Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

1450000132 khoa AVPP thích quảng thuận lịch sử phật giáo ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.49 KB, 11 trang )

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HCM
KHOA ANH VĂN PHẬT PHÁP
MÔN: LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KÌ II

ĐỀ TÀI:
CUỘC ĐỜI TƠN GIẢ MAHĀ KASSAPA
QUA KINH TẠNG PALI

Giáo thọ hướng dẫn : TT.TS. THÍCH CHƠN MINH
Tăng sinh

: Thích Quảng Thuận

Thế danh

: Trần Quốc Thái

MSSV

: 1450000132 – Khố XIV

TP. Hồ Chí Minh
tháng 10/2020


ĐIỂM

NHẬN XÉT CỦA GIÁO THỌ HƯỚNG DẪN
….……………………………………………………………..


…….…………………………………………………………..
……….………………………………………………………..
………….……………………………………………………..
…………….…………………………………………………..
….……………………………………………………………..
…….…………………………………………………………..
……….………………………………………………………..
………….……………………………………………………..
…………….…………………………………………………..
….……………………………………………………………..
…….…………………………………………………………..
……….………………………………………………………..
………….……………………………………………………..
…………….…………………………………………………..


Trong bốn mươi lăm năm thuyết pháp độ sinh, Thế Tôn đã đem ngọn đèn chánh
pháp chiếu sáng nhân gian, Ngài đã hoá độ rất nhiều đệ tử xuất gia thuộc mọi tầng lớp
trong xã hội, từ các hàng vua quan, trưởng giả đến những người thuộc giai cấp cùng khổ
như Upāli, Sunīta…, ngay cả những người có tín tâm sâu sắc với Phật cho đến hàng Bàla-môn ngoại đạo như ba anh em Kassapa, Sāriputta…
Trong các Thánh đệ tử Phật, Tôn giả Mahā Kassapa được xếp vào hàng thập đại
đệ tử với công hạnh đầu đà đệ nhất. Sau khi Thế Tơn nhập Niết-bàn, Tơn giả đã có vai
trị rất quan trọng trong việc giữ gìn lời dạy của Đức Phật, ngài đã đứng ra tổ chức và
chủ trì Đại hội Phật giáo lần thứ nhất gồm năm trăm vị A-la-hán tại Sattapanniguhā
(hang Thất Diệp) để kiết tập lại tất cả những lời dạy của Thế Tôn.
Qua đề tài khảo luận “Cuộc đời Tôn giả Mahā Kassapa qua kinh tạng Pali” với
nguồn tư liệu chính từ kinh tạng Nikāya, người viết muốn tìm hiểu về cuộc đời, cơng
hạnh của ngài để lấy đó làm nguồn động lực cảnh sách cho chính bản thân cần nỗ lực
nhiều hơn trên con đường tu tập, tiếp nối gương xưa, nhất là trong thời buổi hiện đại
ngày nay, đời sống hưởng thụ trên giá trị vật chất trở thành sự cám dỗ không nhỏ đối

với người xuất gia trẻ.
1. Thời niên thiếu của Tôn giả Mahā Kassapa
Theo “Trưởng Lão Tăng Kệ” 1, Tôn giả Mahā Kassapa có tên Pippali-mānava, con
trai của Bà-la-mơn Kapila tại làng Bà-la-mơn Mahātittha ở Rājagaha, khơng có bất cứ
tài liệu nào trong Nikāya giải thích vì sao ngài có tên gọi Kassapa chỉ biết do trong Tăng
đoàn của Thế Tơn có nhiều vị tên Kassapa nên người đương thời gọi ngài là Mahā
Kassapa để phân biệt với những tôn giả Kassapa khác.
Sinh ra và lớn lên trong gia đình Bà-la-mơn quyền q, tuy được bảo bọc, nng
chìu với cuộc sống giàu sang tột bực nhưng Pippali-mānava khơng ham thích cuộc sống
hưởng thụ sung túc và các thú vui của người giàu có, chàng khơng chịu lập gia đình, xin
ở nhà để hầu hạ mẹ cha, ấp ủ chí nguyện xuất gia, sống đời ẩn sĩ sau khi cha mẹ qua đời.
Năm hai mươi tuổi, chàng bị mẹ mình, bà Sumanādevī, ép phải lập gia đình. Biết khơng
thể thay đổi ý định của thân mẫu, Pippali-mānava đành thoả hiệp bằng cách ra điều kiện
chỉ cưới cô gái nào thoả mãn những yêu cầu rất cao của chàng. Để hiện thực hố những
tiêu chuẩn của mình, chàng cho mời thợ khéo dùng vàng đúc bức tượng chân dung một
người con gái trẻ đẹp, mặc áo đỏ và đeo đồ trang sức rồi đưa cho cha mẹ để làm tiêu
chuẩn. Bà Sumanādevī đã tìm đến những vị Bà-la-mơn thơng thái, nhờ họ mang bức
tượng đi khắp nơi tìm người con gái “mơn đăng hộ đối” và xinh đẹp như bức tượng để
hỏi cưới về làm vợ cho con trai mình.
Nhóm Bà-la-mơn đi khắp các nơi, từ thôn làng này qua thành thị nọ, khi đến kinh
thành Sāgala, thuộc nước Madda, họ tìm được cơ gái Bhaddākāpilānī, mười sáu tuổi,
1

Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tiểu Bộ, tập III, chương XVIII, phẩm Bốn mươi kệ, Mahā-Kassapa, tr.469.

1


con của một vị Bà-la-mơn giàu có của dịng tộc Kosiya, nhan sắc của nàng còn rạng
ngời hơn cả bức tượng. Họ tìm đến gia đình nàng, trình bày việc hỏi cưới nàng cho con

trai của ông đại bá hộ Kapila, cha nàng biết gia đình của Pippali-mānava cịn giàu hơn
mình gấp vài lần nên tiếp nhận pho tượng và đồng ý hôn sự.2
Tuy nhiên, cũng như Pippali-mānava, Bhaddākāpilānī ưa thích sự tu hành, khơng
màng dục lạc trần thế. Họ đã viết thư trình bày nguyện vọng của nhau và gửi cho đối
phương nhưng hai người đưa thư gặp nhau giữa đường, họ bị lừa đánh tráo bức thư
thành hai bức thư tình, bày tỏ sự ái mộ đối với nhau, do đó hơn lễ vẫn diễn ra. Đêm tân
hơn, hai người nói rõ chí nguyện của nhau và thoả thuận sẽ giữ gìn lối sống thanh tịnh,
tương kính xem nhau như bạn đạo để chờ duyên xuất gia.
Sau khi song thân qua đời, hai vợ chồng kế thừa gia sản khổng lồ và phải lo giữ
gìn chúng, nhưng chí hướng xuất gia ngày nào của Pippali-mānava và vợ vẫn không bị
thối chuyển. Một hôm, trong lúc coi việc đồng áng, chàng thấy những người nơng phu
làm việc cho mình đang cày xới đất và chim chóc lao xuống bắt những con giun bị lộ ra
từ những rãnh cày, chàng xúc động và chợt nhận ra tài sản của mình có được đều liên
hệ đến nỗi thống khổ của chúng sanh nên quyết tâm xuất gia tu học.
Người viết nhận thấy nhân duyên đánh thức đạo tâm của Tôn giả có nhiều nét
tương đồng với sự kiện Lễ hạ điền khi Đức Phật còn là thái tử, cả hai đều có tâm từ bi
lớn và trí tuệ sâu sắc, đều có sự giác ngộ khi nhìn thấy bản chất đau khổ của cuộc đời,
khởi lên lòng thương cảm đối với mn lồi chúng sanh từ cơng việc đồng áng bình
thường, từ những đường cày của người nông dân trên đồng. Sự kiện này đã thơi thúc chí
nguyện xuất gia tu học ngày nào của Pippali-mānava trở lại một cách mạnh mẽ và dứt
khoát hơn:“Chật hẹp thay đời sống tại gia, đầy những bụi đời! Cịn xuất gia như đời
sống ngồi trời. Thật khơng dễ dàng ở trong gia đình có thể sống Phạm hạnh, hoàn toàn
viên mãn, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống khơng gia đình”.3
Pippali-mānava nói với vợ mình và cả hai cùng đồng ý, quyết định xuất gia. Họ
chia hết tài sản cho người làm và người nghèo xung quanh rồi tự cắt tóc, mặc y vàng,
mang bình bát, sống cuộc đời của hành giả không nhà. Lúc đầu, họ cùng đi với nhau,
sau thấy bất tiện nên từ giã nhau, mỗi người đi một hướng, Pippali-mānava rẽ theo con
đường phía bên phải và Bhaddā đi đường bên trái. Sự kiện này xảy ra sau khi Đức Phật
thành đạo và đang chuyển pháp luân tại Rājagaha.

