì nữa.
Trước tình hình đó, Lênin đã phê phán, vạch ra sai lầm của chủ nghĩa
duy tâmchủ quan, chủ nghĩa duy tâm khách quan, thuyết Hồi nghi, thuyết
Khơng thể biết. Lênin cũng chỉ ra sai lầm của chủ nghĩa duy vật trước Mác,
mặc dù khẳng định được nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
đầu óc con người, con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng họ bị hạn
chế bởi tính siêu hình, máy móc, trực quan và khơng thấy được tính sáng tạo


17
của q trình nhận thức, khơng thấy được vai trị của thực tiễn đối với nhận
thức, cũng như không giải quyết được triệt để bản chất của nhận thức.
Mác và Ăngghen trên cơ sở kế thừa những thành tựu về khoa học, kỹ
thuật và thực tiễn xã hội để xây dựng nên lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên
tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài con người,
độc lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người.
Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về nguyên
tắc khơng có cái gì là khơng thể biết. Dứt khốt là khơng có và khơng thể có

đối tượng nào mà con người khơng thể biết được, chỉ có những cái hiện nay
con người chưa biết,nhưng trong tương lai với sự phát triển của khoa học và
thực tiễn, con người sẽ biết được. Với khẳng định này, lý luận nhận thức
Mácxít một lần nữa khẳng định sức mạnh của con người trong việc nhận thức
và cải tạo thế giới.
Nhận thức là một q trình phức tạp, nhờ có nhận thức con người mới có
ý thức về thế giới, ý thức về cơ bản là kết quả của quá trình nhận thức thế giới.
Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức của con
người, tác động vào các giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý
thức. Con người (cá nhân hoặc nhóm người, giai cấp hoặc cả dân tộc) là chủ
thể tích cực, sáng tạo của nhận thức. Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như
lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức... đều tham gia vào quá
trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận
thức. Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận
thức hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt
động nhận thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với
hiện thực khách quan, phạm vi của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu
là tùy theo sự phát triển của nhận thức, của khoa học.


18
Ba là, nhận thức không phải là một hành động tức thời, đơn giản, máy
móc, và thụ động mà là một quá trình biện chứng, năng động, sáng tạo. Quá
trình nhận thức diễn ra theo con đường “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Đó cũng chính là q trình nhận
thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu
sắc hơn. Vì vậy, trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực
khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng. Nghĩa là đừng giả định
rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem
sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không biết như thế nào, sự hiểu biết khơng đầy đủ

và khơng chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào”.
Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực
tiễn còn là mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận
thức. Nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng , năng
động, sáng tạo, thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.
Một trong các vấn đề quan trọng nhất mà “Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán” đặt ra là vấn đề xây dựng lý luận phản ánh. Cơ
sở nền tảng cho việc xây dựng lý luận phản ánh đó là quan điểm: “Hết thảy
mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống như cảm giác, - đặc
tính phản ánh”. Trong cuộc đấu tranh chống lại những nhà triết học duy tâm đủ
mọi sắc thái, Lênin đã thường xuyên sử dụng một luận điểm mà người ta
thường coi đó là quy luật cơ bản của sự phản ánh: “Nếu không có cái bị phản
ánh thì khơng thể có cái phản ánh, nhưng cái bị phản ánh luôn tồn tại một cách
độc lập đối với cái phản ánh”. Và do chỗ, ý thức là hình thức cao nhất của sự
phản ánh, nên lý luận phản ánh của Lênin đã được thừa nhận là cơ sở nền tảng
của nhận thức luận duy vật biện chứng.
Quan điểm của Lênin về sự phản ánh với tính cách là thuộc tính chung
của vật chất góp phần lý giải một cách khoa học sự xuất hiện của ý thức, đồng
thời có ý nghĩa to lớn trong việc luận chứng một cách duy vật vấn đề cơ bản


