Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Ảnh hưởng của phật giáo lên xã hội việt nam trong giai đoạn lịch sử thế kỷ x – XIV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.35 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Cách đây hàng ngàn năm đạo phật đã hình thành ở Ấn Độ và được truyền bá
khắp cõi Á Đơng trong đó có Việt Nam. Đạo Phật thực chất là một triết học, sau này
được tơn giáo hố, nhưng đạo phật là một tôn giáo phật, một phương pháp giáo hoá
con người, một phương pháp tu dưỡng dạy cho con người một triết lý sống một cuộc
sống có đạo lý, có lý tưởng cao cả và đầy lịng vị tha.
Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ quan niệm cho rằng đời là bể khở, và
ngun nhân của nó là sinh, lão, bệnh, tử, là những ham muốn nhục dục, xuất phát từ
sự che lấp trí tuệ bởi ngũ uẩn(sắc, thụ, tưởng, hành, thức), làm cho ta cố chấp trong
việc phân biệt cái ta và cái khác ta, dẫn đến thái độ “ngã chấp”, trọng cái ta, khiến con
người ta vơ minh. Muốn thốt khỏi bể khở thì phải diệt dục, nhẫn nhục, từ bi, hỉ xả, hy
sinh, đi theo con đường của bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp,
chánh ngữ, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định. Những giáo lý
mang nặng tính triết lý, đạo đức này đã có một ảnh hưởng sâu rộng lên phong tục, tập
quán, văn hóa, văn minh của nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam ta.
Kể từ khi ra đời cho tới nay đạo lý của đạo phật đã có những ảnh hưởng r ất lớn
tới đời sống và số phận của con người Việt Nam. Trải qua gần 20 thế kỷ tồn tại và
phát triển Phật giáo đã trở thành xương máu của văn hoá dân tộc, đến mức khi đề cập
đến cái gọi là tâm thức Việt Nam khơng thể khơng nói đến tâm thức Phật giáo. ở Việt
Nam ảnh hưởng của đạo phật biểu hiện rõ nét nhất ở đời nhà Lý, nhà Trần và cho đến
nay đạo phật cũng là tơn giáo có số lượng đệ tử đông nhất bằng 1/7 dân số cả nước.

1


NỘI DUNG
1. Qúa trình hình thành và phát triển Phật giáo.
1.1.

Quá trình hình thành Phật giáo.


Đạo phật ra đời vào đầu thế kỷ VI trước Công nguyên, người sáng lập là
Siddharta (Tất Đạt Đa) sau này ông được người đời tôn vinh là SaKyamuni (Thích
Ca Mô Ni), là Buddha (phật)
Sau khi Siddharta mất, Phật giáo đã chia thành 2 bộ phận: Thượng toạ và Đại
chúng. Phái Thượng tọa bộ (Theravada) chủ trương duy trì giáo lý cùng cách hành
đạo thời đức phật tại tế, phái Đại chúng bộ (Mahasamghyka) với tư tưởng cải cách
giáo lý và hành đạo cho phù hợp với thực tế.
Khoảng thế kỷ II trước Công nguyên xuất hiện nhiều phái phật giáo khác nhau
về triết học có hai phái đáng chú ý là phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvaxtivadin) và phái
Kinh lượng bộ (Sautranstika)
Vào đầu Công nguyên, Phật giáo Đại thừa xuất hiện và chủ trương “tự giác, tự
tha”, họ gọi những người đối lập là Tiểu thừa.
Ở Ấn Độ, Phật giáo bắt đầu suy tàn dần từ thế kỷ IX và hồn tồn sụp đở trước
sự tấn công của Hồi giáo vào thế kỷ XII.
1.2.

Quá trình Phật giáo xâm nhập vào Việt Nam.

Về mặt địa lý, Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông
Nam Á, được coi là cầu nối giữa các châu lục bằng cả đường biển và đường bộ. Vì
vậy, ngay từ rất sớm, nước ta đã trở thành nơi giao thoa của các nền văn hóa, văn
minh lớn trên thế giới trong đó có Ấn Độ và Trung Hoa, và sự du nhập của đạo Phật
cũng là kết quả của quá trình giao thoa, tiếp biến ấy.

2


Việt Nam những năm đầu công nguyên, vốn là nước có nền kinh tế nơng
nghiệp trồng lúa nước và đang ở thời kỳ Bắc thuộc. Về tôn giáo, tầng lớp trên của xã
hội đã bắt đầu chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, tầng lớp dưới có quan niệm về

ông Trời, đấng gây phúc họa cho con người, tin ở các hiện tượng tự nhiên, có tín
ngưỡng thờ tở tiên,…
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên thật ra
không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền sang trực tiếp từ Ấn Độ.
Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một số nhà nghiên cứu chuyên sâu, có
uy tín về Phật giáo đã khẳng định điều này.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam vẫn chưa thống nhất được với
nhau về thời điểm Phật giáo du nhập vào Việt Nam, nhưng có thể đồng tình với ý kiến
của đa số các nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo được truyền vào nước ta từ những
thế kỷ đầu công nguyên. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ VI đến đầu thế
kỷ X vẫn được xem là giai đoạn truyền giáo bởi giai đoạn này đất nước ta bị xâm lược
và đô hộ. Đến thế kỷ X, Việt Nam giành được quyền tự chủ,trong thế kỷ này, Phật
giáo bắt đầu hưng thịnh và các giai đoạn sau này, trong quá trình phát triển ở Việt
Nam, Phật giáo ln chung sống hài hịa và có nhiều đóng góp cho sự phát triển của
văn hóa dân tộc. Từ ngày hịa bình lập lại trên đất nước ta, Giáo hội Phật giáo trở
thành một thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phật giáo ở Việt Nam hiện
nay nêu phương châm hành động “Đạo – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. Với phương
châm này, Phật giáo ngày càng gắn bó mật thiết hơn với vận mệnh của dân tộc trong
giai đoạn mới.
Về con đường truyền bá Phật giáo vào Việt Nam, phần lớn các ý kiến cho rằng
có hai con đường:
Theo đường biển (con đường hồ tiêu), xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn
qua Srilanca đến Indonesia, Việt Nam,…Vào đầu công nguyên, đã có nhiều thương
gia Ấn Độ có sự giao thương mạnh mẽ với Đông Nam Á, lợi dụng được luồng gió
3


thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông
Nam Á, những thương nhân Ấn Độ đã tới các vùng này để buôn bán bằng những con
thuyền buồm. Chính sự giao thương của các thương gia này đã truyền dần những nét

văn hóa Ấn Độ trong có tư tưởng Phật giáo. Những tăng sĩ mà các thương gia đem
theo để cầu khấn sự phù trợ của Đức Phật cho công việc của mình chính là những
người trực tiếp truyền bá học phật và lập nên trung tâm phật giáo Luy Lâu (nay là
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Theo đường bộ (con đường tơ lụa) có hai nhánh: Vào khoảng thế kỷ thứ IVV,
Phật giáo mang sắc thái Đại Thừa từ vùng Vân Nam theo con đường tơ lụa tràn vào
nước ta, chẳng bao lâu đã lấn át Phật giáo Tiểu thừa trong nước. Nhánh thứ hailà con
đường đồng cỏ xuất phát từ Đông Bắc Ấn Độ qua vùng Tây Tạng dọc theo triền sơng
Mê Kơng vào Việt Nam.
Trong q trình du nhập truyền thừa và phát triển qua những bước thăng trầm
khác nhau, phật giáo Việt Nam tập hợp nhiều chi phái, hệ phái, môn phái. Mặc dù
Phật giáo Việt Nam đa dạng về tơng phái nhưng khơng có tơng phái nào thuần khiết.
Bởi khi truyền vào Việt Nam thì nhân dân ta khơng tách biệt rạch rịi mà tởng hợp các
tông phái cùng với tín ngưỡng bản địa làm nên nét riêng cho Phật giáo Việt Nam.
Bước sang thế kỷ từ thế kỷ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển của Phật
giáo ở Việt Nam. Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những
đồn thuyền giáo của Trung Quốc. Khơng lâu sau đó, Phật giáo Bắc phương (Trung
Quốc) đã chiếm ưu thế và đã thay đổi chỗ đứng của Phật giáo Nam Truyền vốn có từ
trước. Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây dần dần thay thế cho chữ Bụt
và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích mà thôi.
Sau gần 2000 năm du nhập và phát triển, Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành
cùng dân tộc, chia ngọt sẻ bùi, thăng trầm cùng vận mệnh của đất nước. Mặc dù Phật
giáo ở Việt Nam có lúc suy lúc thịnh, lúc thống nhất, lúc phân tán nhưng về cơ bản
các hệ phái phật giáo vẫn được bảo lưu, nét đặc trưng trong pháp môn tu hành vẫn
4


được tôn trọng, hệ thống chùa chiền tăng ni đã được thống kê, quản lý thống nhất. Sự
hòa quyện giữa truyền thống đạo đức của tổ tiên với tinh thần từ bi, trí tuệ, vị tha, vô
ngã của đạo Phật đã tạo nên truyền thống “Hộ quốc an dân” của Phật giáo Việt Nam.

Điều này đã được lịch sử Việt Nam ghi nhận qua nhiều thời đại.
2. Bối cảnh lịch sử xã hội của Việt Nam thời kỳ từ thế kỷ X – XIV.
Từ nửa sau thế kỷ X đến đầu thế kỷ XI, các triều đại Đinh - Lê đã thiết lập
được sự ôn định xã hội, tăng cường quốc phịng, thực hiện sự đồn kết thống nhất dân
tộc trong cả nước. Đó là cơ sở ban đầu cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, nhờ
đó mà các triều đại Lý - Trần có bước tiến dài trong công cuộc xây dựng đất nước
vững mạnh và thịnh vượng.
Nhà nước phong kiến được duy trì và củng cố, quyền lực nhà nước đều dựa vào
tầng lớp nho sĩ được tuyển chọn thông qua giáo dục và thi cử theo nguyên tắc của
Nho giáo. Nhiều chức vụ quan trọng chuyển từ tầng lớp quý tộc sang tầng lớp nho sĩ.
Nhà nước quản lý giáo dục văn hoá, tư tưởng nhằm tạo ra tầng lớp trí thức dân tộc, để
tuyển lựa vào bộ máy quan lại, đồng thời cũng ảnh hưởng đến thế giới quan, quy
phạm chính trị đạo đức của con người, phong cách sáng tác văn học, nghệ thuật, sáng
tạo khoa học. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV không
chỉ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội - chính trị - văn hoá của đất nước, mà còn
phụ thuộc vào di sản của quá khứ về trình độ nhận thức vững chắc về tự nhiên và xã
hội, về cuộc đấu tranh chống thiên tai địch hoạ, về tình đồn kết cộng đồng, tinh thần
quật khởi, bất khuất chống xâm lược giành độc lập cũng bị chi phối bởi ý thức hệ
phong kiến, mà trước hết là của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
3. Những nét chính về tư tưởng.
Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV đều xuất phát
từ tiền đề kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá. Nội dung, xu thế phát triển của tư
tưởng Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử Việt
5


Nam. Trong đó nội dung trọng tẩm quy định những nét cơ bản của tư tưởng Việt Nam
thời kỳ này là vấn đề bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước, vấn
đề dựa vào dân, xây dựng khối đồn kết tồn dân, tở chức nhân dân thành lực lượng
thống nhất chống nguy cơ xâm lược của kẻ thù. Đồng thời phải xây dựng bộ máy nhà