2. Tôn giả Mahā Kassapa gặp Đức Phật
Trưởng lão Tăng kệ ghi lại, sự kiện thanh niên Pippali-mānava cùng vợ giữ gìn
giới hạnh thanh tịnh trong nhiều năm sống chung và chí nguyện xuất gia của hai người
2
3

Mingun Sayadaw, Tỳ khưu Minh Huệ (dịch), Đại Phật Sử, tập 6.A, tr.81.
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng Bộ, tập I, chương V: Tương Ưng Kassapa, tr.562.

2


khiến đại địa chấn động, Thế Tơn biết việc đó nên Ngài ngồi giữa đường từ Rājagaha
đến Nālandā như có ý đợi Pippali-mānava. Khi thanh niên Pippali-mānava thấy Phật,
chàng suy nghĩ như sau: “Ơi thật thế chăng, ta có thể thấy bậc Đạo Sư, tức là có thể
thấy bậc Thế Tơn! Ơi thật thế chăng, ta có thể thấy bậc Thiện Thệ, tức là có thể thấy
bậc Thế Tơn! Ơi thật thế chăng, ta có thể thấy bậc Chánh Đẳng Giác, tức là có thể thấy
bậc Thế Tơn?” rồi ngay lúc ấy, chàng cúi đầu đảnh lễ tự nhận mình là đệ tử và tôn xưng
Đức Phật là thầy. Sau khi nhận Pippali-mānava làm đệ tử, Thế Tơn đã có lời giáo giới:
“Phàm pháp gì tơi nghe, liên hệ đến thiện, sau khi đặc biệt chú ý, tác ý, tập trung tất cả
tâm (lực),… Phàm niệm gì thuộc về thân hành, câu hữu với hỷ, ta sẽ không bỏ niệm ấy.
Này Kassapa, Ơng phải học tập như vậy”. 4 Tơn giả lãnh thọ pháp từ Thế Tôn và tinh
cần thực hành 13 hạnh đầu đà trong bảy ngày, đến ngày thứ tám chánh trí khởi lên, ngài
chứng Thánh quả A-la-hán.
Có một điều đáng chú ý ở đây là trong Tương ưng Bộ kinh, chương V: Tương Ưng
Kassapa, có câu chuyện xảy ra khi Tôn giả Ānanda cùng đi với hội chúng gồm 30 Tỷkheo đệ tử là những thiếu niên trẻ tuổi, từ bỏ sự tu học, sống nếp sống thế tục đã bị Mahā
Kassapa quở trách như một đứa trẻ. Lúc đó Tỷ-kheo-ni Thullatissā thốt ra những lời
khơng hài lịng: “Sao Tơn giả Mahā Kassapa, trước kia là người theo ngoại đạo, lại
nghĩ có thể khơng hài lịng và gọi Tôn giả Ānanda, bậc Thánh Vedeha là đứa trẻ?” 5
Cũng trong Tương Ưng Kassapa, một lần Đức Phật có lời khuyên Tôn giả về việc

nên từ bỏ hạnh đầu đà, Ngài nói: “Này Kassapa, Ơng đã già rồi. Đã cũ nát là những vải
gai thô phấn tảo này của Ông đáng được quăng bỏ. Vậy này Kassapa, hãy mang những
y áo do các gia chủ cúng, thọ dụng các món ăn được mời và ở gần bên Ta.” 6
Theo chú giải Tăng Chi Bộ kinh, khi Đại hội Phật giáo lần thứ nhất diễn ra, ngài
Mahā Kassapa đã 120 tuổi,7 điều này có nghĩa ngài lớn hơn Đức Phật 40 tuổi.
Qua các dẫn chứng từ các nguồn tư liệu được nêu trên đã cung cấp cho chúng ta
hai điều về Tôn giả Mahā Kassapa. Thứ nhất, thời gian Tôn giả xuất gia được ghi lại là
sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài đang giáo hoá tại Rājagaha, thời điểm này Mahā
Kassapa phải hơn 75 tuổi. Đây là độ tuổi khơng cịn trẻ và khơng thể được gọi là “thanh
niên” như Tiểu bộ kinh và các truyền thuyết ghi chép. Thứ hai, trước khi xuất gia Mahā
Kassapa đã từng có thời gian tu tập theo ngoại đạo chứ không phải vừa quyết định xuất
gia đã gặp ngay Đức Phật là bậc thầy đầu tiên. Bên cạnh đó, chi tiết Tơn giả sau khi
nghe Đức Phật giáo giới đã thực hành hạnh đầu đà một cách miên mật dù trong lời dạy
của Thế Tơn khơng hề khuyến khích Tơn giả tu tập khổ hạnh và ngài được cơng nhận

Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng Bộ, tập I, chương V: Tương Ưng Kassapa, tr.563.
SĐD, tr.562.
6
SĐD, tr.349.
7
G. P. Malalasekera, Dictionary of Pāli Proper Names, vol-2, pg.482: He was one hundred and twenty at the time
of the First Recital (SA.ii.130)
4
5

3


là đệ nhất đầu đà, điều này cũng có thể chứng minh việc ngài ưa thích tu theo hạnh đầu
đà là bị ảnh hưởng từ thời gian tu tập theo giáo phái cũ.

3. Đức Phật trao y cho Mahā Kassapa
Khi nhắc đến Tơn giả Mahā Kassapa, có một sự kiện rất đặc biệt trong lịch sử Phật
giáo gắn liền với ngài, Tôn giả là Thánh đệ tử duy nhất được Đức Phật tặng y mà ngài
đang dùng. Câu chuyện do ngài kể lại cho Tôn giả Ānanda, được ghi lại trong Nikāya:
Một hôm Thế Tôn từ trên đường bước xuống và đi đến một gốc cây, Tôn giả Mahā
Kassapa đã xấp tư tấm y Tăng-già-lê làm bằng vải cắt, rồi thỉnh Thế Tôn ngồi xuống.
Sau khi ngồi xuống, Thế Tôn nói với Tơn giả: “Thật là mềm dịu, này Kassapa, là tấm y
Tăng-già-lê này làm bằng vải cắt của Ông”. Nhân đó, Tơn giả bạch cúng dường Thế
Tơn tấm y của mình. Thế Tơn đã hỏi Kassapa:
 Này Kassapa, Ơng có dùng tấm y phấn tảo làm bằng vải gai thô, đáng được
quăng bỏ của Ta không?
 Con sẽ dùng, bạch Thế Tôn, tấm y phấn tảo làm bằng vải gai thô, đáng
được quăng bỏ của Thế Tôn.
Như vậy, Tôn giả Mahā Kassapa cúng cho Thế Tôn tấm y Tăng-già-lê làm bằng
vải cắt; còn ngài dùng tấm y phấn tảo của Thế Tơn.8
Hồ thượng Thích Trung Hậu khi viết về Tôn giả Mahā Kassapa đã cho rằng ý
định của Thế Tơn trong việc hỏi Tơn giả có dùng tấm y phấn tảo làm bằng vải gai thô,
đáng quăng bỏ của Ngài khơng, ngụ ý hỏi xem Tơn giả có thể giữ vững đầy đủ các pháp
tu khổ hạnh hay không. Hồ thượng cũng cho rằng ngun nhân Tơn giả thực hành đầu
đà là từ lúc nhận y của Thế Tôn, “Mahā Kassapa đã tự hứa với lịng sẽ duy trì đời sống
khổ hạnh.”9 Người viết nghĩ rằng lý do này khơng hợp lý, vì ngay từ khi quy y làm đệ
tử Phật, quá trình tu tập trong 7 ngày để đạt được Thánh Quả, ngài đã hành pháp tu khổ
hạnh. Hơn nữa, chính Đức Phật lại là người khun Tơn giả nên từ bỏ khổ hạnh, điều
đó có nghĩa Ngài khơng khuyến khích hay mong muốn Kassapa thực hành khổ hạnh ở
độ tuổi khá cao của mình. Trong kinh tạng có ghi lại sự kiện Tơn giả ưa thích và tinh
cần thực hành hạnh đầu đà đến mức khi ngài lớn tuổi, Đức Phật khuyên ngài nên thọ
dụng y áo, thức ăn được mời và ở gần bên Thế Tôn nhưng ngài đã từ chối. Khi Thế Tơn
hỏi lí do, Tơn giả trình bày như sau:
Con thấy tự mình được hiện tại an lạc trú và vì lịng từ mẫn đối với chúng sanh
sắp đến, mong rằng các chúng sanh sắp đến sẽ bắt chước (ditthanugatim): “Đối với các