19
của triết học trên cả hai phương diện nhận thức luận và bản thể luận. Từ luận
điểm cho rằng, toàn bộ vật chất có thuộc tính chung - thuộc tính phản ánh - về
mặt lơgíc, có thể rút ra kết luận rằng tất cả các hình thức phản ánh bắt đầu từ
hình thức sơ đẳng nhất trong giới tự nhiên vơ sinh như phản ánh vật lý, cho đến
hình thức hoàn thiện nhất và phát triển nhất là ý thức đều có mối quan hệ qua
lại trong tiến trình tiến hóa của vật chất. Tất cả các hình thức của phản ánh đều
là thuộc tính của chính vật chất và ý thức, không thể được đưa vào vật chất từ
cái phi vật chất nào đó. Đồng thời, quan điểm cho rằng phản ánh là thuộc tính

chung của vật chất đưa lại cơ sở để khẳng định về mặt nguyên tắc tính có thể
nhận thức được của thế giới bởi hình thức phản ánh cao nhất,- ý thức con
người.
Bên cạnh đó, quan điểm về sự tồn tại ở toàn bộ toàn bộ vật chất thuộc
tính phản ánh đã làm phong phú thêm nhận thức luận duy vật biện chứng; nó
đóng góp phương pháp luận quan trọng trong việc nghiên cứu nguồn gốc của
các hình thái phản ánh, đồng thời có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của các ngành tri thức và kỹ thuật hiện đại.
1.3.3. Vấn đề chân lý
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, Lênin đã đưa ra và giải quyết một cách sâu sắc, toàn diện một loạt vấn
đề quan trọng của triết học, phê phán một cách sâu sắc chủ nghĩa duy tâm và tư
biện trên nhiều vấn đề về xã hội và nhận thức, trong đó có vấn đề chân lý. Sự
phân tích một cách sáng tạo những vấn đề mới của triết học và phê phán những
quan điểm phi Mácxít. Vấn đề chân lý, một trong những vấn đề trung tâm của
lý luận nhận thức và của triết học nói chung đã được Lênin dành cho một vị trí
xứng đáng trong tác phẩm của mình. Sở dĩ, có thể coi vấn đề chân lý là một
trong những vấn đề quan trọng của triết học, vì việc giải quyết vấn đề này đã
bao hàm việc giải quyết hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học: Thứ nhất,


20
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, cái nào quyết định cái nào? Thứ hai, Con người
có thể nhận thức được thế giới hay khơng? Và nếu có, thì khả năng đến đâu?
Kế thừa và phát triển những luận điểm quan trọng của Mác và Ăngghen
về chân lý, đồng thời sử dụng, đánh giá và lý giải một cách có phê phán quan
điểm của Hêghen về chân lý, khái quát những thành tựu mới nhất của nhận
thức khoa học và thực tiễn xã hội đương thời, phê phán một cách sâu sắc và
toàn diện các quan điểm duy tâm về chân lý của phái Makhơ, chủ nghĩa thực
dụng, Lênin đã đưa ra những quan điểm mới về vấn đề chân lý.

Học thuyết về chân lý được Lênin xây dựng trên các quan điểm nền tảng
sau đây như: Thừa nhận vai trò quyết định của thực tiễn trong nhận thức với tư
cách là cơ sở, động lực, mục đích chủ yếu của nhận thức, đồng thời là tiêu
chuẩn quyết định tính chân lý của nhận thức và phân tích tính mâu thuẫn của
quá trình nhận thức. Xuất phát từ cơ sở đó, Lênin coi chân lý là q trình phản
ánh các quy luật của thế giới vật chất vào trong ý thức của con người, là kết
quả mang tính lịch sử - cụ thể của nhận thức thế giới. Lênin cịn cho rằng, tính
chất biện chứng của chân lý được chế định bởi tính chất mâu thuẫn của các
hiện tượng thuộc thế giới bên ngoài.
Lênin coi chân lý là kết quả của quá trình phản ánh đúng đắn thế giới vật
chất cũng như các quy luật của thế giới vật chất vào óc người. Trong các quan
niệm, trong nội dung tư duy, có thể có một nội dung khách quan khơng? nghĩa
là có chân lý khách quan khơng, Lênin khẳng định chân lý là khách quan, nó là
sự phán ánh đúng đắn thế giới khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con
người.
Trong lịch sử triết học, vấn đề chân lý được hiểu theo những cách khác
nhau, tùy thuộc mỗi hệ thống triết học cụ thể. Cách hiểu đúng đắn về vấn đề
chân lý như là sự tương ứng của tri thức với sự vật được nhận thức đã có từ
thời cổ đại, cụ thể là trong triết học Arixtốt. Truyền thống hiểu chân lý như vậy
đã tiếp tục trong triết học của Ph. Bêcơn, Spinôda, Điđrô, Hônbách.... Trong hệ


×