nước phong kiến hùng mạnh để tổ chức và điều khiển công cuộc xây dựng và cai trị
đất nước. Những tư tưởng nổi bật của thời kỳ này:
Một là, tư tưởng về nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đây là tư
tưởng lớn có bước phát triển quan trọng , chứa đựng chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
anh hùng của dân tộc, để tạo ra sức mạnh mới chống nguy cơ xâm lược của nước
ngoài. Tư tưởng đó được thể hiện trong một số bài thơ, bài chiếu của Lý Thái Tổ, Lý
Thường Kiệt, Trần Nhân Tông.
Hai là, nhận thức về dân. Dựa vào dân, lấy dân làm gốc, khoan thư sức dân.
Coi nhân dân là lực lượng quyết định trong sự nghiệp bảo vệ tở quốc, duy trì trật tự xã
hội.
Ba là, đề cao đức trị, đồng thời quan tâm đến luật lệ, luật pháp để cai trị đất
nước. Để củng cố và phát triển đất nước các đại biểu tư tưởng phong kiến quan tâm
tới vấn đề quân quyền, củng cố quyền lực tối cao của nhà vua. Thời Đinh - Lê, quan
niệm về đạo trị nước chịu ảnh hưởng của Phật và Lão - Trang. Nho giáo dần được
phát triển, được các triều đại Lý - Trần sử dụng làm công cụ cai trị đất nước. Các
nguyên tắc của nho giáo được đề cao. Kết cấu xã hội Việt Nam được tổ chức trên 3
trục vững vàng: Nhà - Làng - Nước. Quan niệm Trung Hiếu trở thành nguyên tắc cai
trị, tiêu chuẩn cho hành vi của nhà vua, quần thần, quân sĩ và người dân. Giữa trung
và hiếu có quan hệ chặt chẽ. Hiếu quy định sự phục tùng của con cái với bố mẹ, lòng
trung thành trong phạm vi nhỏ nhằm duy trì trật tự phong kiến trong gia đình, góp
phần củng cố trung với vua của bề tơi, của dân với nước, nước với vua. Sự thịnh hành
của quan niệm đó đáp ứng yêu cầu củng cố quyền lực và đảm bảo sự tồn tại của
vương triều thời đó. Tuy nhiên, quyền lợi của vua quan về cơ bản thống nhất với dân,
6


nên các tướng lĩnh thời Lý - Trần đã tổ chức và điều hành kháng chiến thắng lợi. Khái
niệm đạo đức thời đó thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước.
4. Nhận xét chung.
Bước sang thời độc lập tự chủ, Phật giáo có một vị trí quan trọng trong xã hội

Việt Nam: nơi đào tạo tăng sư - tầng lớp tri thức đầu tiên của dân tộc, các nhà sư được
sử dụng trong bang giao, trong hoạch định đường lối… Nhiều tăng sư xuất thân từ
tầng lớp quý tộc, ngay một số nhà vua thời Lý, Trần cũng đi tu… Vì vậy thời kì này
Phật giáo nói chung rất thịnh, nhưng ngày càng bộc lộ những hạn chế của nó đối với
yêu cầu đất nước. Cho nên nó phải lùi dần khỏi lĩnh vực hoạt động chính trị.
5. Anh hưởng của Phật giáo lên xã hội Việt Nam trong giai đo ạn l ịch s ử
thế kỷ X – XIV.
5.1.

Anh hưởng của Phật giáo dười thời Đinh, Tiền Lê.

Dưới chính sách đô hộ hà khắc của nhà Đường, việc học hành của quần chúng
bị hạn chế, kẻ sĩ ngồi đời thì vốn đã khơng nhiều lại cịn bị dịm ngó, răn đe. Vì thế,
do vốn đã thâm nhập sâu trong đời sống dân gian, một cách tự nhiên, trách nhiệm xã
hội được đặt lên vai giới tăng sĩ Phật giáo. Họ, ngoài việc hướng dẫn tinh thần, đạo
đức, còn trực tiếp lo toan những công việc thuộc nhu cầu thực tế của dân chúng. Họ
mở lớp dạy chữ ở chùa cho mọi con em, như trường hợp của Lý Công Uẩn đã từng
nhận được sự giáo dục nơi cửa chùa. Chính tại đây họ đã ni dưỡng ý thức dân tộc,
lịng u nước cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên, không để nó bị mai một, bị “mất
gốc” sau hàng trăm năm Bắc thuộc. Họ không phải là những thầy lang nhưng lại có
kiến thức y dược, trực tiếp chuẩn trị, hốt thuốc cho mọi người. Họ đứng ra làm các
công việc cầu an, ma chay, chọn đất, chọn ngày cho việc xây cất, khai trương làm
ăn… Giới tăng sĩ vốn là thành phần có học thức, lại khơng thuộc thành phần thống trị,
gần gũi với dân chúng, nên có được sự cảm thông, chia sẻ nỗi khổ của người dân
trong cảnh đơ hộ. Và từ đó nhà chùa đã thực sự trở thành nơi hun đúc lòng yêu nước,
7


một trung tâm của ý thức và niềm tin vào đợc lập dân tợc, có sức ảnh hưởng rộng
khắp trong dân gian. Ngay trong thời kỳ tiền độc lập, Phật giáo đã đóng một vai trị

rất lớn về mặt tinh thần, ý chí trên bước đường đấu tranh của dân tộc.
Sau Ngô Quyền, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý đã nỗ lực xây dựng một quốc
gia độc lập về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, và đóng góp của Phật giáo
trong b̉i đầu này rất quan trọng.
Vào thời Đinh, Lê, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã truyền đến đời thứ 11, 12,
và ảnh hưởng của họ trong dân gian vẫn rất mạnh. Những thiên chức xã hội mà nhà
Phật đã gánh vác trong những thế kỷ vừa qua, nay vẫn tiếp tục. Mặt khác triều đình
cũng biết trọng dụng họ, xem những cao tăng uyên bác như những cố vấn, có thể bàn
luận, giải quyết những vấn đề chính sự.
Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi vốn mang nhiều yếu tố Mật giáo. Mật giáo quan
niệm trong vũ trụ có một lực lượng siêu nhiên mà nếu biết sử dụng, người tu hành sẽ
bước mau trên con đường thành đạo, có thể là tức thời. Mật giáo chú trọng cúng bái,
thần chú, ấn quyết. Thêm vào đó, sấm vĩ, phong thủy cũng là một yếu tố của Phật giáo
Việt Nam trong một thời kỳ dài. Sấm vĩ là sự suy trắc về tương lai trên cơ sở âm
dương, ngũ hành tương khắc. Phong thủy là môn thuật xem xét địa thế trong tương
quan với thành bại, vận mệnh của công việc, con người, quốc gia, trên cơ sở sự sắp
xếp tinh tú trên bầu trời và “long mạch” trên mặt đất. Chính sự kết hợp của Mật giáo,
sấm vĩ, phong thủy đã đẩy mạnh vai trò xã hội của Phật giáo trong những thế kỷ trước
khi giành được độc lập, và ngay cả ở b̉i đầu của kỷ ngun này.
Sự thực hành, trì chú Mật giáo rất phổ biến ở thời Đinh và Tiền Lê. Vào năm
965, tại làng Trường Yên thuộc kinh đơ Hoa Lư cũ, đã tìm thấy một bia đá dựng vào
năm 973, nhà Đinh, khắc những câu kệ và chú Đà La Ni. Cũng đã phát hiện một kinh
tạng dựng năm 995 thời Lê Đại Hành, với một bài kệ có nhắc đến “Phật đỉnh Đà La
Ni”.
8