đệ tử Phật và tùy Phật (Buddhànubuddhasàvakà), mong họ trong một thời gian dài trở
thành những vị sống ở rừng và tán thán hạnh ở rừng... những vị đi khất thực... những vị
mang y phấn tảo... những vị mang ba y... những vị thiểu dục... những vị tri túc... những
8
9

Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng Bộ, tập I, chương V: Tương Ưng Kassapa, tr.564.
Lệ Như Thích Trung Hậu, Tơn giả Mahā Kassapa (Đại Ca-diếp), tr.52-54.

4


vị viễn ly... những vị không giao thiệp... những vị tinh cần và tán thán hạnh tinh cần...
họ sẽ thực hành như vậy, và như vậy trong một thời gian dài họ sống hạnh phúc an
lạc”.10
Như vậy việc thực hành hạnh đầu đà của ngài vì để tránh xa sự tham đắm nơi dục
lạc và vì lịng từ bi muốn người đến sau trong Tăng đoàn thấy được sự lợi lạc của hạnh
đầu đà nên ngài vẫn thân giáo bằng cách nghiêm trì hạnh này dù lớn tuổi.
Qua đó, chúng ta thấy, tuy Thế Tôn vẫn nêu cao lập trường Trung đạo nhưng Ngài
cũng không cấm việc thực hành hạnh đầu đà. Trong Tăng đoàn, Đức Phật vẫn cho phép
thực hành mười ba pháp khổ hạnh sau đây: mặc y phấn tảo; chỉ mặc ba y; sống bằng
khất thực; khất thực theo thứ lớp; nhất tọa thực; chỉ ăn một bát; không ăn đồ dư tàn; ở
rừng; ở gốc cây; ở giữa trời; ở nghĩa địa; nghỉ chỗ nào cũng được và hạnh ngồi không
nằm.11 Đối với những vị hành hạnh đầu đà để sống đời sống thiểu dục tri túc, diệt trừ
tham ái và có được sự an lạc trong việc thực hành. Đức Phật chẳng những cho phép mà
ngài cịn khen ngợi, như trường hợp của Tơn giả Mahā Kassapa, Thế Tôn từng tuyên
bố: “Trong các vị thuyết về hạnh đầu đà... tối thắng là Mahā Kassapa.”12
4. Hạnh khất thực nhà nghèo của Tơn giả Mahā Kassapa
Lịng từ bi của Tôn giả Mahā Kassapa rất lớn, ngài không chỉ thân giáo về hạnh
đầu đà cho hậu lai trong Tăng đồn khi tuổi cao mà cịn mở lịng từ của mình đến những

người kém phước, cố gắng tạo duyên lành cho họ được làm phước thông qua việc bố thí
thức ăn cho ngài. Do đó khi khất thực ngài thường chọn những khu dân cư nghèo khó,
ưu tiên cho những người kém phước hơn, để họ có cơ hội cúng dường, để có được phước
đức từ sự bố thí mà thoát khỏi quả báo nghèo khổ như đời sống hiện tại. Trong Nikāya
có ghi lại câu chuyện ngài đã từ chối thức ăn cúng dường thượng hạng của thiên chủ
Sakka để nhận sự cúng dường của cô gái ăn xin với suy nghĩ: “Khi ta đến gần, nữ nhân
này sẽ cho ta cơm cháy mà nàng nhận được cho phần mình, và do chính hành động ấy
nàng sẽ được tái sanh vào Hóa Lạc thiên giới. Khi ta đã giải thoát cho nàng khỏi tái
sinh vào địa ngục như vậy, chắc chắn ta sẽ tạo hạnh phúc thiên giới cho nàng”13
Như vậy, ngài khất thực vì lịng từ bi muốn chúng sanh gieo phước điền, muốn
cứu giúp cái khổ của chúng sanh chứ khơng phải vì tìm cầu lợi dưỡng, ngài hoan hỷ thọ
nhận thức ăn từ những người bệnh, người già yếu, tật nguyền, thậm chí có lúc thức ăn
đã ôi thiu, của người nghèo hiến cúng, nhưng ngài khơng chê và hoan hỷ thọ nhận với
lịng kính trọng và biết ơn người thí chủ. Chính Tơn giả cũng nói về câu chuyện mình
nhận cúng dường từ một người cùi qua kệ ngơn trong Trưởng lão Tăng kệ:

Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng Bộ, tập I, chương V: Tương Ưng Kassapa, tr.548.
Thích Phước Sơn, Thanh tịnh đạo luận toản yếu, tr.31-32.
12
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tăng Chi Bộ, tập I, chương I Một Pháp XIV. Phẩm Người Tối Thắng, tr.49.
13
Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tiểu Bộ, tập II, phẩm II. Cittalatà - Chuyện thứ ba: Lâu Đài Người Cho Cơm
Cháy, tr.114.
10
11

5


Từ trú xứ bước xuống,

Ta vào thành khất thực,
Ta cẩn thận đến gần,
Một người cùi đang ăn
Với bàn tay lở loét,
Nó bỏ vào một muỗng,
Khi bỏ vào muỗng ấy,
Ngón tay rời rơi vào tường
Dựa một chân vào tường
Ta ăn miếng ăn ấy
Đang ăn và ăn xong
Ta không cảm ghê tởm.14
Thông qua những lời tự thuật của Tôn giả Mahā Kassapa có thể thấy rằng ngài chẳng
những có lịng từ bi lớn mà sự tu tập thành tựu định lực của ngài cũng rất sâu sắc và mạnh
mẽ. Ngài thọ dụng thức ăn từ một người cùi, một trong những bệnh truyền nhiễm nan y
thời bấy giờ, với tâm bình thản khơng có chút gì dao động “Ta khơng cảm ghê tởm” định
lực của ngài lớn đến mức giúp thân tứ đại vượt qua sự nguy hại của bệnh cùi, ngài thọ dụng
mà vẫn an nhiên.
5. Niêm hoa vi tiếu
Theo truyền thuyết, vào mùa an cư thứ 19 tại Griddhakuta (núi Linh Thứu), một
hôm, Đức Phật từ trong trong tịnh thất đi ra, trên tay cầm cành hoa sen vàng, bước lên
giảng tòa ngồi và đưa cành sen lên. Bấy giờ cả đại chúng ngơ ngác nhìn nhau, duy chỉ
có Ca-diếp mỉm cười nhìn Phật. Ngay đó, Đức Phật dạy: “Như Lai có chánh pháp nhãn
tạng, Niết-bàn diệu tâm thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn. Hôm nay trao cho Thầy
Ca-diếp.”15
Theo Phật Tổ Đạo Ảnh kinh16 ghi chép: Đức Phật lại trao y tăng-già-lê bằng kim
tuyến cho ngài và dặn sau này trao cho Từ Thị, vị Phật trong tương lai. Ca-diếp đảnh
lễ vâng lời Phật dạy. Về sau, ngài phó chúc giáo pháp lại cho tơn giả A-nan, rồi mang
y tăng-già-lê vào núi Kê túc nhập định, chờ đức Từ Thị hạ sanh.17
Theo người viết, giai thoại này chỉ là truyền ngơn khơng có cơ sở vì trong kinh
tạng của Đại Thừa lẫn Ngun Thủy, chúng ta khơng tìm ra được câu chuyện niêm hoa

vi tiếu. Hơn nữa, trước khi nhập Niết-bàn, chính Đức Phật đã dạy: “Này Ānanda, Pháp

14
15

Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tiểu Bộ, tập III, chương XVIII, phẩm Bốn mươi kệ, Mahā-Kassapa, tr.469.
Thích Trung Hậu – Thích Hải Ấn, Đức Phật Thích Ca Đã Xuất Hiện Như Thế, tr.460.

16

Xuất hiện vào triều đại nhà Minh (1368-1662) do những vị cao tăng và Phật tử nổi tiếng thời đó vẽ lại tơn dung
của chư Tổ Ấn-Hoa.
17
Đại sư Hư Vân, Ban phiên dịch Huệ Quang (dịch), Phật Tổ Đạo Ảnh - Quyển 1, tr. 9

6


và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là
Đạo Sư của các Ngươi.” Đức Phật cũng nói “ Này Ānanda, hãy tự mình là ngọn đèn cho
chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng
Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một
gì khác.” 18
Qua đó người viết nhận thấy nếu thật sự chỉ có Tơn giả Mahā Kassapa là người
được Phật phó chúc, chắc chắn với trí tuệ và lịng từ bi của mình, Thế Tơn đã dạy đại
chúng phải nương tựa vào Mahā Kassapa làm bậc Đạo Sư, thay Ngài quản lý tăng đồn,
trơng coi đồ chúng. Nhưng Ngài đã khun các đệ tử hãy nương tựa vào Pháp và Luật
như một vị thầy dẫn đạo và bản thân Đức Phật cũng nói Ngài chưa bao giờ coi mình như
một người lãnh đạo, cầm đầu chúng Tỷ-kheo:
Này Ānanda, những ai nghĩ rằng: “Như Lai là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo”; hay

“chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Như Lai” thời này Ānanda, người ấy sẽ có lời
di giáo cho chúng Tỷ-kheo. Này Ānanda, Như Lai không nghĩ rằng: “Ta là vị cầm đầu
chúng Tỷ-kheo”; hay “chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta” thời này Ānanda, làm
sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo.19
Như vậy sự kiện “Niêm hoa vi tiếu” mà Thiền tông Trung Hoa thường y cứ để tôn
ngài làm sơ Tổ của thiền tông Ấn Hoa là tác phẩm do những nhà hoằng pháp đời sau
dựng nên, họ muốn thuyết phục với mọi người chỉ có dịng thiền của mình hoằng dương
mới đúng thật chính gốc từ Đức Phật, các tơng phái khác khơng chính gốc (vì ngồi sơ
Tổ của họ khơng ai hiểu và được Phật “truyền tâm ấn” cùng chánh pháp nhãn tạng).
6. Vai trị của Tơn giả Mahā Kassapa sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn
Trong Nikāya ghi lại khi Thế Tôn nhập Niết-bàn, Tôn giả cùng khoảng năm trăm
vị Tỷ-kheo đang trên đường từ Pāvā đến Kusināra, ngài thấy ngoại đạo Ājīvāka đang
cầm một bông mandārava, sau khi hỏi ngài biết Thế Tôn đã nhập Niết-bàn cách đó một
tuần. Lúc ấy, những Tỷ-kheo chưa giải thốt tham ái đều khóc than rầu buồn, duy chỉ
có ơng Subhadda vui mừng: “Thơi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc than.
Chúng ta đã được thốt khỏi hồn tồn vị Đại Sa-mơn ấy, chúng ta đã bị phiền nhiễu
quấy rầy với những lời: “Làm như thế này không hợp với các Ngươi. Làm như thế này
hợp với các Ngươi”. Nay những gì chúng ta muốn, chúng ta làm, những gì chúng ta
khơng muốn, chúng ta không làm.”
Tôn giả Mahā Kassapa nghe thấy nhưng ngài dùng thần lực chặn đứng sóng âm
lại khơng cho lan xa rồi động viên mọi người và nhanh chóng trở về đảnh lễ nhục thân
của Thế Tôn lần cuối. Do ý định của chư Thiên nên tại Kusināra không ai có thể châm

18
19

Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ, tập I, 16. Kinh Đại Bát Niết Bàn, tr.663.
SĐD, tr.583