Sách sử cũng ghi lại rằng thuở đầu lập quốc, các thiền sư đã mở những cuộc
vận động gây ý thức quốc gia. Họ đã sử dụng những môn thuật sấm vĩ và phong thủy
trong các cuộc vận động này, như “tuyên truyền” những sấm vịnh về nền độc lập dân

tộc lâu dài, về vận số của một triều đại, về long mạch quốc gia và sự trù ếm nó của
người Hán tộc phương Bắc nay đã được khai thông…
Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng đã – lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam – phân định giáo tầng cho tăng sĩ, và ban chức Tăng thống cho sư Ngô Chân
Lưu của phái Vô Ngôn Thông. Thiền phái này chủ trương “đốn căn” ở những người
có căn cơ lớn về trí tuệ và hành đạo, có thể đắc đạo nhanh, tức thời. “Tâm địa” là “nền
đất” mà một khi tâm khai thơng được thì trí tuệ giác ngộ tự nhiên xuất hiện. Vô Ngôn
thông cũng chủ trương “vô đắc”, tức không chấp bản thân, mục đích giác ngộ hay là
sự giác ngộ là gì. Ngơ Chân Lưu trở thành Khuông Việt Đại Sư, và vua Đinh cũng đã
chính thức xem Phật giáo như là những nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự.
Cũng trong thế kỷ thứ 10, vua Lê Đại Hành đã mời các sư Pháp Thuận (? – 991), Vạn
Hạnh (? – 1108) làm cố vấn chính sự. Cả Khuông Việt và hai vị sau đều tiếp tục giúp
vua Lý Thái Tổ sau này.
5.2.

Anh hưởng của Phật giáo dươi thời nhà Ly.

Vào thời đại nhà Lý, Phật giáo vẫn tiếp tục giữ một vai trò rất lớn về mặt chính
trị. Ngay điểm khởi đầu, tức là việc lập nên triều đại này, Phật giáo đã đóng vai trị
quyết định.
Tuy đã giúp nhà Tiền Lê, nhưng trước tình trạng tệ lậu của quốc gia dưới sự cai
trị của Lê Long Đĩnh, sư Vạn Hạnh đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên
ngôi, chấm dứt chế độ dã man của Lê Ngọa Triều, bằng một cuộc vận động quần
chúng qua sấm truyền về vận mệnh dân tộc gắn với chữ Lý, vốn đã được nhà sư Định
Khơng (? – 808) nói đến từ hai thế kỷ trước. Với việc Lý Công Uẩn xuất thân là một
mơn sinh của nhà chùa và vai trị của sư Vạn Hạnh, sẽ khơng ngoa khi nói rằngbước
đầu dựng lên nhà Lý công đầu thuộc về Phật giáo. Sư Vạn Hạnh cũng là người được
9



tin rằng đã thuyết phục Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long với ý nguyện
bảo vệ lâu dài nền độc lập dân tộc.
Các tăng sư Phật giáo cũng trực tiếp tham dự chính sự qua việc trực tiếp thiết
lập các kế hoạch, thảo văn thư, tiếp sứ thần, bàn luận cả những vấn đề về quân sự.
Tuy can dự vào chính sự nhưng tăng sư Phật giáo không hề chủ trương tham gia chính
quyền, nên sau đó, khi triều đình đã vững mạnh hơn, có thể tự mình gánh vác tất cả,
thì họ lại tự nhiên lui về với chức năng vốn có của mình, là hướng dẫn tinh thần và
đạo đức, lui về với việc tu đạo của mình khi nhiệm vụ đối với quốc gia, với quảng đại
quần chúng đã hoàn thành.
Phật giáo thời Lý cũng có ảnh hưởng rất lớn lên văn hóa – nghệ thuật.
Về phương diện học thuật, Phật giáo Việt Nam giai đoạn này, mà chủ thể là các
tăng sĩ, thiền sư, đã có cơng đào tạo một lớp trí thức có trình độ un thâm cả Phật,
Nho, Lão, nhưng lại không cố chấp và biết dung hợp những dị biệt giữa ba hệ thức
triết lý này. Nhiều thiền sư am tường cả tam giáo (Khuông Việt, Vạn Hạnh, Đạo
Hạnh, Viên giác, Mẫn Giác…), và sẵn sàng truyền thụ cho các môn đệ những tinh túy
của các quan niệm chính trị – xã hội của Nho giáo. Khi nghị bàn chính sự họ cũng sẵn
sàng sử dụng lý luận Nho học. Kiến thức Nho được sử dụng theo tinh thần Phật
giáo đã đóng góp khá nhiều cho học thuật và chính trị đời Lý.
Dưới sự tác động, hướng dẫn tinh thần của các thiền sư, Phật giáo dưới thời Lý
đã tạo dựng mộtbản sắc văn hóa chính trị đầy tính nhân bản. Nhà Lý đã được xem
như một triều đại thuần từ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các vị vua của
triều đại này có cuộc sống đạo đức và tâm linh. Đã khơng có cảnh tranh đoạt, bạo
loạn, cực hình, mà thay vào đó bằng một đường lối chính trị khoan dung, độ lượng, từ
bi với thần dân và với cả kẻ thù (vua Lý Thái Tông tha tội cho Nùng Trí Cao, vua Lý
Thánh Tông không giết Chế Củ, vua Chiêm Thành). Xã hội vì đó mà bình an, phú
cường, đồn kết, tạo nên những chiến tích trước Chiêm Thành phía Nam và cả Tống
quốc hùng mạnh phương Bắc.
10



Phật giáo giai đoạn này cũng có những đóng góp to lớn đối với sinh hoạt văn
học. Văn học Phật giáo đã trở thành dòng văn học chủ đạo của thời này.
Những cơng trình kiến trúc và điêu khắc Phật giáo cũng đóng góp những giá trị
mỹ thuật cho triều đại nhà Lý. Những cơng trình này giờ đây khơng còn lưu lại bao
nhiêu, nhưng sử sách ghi lại là vào các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Lý
Nhân Tông, Lý Thần Tông đã xây, lập rất nhiều chùa, điện, tháp, tiến hành đúc, vẽ
nhiều tượng, tranh Phật. Những cơng việc này khơng phải chỉ nhằm cho hồng tộc,
mà ở khắp nơi trong dân chúng. Một cơng trình nhà Lý mà nay vẫn là một trong
những biểu tượng của dân tộc Việt, chính là Chùa Một Cột, được xây từ năm 1049,
khi đó gọi là Chùa Diên Hựu.
Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của Phật giáo lên đời sống chính trị, văn hóa, tinh
thần vào thời nhà Lý được cho là có quá nhiều màu sắc mê tín. Có lẽ nhận định như
vậy có phần hơi khắt khe. Cho dù có những yếu tố Mật giáo, sấm vĩ, phong thủy,
nhưng đây lại là những cái đã góp phần khơng nhỏ cho vị trí của dân tộc Việt kể từ
thời nhà Đinh đến lúc đó, và tính mê tín của nó thật ra cũng khơng bằng ở giai đoạn
suy đồi của Phật giáo như vào thời Lê Sơ hay thời Pháp thuộc.
5.3.

Anh hưởng của Phật giáo dươi thời Trân.

Sự ảnh hưởng của Phật giáo dưới đời nhà Lý vẫn được tiếp tục dưới đời Trần.
Vào đầu thế kỷ XIII, đã có sự dần dần sáp nhập vào với nhau của ba thiền phái
Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Thiền phái Yên Tử từ đây mà
hình thành. Thiền phái này sau đó, dưới sức ảnh hưởng rất lớn của vua Trần Thái
Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, đã có một bước phát triển lớn, trở thành thiền phái
Trúc Lâm – thiền phái duy nhất dưới đời nhà Trần. Có thể nói, thời đại nhà Trần
là thời đại Phật giáo nhất tông, mà thiền sư Hiện Quang (? – 1221), tu đạo tại núi Yên
Tử, là vị khai tổ của sự nhất tông này.

11



Vua Trần Thái Tông (1218-1277) không nằm chính thức trong tơng phả của
Trúc Lâm, nhưng có nhiều cơ dun với Phật giáo, với thiền phái này. Ông đã tự tu
học Phật đạo và để lại nhiều tác phẩm Phật học có giá trị.
Vua Trần Nhân Tơng (1258-1308) lại là một chân truyền chính thức đời thứ sáu
của Yên Tử, ông xuất gia năm 1299, sau 21 năm làm vua, lấy hiệu là Trúc Lâm Đầu
Đà. Ơng là người có cơng đầu trong việc xây dựng một giáo hội hoàn toàn thống nhất,
chính thức dựng nên thiền phái Trúc Lâm chủ trương nhập thế.
Tư tưởng Phật học của thiền phái Trúc Lâm có thể có những biến thể ít nhiều
khác nhau, trình bày khác nhau, nhưng tựu trung có thể xem tư tưởng của Tuệ Trung
Thượng Si, là điển hình nhất, độc đáo nhất. Người này đã phát triển học thuật của Yên
Tử theo khuynh hướng thực chứng, không cố chấp vào kinh kệ, điển tự. Ông quan
niệm giáo lý, việc học đạo không phải ở lý thuyết, mà là ở tồn tại của chính mình, hãy
quay về chính bản thân mình, khơng phải đi tìm kiếm ở Phật tở. Ơng nổi tiếng ở
những quan niệm trái ngược với thái độ cả chấp, như từng giảng rằng “sắc chẳng phải
không, không chẳng phải sắc”. Ông cũng phê phán rằng khi đặt ra vấn đề giải thoát
chính là đã dựng lên ranh giới giữa phiền trượt và giải thoát, giữa mê và ngộ, giữa
phàm và thánh, giữa sinh tử và niết bàn. Chính sự “nhị kiến”này làm ta bị bó buộc
vào vịng sinh tử, khiến người ta mãi mãi là kẻ phàm nhân. Ông cũng đả kích sự cả
chấp trong việc thực hành trì giới. Theo ơng, sự siêu việt vượt lên trên tội – phúc khi
trì giới là ở chỗ khơng có sự ràng buộc vơ ích vào nó. Với những quan niệm như vậy,
quả thật vị thiền sư này đã khai mở một đường hướng mới sâu sắc, uyên thâm đích
thực trong Phật học Việt Nam.
Trong buổi đầu nhà Lý, các thiền sư cịn can dự trực tiếp vào cơng việc chính
sự. Triều đình cần đến sức học, tài ngoại giao, khả năng giáo dục, sự liên kết nhân tâm
của họ. Nhưng đến đời Trần, tình hình đã khác đi. Các vua Trần là những người có tri
thức, lại uyên bác Phật học. Nhưng dù vị trí trực tiếp trong cơng việc chính sự của các
tăng sĩ khơng cịn nữa, Phật giáo lại vẫn phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, ảnh hưởng
12