7



giàn hoả Thế Tôn mà phải chờ đến khi ngài về tới, chân Thế Tôn tự đưa ra cho ngài
đảnh lễ xong, lễ trà tỳ mới diễn ra và hoàn mãn.20
Nhớ lại lời của Subhadda, Mahā Kassapa lòng lo lắng cho tương lai của Phật pháp,
e ngại sau khi Thế Tôn nhập diệt, giới luật sẽ bị thả lỏng hoặc coi thường, diệu pháp của
Như Lai sẽ bị huỷ diệt. Do đó ngài đã triệu tập năm trăm vị A-la-hán để tiến hành kiết
tập kinh điển. Dưới sự bảo trợ của vua Ajātasattu, ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt,
Đại hội Phật giáo lần thứ nhất đã diễn ra tại Sattapanniguhā, bên ngồi Rājagaha, có
năm trăm vị A-la-hán tham dự dưới sự chủ trì của Tơn giả Mahā Kassapa. Kết quả cuộc
kiết tập: Giáo pháp của Phật do Ānanda trùng tuyên thành tạng kinh Nguyên thuỷ, các
điều luật do Upāli tụng lặp đi lặp lại đến 80 lần tạo thành bộ Bát Thập Tụng Luật.
Trong các tài liệu chính sử không đề cập đến thời gian và địa điểm Tôn giả Mahā
Kassapa nhập Niết-bàn. Tuy nhiên theo sử Trung Quốc ghi lại, sau khi Đại hội Phật giáo
lần thứ nhất kết thúc, ngài đi đến Kukkutapāda Giri (núi Kê Túc) ở phía Tây Nam thành
Rājagaha nhập định. Tương truyền, núi Kukkutapāda tự nhiên nứt ra, Tôn giả lấy chiếu
cỏ trải ngồi, dùng y phấn tảo che lên thân, rồi đỉnh núi khép lại, giữ gìn và che giấu thân
thể của Mahā Kassapa. Cho đến 5600 triệu năm sau, khi Bồ Tát Di Lặc hạ sinh, thành
Phật, ngài mới xuất định và sẽ giúp đỡ Phật Di Lặc giáo hoá chúng sinh.21
Qua bài khảo luận, người viết thấy cuộc đời Tôn giả Mahā Kassapa quả thật là tấm
gương sáng về một Thánh Tăng hết sức nghiêm mật tu hành, giữ gìn phạm hạnh và hết
lịng vì chánh pháp. Khơng giống như “Tướng quân chánh pháp – Sāriputta” hay
“Thuyết pháp đệ nhất – Puṇṇa Mantānīputta” thường rộng tuyên giáo pháp của Thế Tôn
ở các nơi hội chúng lớn, Mahā Kassapa dùng cả đời mình để tận tuỵ thân giáo cho hàng
hậu bối.
Theo người viết, trong thời đại mà khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, chủ
nghĩa hưởng thụ vật chất đang trở thành xu hướng như hiện nay, người xuất gia trẻ phải
noi theo tấm gương của Tôn giả Mahā Kassapa thực hành sống thiểu dục tri túc, phải an
bần thủ đạo và hết mình vì Phật pháp, vì lợi ích của chúng sanh. Có như vậy chúng ta
mới có thể góp phần giữ gìn mạng mạch Phật pháp, có sự an lạc – hạnh phúc trong tu

tập tự thân và trở thành ruộng phước cho tha nhân.

Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ, tập I, 16. Kinh Đại Bát Niết Bàn, tr.676-679.
Vu Lăng Ba, Thích Hạnh Bình – Phương Anh (dịch), Đức Phật Thích Ca trong Phật giáo Nguyên Thuỷ, tr 407408.
20
21

8


Tài Liệu Tham Khảo
Tài liệu tiếng Việt:
1. Đại sư Hư Vân, Ban phiên dịch Huệ Quang (dịch), Phật Tổ Đạo Ảnh - Quyển 1,
NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2013.
2. Lệ Như Thích Trung Hậu, Tơn giả Mahā Kassapa (Đại Ca-diếp), NXB Hồng
Đức, TP. Hồ Chí Minh, 2017.
3. Mingun Sayadaw, Tỳ khưu Minh Huệ (dịch), Đại Phật Sử, tập 6.A, NXB Hồng
Đức, 2019.
4. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ, tập I, NXB Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1991.
5. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tăng Chi Bộ, tập I, NXB Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1996.
6. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tiểu Bộ, tập II, NXB Viện Nghiên Cứu Phật Học
Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1999.
7. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tiểu Bộ, tập III, NXB Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 2001.
8. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Tương Ưng Bộ, tập I, NXB Tôn Giáo, Hà Nội,
2013.
9. Thích Phước Sơn, Thanh tịnh đạo luận toản yếu, NXB Phương Đơng, TP. Hồ
Chí Minh, 2010.

10. Thích Trung Hậu – Thích Hải Ấn, Đức Phật Thích Ca Đã Xuất Hiện Như Thế,
NXB Văn Hóa Sài Gịn, TP. Hồ Chí Minh, 2009.
11. Vu Lăng Ba, Thích Hạnh Bình – Phương Anh (dịch), Đức Phật Thích Ca trong
Phật giáo Nguyên Thuỷ, NXB Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh, 2019.
Tài liệu tiếng Anh:
1. G. P. Malalasekera, Dictionary of Pāli Proper Names, vol-2, Motilal
Banarsidass, Delhi, India, 2006.



×