trực tiếp lên chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội đời Trần, trở thành một tinh thần dân tộc
thời bấy giờ.
Với sự việc vua Trần Thái Tông chuyên tâm học Phật, vua Trần Nhân Tông
xuất gia, xây dựng thiền phái Trúc Lâm, anh vợ của vua Trần Thánh Tông thì trở
thành Tuệ Trung Thượng Sĩ, vua Trần Anh Tơng cũng có chủ đích tu đạo sau khi
nhường ngơi (nhưng chưa kịp thì băng hà), Phật giáo thật sự trở thành một thế lực
tinh thần ủng hộ cho chính trị, và ngược lại, triều đình là một quyền lực củng cớ cho
Phật giáo. Có thể giai đoạn Nhân Tơng là giai đoạn Phật giáo hưng thịnh cực độ ở
nước ta.
Phật giáo Trúc Lâm chủ trương nhập thế, đạo Phật phụng sự đời sống, đời sống
tâm linh giải thoát đời sống xã hội, Phật giáo đời Trần thật sự tạo nên một sự thống
nhất chính trị, thống nhất tinh thần dân tộc trên phương diện quốc gia một cách rộng
khắp. Yếu tố liên kết nhân tâm của Phật giáo Trúc Lâm đã khiến thời kỳ này có một
nền tảng chính trị bình dị, dân chủ, thân dân. Một tiếng “đánh” đồng lòng của Hội
nghị Diên Hồng và ba lần liên tục đánh bại quân xâm lược nhà Nguyên, chính là thể
hiện sự thống nhất dân tộc trên tinh thần Phật giáo.
Về phương diện văn hóa, Phật giáo giai đoạn này cũng là yếu tố chủ lực, quyết
định. Cuộc đời tu học của Trần Thái Tông đã tạo ra một không khí học Phật thật sự
trong giới trẻ, trí thức ở Thăng Long và trong cả nước. Tấm gương thành đạt trong
Phật học của Thánh Tơng và Tuệ Trung khi cịn trẻ cũng là một động lực cho việc này.
Phật giáo đời Trần mang một tinh thần khoan dung và tự do. Chính đều này
gây dựng nên những nét văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc vào thời kỳ này. Phật giáo
không chỉ trích Nho, Lão, mà để cho các giáo lý này tự do phát triển. Trong không khí
học tập tự do và cởi mở, triều đình đãi ngộ hiền sĩ một cách kính cẩn, đã phát triển sự
học lên rất nhiều, và cũng nhiều người tài giỏi xuất hiện. Chính từ tinh thần dung hợp
và khai phóng này của Phật giáo mà nền học vấn thời Trần không bị ràng buộc bởi
khoa cử, thực hiện chính sách tự do tôn giáo, không phân biệt sĩ phu được đào tạo từ
13



truyền thống giáo lý nào. Điều đó đã xây dựng nên một nền văn học rạng rỡ và đầy ý
thức tự tin. Thi ca thời Trần vì thế mà mang ảnh hưởng sâu đậm của thiền học, thi sĩ
nhìn sự việc bằng con mắt của người biết tĩnh tâm thiền quán.
Sinh hoạt Phật giáo cũng là một nét đáng kể trong đặc điểm văn hóa thời kỳ
này. Việc vua Nhân Tông – người đã đánh bại quân Nguyên, đem thịnh trị, an bình về
cho xã tắc – xuất gia, khiến cả nước hướng về ngọn núi Yên Tử, việc tu luyện Phật
pháp thật sự sôi nổi trong nước. Chùa, tháp mọc lên khắp nơi, khiến Nho gia Lê Bá
Quát đã than rằng dân chúng chỉ lo lập chùa mà không lo lập trường học, văn miếu.
Sách Truyền kỳ mạn lục của Ngũn Dữ thì nói “số người cắt tóc làm tăng ni cũng
bằng nửa số dân thường”. Tất nhiên thực tế khó mà đến mức như vậy, nhưng điều đó
cho thấy tầm mức quá sức rộng lớn của sinh hoạt Phật giáo lúc đó, đến nỗi, ý thức
được nguy cơ tăng sĩ q đơng mà khơng thủ trì nghiêm túc giới luật sẽ dẫn đến suy
vong của chính giáo hội, phái Trúc Lâm đã in Tứ thần luật và tổ chức học tập cho giới
tăng sĩ về giới luật, định ra những quy chế rõ ràng trong việc tổ chức, sinh hoạt, quản
lý giáo hội.
Vào thời này nhà chùa cũng đã thực sự trở thành một lực lượng kinh tế. Điều
này cũng dễ hiểu trước sự ủng hộ của triều đình và thế lực chính trị, xã hội, tinh thần
của Phật giáo. Chùa chiền khắp nơi đã chiếm hữu nhiều ruộng đất. Sử sách còn ghi lại
là ruộng đất được dâng tặng rất nhiều cho các chùa Báo Ân, Quỳnh Lâm, Sùng
Nghiêm, Vĩnh Nghiêm, Thanh Mai, Côn Sơn, là những chùa lớn thời đó. Riêng chùa
Quỳnh Lâm đã có hơn 1.000 mẫu đất và có tới 1.000 người làm ruộng. Lợi tức thu
được từ đây có lẽ đã được sử dụng vào Phật sự và tăng sự của toàn giáo hội.
Phật giáo Trúc Lâm đạt đến đỉnh điểm là vậy, nhưng đến sau đời sư Huyền
Quang (1254-1334), nó khơng cịn hưng thịnh nữa. Điều này không thể giải thích chỉ
bằng sự ra đi quá sớm của vua Anh Tông trước khi thực hiện ý định xuất gia. Cũng
không thể cho là do sự yếu kém của Huyền Quang, người nhận nhiệm vụ lãnh đạo
giáo hội khi ở vào tuổi 77, cũng không phải là sự bất lực của An Tâm, người kế vị
14



Huyền Quang. Có lẽ sự đi xuống này cần được giải thích từ nguồn gốc sâu xa trong
những vấn đề xã hội của Phật giáo. Có thể thấy là khi nền độc lập quốc gia đã trở nên
vững vàng, việc củng cố quyền lực thống trị của mọi triều đại là khơng thể tránh khỏi.
Từ đây nảy sinh việc tìm kiếm, xây dựng một ý thức hệ làm nền tảng. Nhà Trần cũng
không tránh khỏi điều này, và ý thức hệ này vốn đã có sẵn, đó chính là Nho học. Nho
giáo đã dần hưng thịnh lên, việc học Nho và các quan Nho ngày một nhiều, và xã hội
đã bắt đầu phân hóa do vấn đề ý thức hệ. Các Nho thần quan niệm chỉ có Nho giáo
mới là đạo thánh nhân, cịn Phật giáo thì chỉ có hại cho quốc gia. Hơn nữa, đối với
bản thân Phật giáo thời này, khi mà một giáo hội dựa quá nhiều vào sự ủng hộ của
triều đình mà quên đi thế đứng thật sự cần được cắm sâu trong dân gian, sự suy giảm
của nó là sẽ đến lúc khơng thể tránh khỏi.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối vơi việc vận dụng tôn
giáo trong dựng nươc và giữ nươc
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Đồng bào theo tôn giáo ở
Việt Nam luôn được nuôi dưỡng bởi truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc. Bởi
vậy, họ khơng chỉ có đức tin và sự cố kết với tôn giáo của mình, mà ln đồn kết,
gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Hiện nay,
nước ta có 12 tơn giáo với 32 tở chức đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp
nhân; hoạt động hợp pháp dưới sự bảo hộ của pháp luật (có 6 tơn giáo ngoại nhập và 6
tơn giáo nội sinh). Thực hiện tốt đại đoàn kết toàn dân tộc (trong đó có đồn kết tơn
giáo) là việc làm có ý nghĩa quyết định để xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây cũng là bài học quý báu mà ông cha ta đã tổng kết
được trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rõ, thời nào các bậc minh quân khéo biết
dùng chính sách đồn kết tơn giáo, đồn kết dân tộc thì đất nước thái bình, thế nước
vững như “Âu vàng”. Ngay khi bắt tay vào xây dựng nền độc lập cho quốc gia Đại
Việt, vua Đinh Tiên Hoàng đã biết phát huy Phật giáo ở cả khía cạnh trí tuệ và cố kết
15



nhân tâm, để đồn kết, phị Vua, chống giặc, giúp nước. Vua đã phong cho Thiền sư
Ngô Chân Lưu làm Tăng thống, chức đứng đầu các sư cả nước; sau lại phong là
Khuông Việt Đại sư, nghĩa là bậc Đại sư khng phị nước Việt nhằm tơn vinh, khích
lệ sự cống hiến của ông đối với đất nước. Thời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo trở thành
Quốc đạo và đã có cơng lớn trong việc cố kết nhân tâm và vun bồi trí đức; nhờ đó mà
dân tộc ta đã đồn kết một lịng, đánh tan những đội qn xâm lược mạnh nhất đương
thời. Đặc biệt, trong công cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, đồn kết tơn giáo, đại đoàn kết dân tộc đã trở thành tư tưởng xuyên suốt, một
chiến lược cách mạng quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn
tôn trọng và bảo đảm trên thực tế quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; đồn kết tơn giáo;
hồ hợp dân tộc.
Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln có quan điểm đúng đắn về tín
ngưỡng, tôn giáo. Điều này được thể hiện rõ trong nhiều chủ trương, nghị quyết của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tại Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định:
“Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà
nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực
hiện bình đẳng, đồn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp
hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng
tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm
nghĩa vụ công dân”. Nghị quyết 25-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 (khố IX),
xác định: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Hiến
pháp nước ta qua các thời kì đã ghi rõ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Điều 70, Hiến pháp 1992 đã ghi: “Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, những
16



nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo đều được pháp luật bảo hộ”. Đặc biệt, Pháp
lệnh về Tín ngưỡng, tôn giáo được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (khố IX) thơng qua
ngày 18-6-2004 và được Chủ tịch Nước ký lệnh công bố ngày 29-6-2004 tiếp tục
khẳng định: tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc nhất quán trong chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta. Sự ra đời của
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng cơ bản nguyện vọng chính đáng của các
tôn giáo; tạo sự phấn khởi trong đại đa số đồng bào tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu
hành tôn giáo ở nước ta. Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta đã làm cho “lòng dân, ý Đảng” hồ quyện, tạo nên sức mạnh vơ địch trong
cơng cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Những năm qua, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của
Đảng, xu hướng chủ đạo trong đời sống hoạt động của các tôn giáo là gắn bó, đồng
hành cùng dân tộc. Với phương châm “Tốt đời, đẹp đạo” các tôn giáo ở Việt Nam đã
xây dựng nên đường hướng hành đạo tiến bộ, như: “Đạo pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã
hội” của Phật giáo; “Sống phúc âm giữa lịng dân tộc” của Cơng giáo; “Sống phúc âm
phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc” của Hội thánh Tin lành Việt Nam;
“Nước vinh, đạo sáng” của Cao Đài… vừa phù hợp với đạo lý, truyền thống của dân
tộc, vừa phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và xu hướng phát triển của thời đại. Trên
thực tế, hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng phát triển; các cơ sở thờ tự
tôn giáo không ngừng được sửa chữa khang trang; các chức sắc, chức việc, nhà tu
hành tôn giáo được tạo mọi điều kiện sinh hoạt, học tập, hoạt động tôn giáo theo tôn
chỉ, mục đích của tôn giáo và quy định của pháp luật; đồng bào là tín đồ các tôn giáo
ngày càng yên tâm, tin tưởng, hăng hái thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu
nước của Mặt trận Tổ quốc, nhất là các hoạt động xã hội, từ thiện. Qua đó, các tơn
giáo đã góp phần cùng chính quyền và Mặt trận Tở quốc các cấp xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở, phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh; nhất là, chăm
17



lo cho người nghèo, những người có cơng với nước, người già cô đơn, trẻ mồ côi,
khuyết tật, xây dựng Nhà Tình thương, Nhà Đại đồn kết; chăm lo giúp đỡ người bị
bệnh phong, nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, cứu trợ thiên tai, tai nạn… Các hoạt
động bình thường vừa “tốt đời”, vừa “đẹp đạo” của các tôn giáo thời gian qua đã minh
chứng cho quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam và sự gắn bó, đồng hành
cùng dân tộc của các tôn giáo trong công cuộc xây dựng nước Việt Nam theo mục
tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Đó cũng là lời phản bác
mạnh mẽ đối với những luận điệu cho rằng: “ở Việt Nam khơng có tự do tơn giáo”,
“Việt Nam vi phạm quyền tự do, tôn giáo”…
Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế với những thời cơ, thách thức đan xen. Các thế lực thù địch tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình” hịng phá hoại độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Chúng ra sức sử dụng chiêu bài “tự do tôn giáo” để kích động mâu
thuẫn tôn giáo; lợi dụng một số thiếu sót của đội ngũ cán bộ các cấp trong ứng xử với
tín đồ tôn giáo… để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tơn giáo của
nhân dân ta. Đồn kết tơn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến lược cách
mạng của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Để
thực hiện tốt chính sách đồn kết tơn giáo, tạo điều kiện để mọi chức sắc, tín đồ các
tơn giáo một lịng cùng toàn dân xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, trước hết,
cấp uỷ, chính quyền các cấp phải quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng, phương châm,
phương pháp về xây dựng đồn kết tơn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh; phải luôn coi
các tín đồ tôn giáo đều là đồng bào, là công dân của nước Việt Nam XHCN. Trong
ứng xử và giải quyết các vấn đề về tơn giáo, các cấp phải coi trọng việc lấy tình đồng
bào, anh em, bạn bè để làm cơ sở; phải tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội,
củng cố quốc phòng-an ninh trên các địa bàn; thực hiện tốt các phương hướng,
nguyên tắc, phương châm, phương pháp, hình thức cơng tác tơn giáo của Đảng, trong
đó cốt lõi là công tác vận động quần chúng; thường xuyên quan tâm giúp đỡ, động
18



viên, khuyến khích các chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo “sống tốt đời, đẹp đạo”,
cống hiến tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, các cấp, các ngành cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm
cho đồng bào các tôn giáo thấy rõ sự ưu việt của chế độ XHCN, sự đúng đắn của các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nói chung, về
tơn giáo, cơng tác tơn giáo nói riêng; từ đó, nâng cao nhận thức của các chức sắc,
chức việc, tín đồ tôn giáo về những vấn đề xã hội, về âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch lợi dụng tơn giáo để hịng gây mất đồn kết nội bộ, làm suy yếu thế và
lực của đất nước...
Ba là, các cấp, các ngành cần chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán
bộ làm cơng tác tơn giáo nói riêng “vừa hồng, vừa chun”. Đạo đức cách mạng trong
sáng, sự gương mẫu, tận tuỵ của người cán bộ sẽ làm cho chức sắc, chức việc, tín đồ
các tôn giáo thêm tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước và sự thắng lợi của công cuộc đổi mới. Cùng với đó, cần hết sức
tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật; luôn tơn trọng,
đồn kết các tơn giáo, khơng có sự phân biệt đối xử.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân, còn tồn
tại lâu dài cùng với tiến trình xây dựng và bảo vệ Tở quốc Việt Nam XHCN. Đồn kết
tơn giáo là quan điểm, chủ trương xuyên suốt, là một chiến lược cách mạng của Đảng
nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy và phát huy những giá trị tích
cực của mỗi tơn giáo để đóng góp vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"

19


KẾT LUẬN
Tóm lại, sau thời kỳ đầu du nhập ở thế kỷ thứ nhất và thứ hai, trực tiếp từ

nguồn gốc Ấn Độ, điều đã cho phép sự phát triển Phật giáo rất sớm ở Việt Nam, vào
những thế kỷ sau, Phật giáo Việt Nam đã có sự giao tiếp với Phật giáo Trung Hoa, tiếp
nhận những thâm nhập mới. Trong giai đoạn du nhập, Phật giáo Việt Nam đã bước
đầu tự hình thành nên tư tưởng thiền định đầu tiên. Cùng với sự thâm nhập của Phật
giáo phương Bắc sau đó, các thiền phái như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông,
Thảo Đường đã phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh của một dân tộc bị đô hộ, nhà
chùa Phật giáo đã tự nhận lấy cho mình trách nhiệm chăm lo đối với dân chúng. Họ,
những sư sãi Phật giáo, đã nhận phần công việc dạy học, hốt thuốc, trị bệnh, ma chay,
tế lễ, định việc xây cất, làm ăn… cho mọi người, và bao trùm lên tất cả, là sự hun đúc
một tinh thần độc lập dân tộc. Chính là từ chỗ tinh thần về một nền độc lập đó vẫn tồn
tại, nên cho dù đã 1.000 năm bị đơ hộ mà Đinh Bộ Lĩnh đã có thể hoàn tất việc xây
dựng một triều đại độc lập đầu tiên sau ách thống trị phương Bắc. Trải qua Đinh, Lê,
Lý, Trần, dù các tăng sĩ chỉ can dự trực tiếp vào chính sự ở giai đoạn đầu, nhưng vị
trí, vai trò của Phật giáo đã ngày càng phát triển, đạt đến độ cực thịnh vào thời Trần,
và chỉ suy thoái từ nửa sau thế kỷ XIV.
Sự phát triển của Phật giáo trong những thời kỳ lịch sử này, với tinh thần nhập
thế thể hiện ở những mức độ khác nhau, không hề đứng trên tư tưởng thống trị, quyền
lực và quyền lợi, Phật giáo đã thực thi một tinh thần khoan dung, độ lượng, hòa hợp
đối với dân chúng, đối với kẻ địch, và cả đối với những tư tưởng-giáo lý khác. Những
điều này không những làm cho Phật giáo đứng ở trung tâm của hoạt động chính trị,
văn hóa, xã hội giai đoạn thế kỷ X – XIV, thậm chí có những lúc là quyết định vận
mệnh quốc gia (trường hợp Lý Công Uẩn lên ngôi), mà đối với bản thân, nó đã xây
dựng cho mình một tư tưởng Phật giáo, một giáo hội Phật giáo Việt Nam độc lập,

20


mang bản sắc riêng, và lớn hơn thế nữa, nó cịn tạo nên bản sắc văn hóa, bản sắc
chính trị trong giai đoạn lịch sử này, tạo nên bản sắc của dân tộc ta khi đó.


21



×