Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng chính trị xã hội của nguyễn bỉnh kiêm và lê quý đôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.12 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Khẳng định tư tưởng chính trị nhị nguyên của Lê Quý Đôn là kết quả
tương tác của ba yếu tố: Sự suy ngẫm kinh nghiệm chính trị của tiền nhân, sự
đúc rút kinh nghiệm chính trị của bản thân và tính quy định của nền chính trị xã
hội đương thời, trong bài viết này, tác giả tập trung làm rõ những nội dung
chính trong tư tưởng chính trị đó của ơng trên hai phương diện: Lý luận chính
trị nhị nguyên và tư tưởng chính trị thực hành.
Vào thế kỷ VI, Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi lên là một nhà tư tưởng tiêu biểu
có nhiều đóng góp giá trị mang tính triết lý, phản ánh tư tưởng đạo đức của
ông. Sự gần gũi về triết lý đạo đức của ông nhất quán với những quan niệm về
con người và sự gần gũi về con người với thiên nhiên, theo đó, mỗi con người
được sinh ra một cách tự nhiên, chứ không phải là một thực thể siêu tự nhiên có
nhân cách. Ơng thả hồn vào thiên nhiên một cách phóng khống, khơng bị gị
bó, trói buộc mà rất chan hịa với thiên nhiên, một nề nếp sinh hoạt hịa hợp với
mơi trường sống, điều kiện tự nhiên và cảnh quan thiên nhiên.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua những chặng đường đầy gian nan thử thách
để phát triển và tồn tại lâu bền, bởi đã rèn đúc nên bản lĩnh vững vàng, mang
đậm tính cách và khí phách của truyền thống văn hóa dân tộc, gắn liền với một
giá trị tinh thần mang tính nhân văn sâu sắc. Tư tưởng chính trị xã hội của
Nguyễn Bỉnh Kiêm và Lê Quý Đôn ngoài ý nghĩa về nguồn cội tâm thế, sức
mạnh ứng xử, nó cịn như một “kim chỉ nam” cho cách xử thế, hành động hay
lối sống của một cá nhân hay một cộng đồng người hiện nay.


NỘI DUNG
1. Tư tưởng chính trị xã hội của Lê Quý Đôn.
Cuộc đời của Lê Quý Đôn (1726-1783) nằm trọn trong giai đoạn ổn định
nhất của thế kỷ XVIII. Là một học giả có trước tác phong phú về số lượng và
thể loại vào bậc nhất Việt Nam thời phong kiến, Lê Quý Đôn nổi tiếng uyên bác
về học vấn và tư tưởng. Trong đó, sự thơng kim bác cổ cùng với tinh thần biến
dịch, tuỳ thời đã khiến tư tưởng chính trị của ơng chứa đựng nhiều nội dung


mới, có giá trị đối với đương thời và hậu thế. Tư tưởng chính trị của Lê Q
Đơn là kết quả tương tác của ba yếu tố: Sự suy ngẫm kinh nghiệm chính trị của
tiền nhân, sự đúc rút kinh nghiệm chính trị của bản thân và tính quy định của
nền chính trị xã hội đương thời. Nói cách khác, bên cạnh nhân tố tư chất cá
nhân thì nền học vấn chính trị Nho học và những thể chế chính trị, kinh tế, xã
hội đầu thế kỷ XVIII đã đóng một vai trị hết sức quan trọng cho sự hình thành
xu hướng tư tưởng chính trị - xã hội của ơng. Bài viết này tập trung giới thiệu
những nội dung chính trong tư tưởng chính trị của Lê Q Đơn.
1.1.

Lý luận chính trị nhị nguyên.

Chịu ảnh hưởng trực tiếp của thể chế chính trị lưỡng đầu, Lê Q Đơn
hình thành một hệ thống tư tưởng chính trị mang tính nhị nguyên điển hình.
Xuất thân khoa bảng và nền học vấn Nho giáo đã khiến ơng tiếp tục ca ngợi
đường lối chính trị vương đạo. Tuy nhiên, hiện thực chính trị đất nước lại khiến
Lê Quý Đôn không thể khăng khăng chỉ đề cao vương đạo. Thêm nữa, là người
quán xuyến tri thức cổ học, có lối tư duy phê phán khoa học, ông đã nhận thấy
những mặt mạnh và mặt hạn chế trong vương đạo và bá đạo, cũng như trong
chủ trương thực hiện đường lối chính trị dung hồ hai xu hướng này.
Với tư duy phân tích sắc sảo, Lê Quý Đôn đã so sánh đường lối nhân
nghĩa, vương đạo với đường lối pháp trị, bá đạo về mặt thời gian và thành tựu


để khẳng định tính ưu việt hơn của đường lối vương đạo: “Đức hoá của Văn
Vương mãi trăm năm sau mới lưu hành rộng rãi, người ta ai không cho rằng
thành công của đường lối nhân nghĩa là chậm và tất phải dùng sức trí trá để có
hiệu quả nhanh. Nhưng nhà Tần chuộng sức trí trá, trải sáu đời vua, có hơn
trăm năm mới nhất thống được thiên hạ, rồi chỉ mười lăm năm sau đã mất. Sự
nhanh chậm của đức (đức hố) và sức (sức trí trá) kết quả thế nào đời sau tất sẽ

phân biệt được”. Song, Lê Quý Đôn cũng coi trọng thành quả thực tiễn của bá
đạo và chủ trương kết hợp cả vương đạo với bá đạo trong thuật trị nước: “Trị
nước theo vương đạo là tốt đẹp nhất nhưng thực hiện chính sách bá thuật để
cho nước được giàu mạnh cũng không phải là chuyện dễ”.
Chủ trương chính trị nhị nguyên này của ông dựa trên một quan niệm cởi
mở về phương pháp chính trị của vương đạo và bá đạo. Ơng ủng hộ quan điểm
của Ơn Cơng cho rằng: “Đạo làm vương và đạo làm bá không khác nhau, đều
gốc ở “nhân”, sinh ra ở “nghĩa” và là những việc như dùng người hiền, cất nhắc
người tài, khen người lành, trị tội kẻ ác, ngăn cấm kẻ hung bạo, trừ giết kẻ làm
loạn, xét danh vị có cao thấp, đức trạch có sâu có nơng, cơng nghiệp có lớn có
nhỏ mà thơi”. Lời bàn ấy của Ơn Cơng rất phải...”. Cách lý giải theo hướng
đồng nhất vương đạo với bá đạo, dựa vào sự tương đồng về hình thức trong
phương pháp thực hiện đạo vương và đạo bá như trên, thật ra là một trị chơi
ngơn ngữ tinh xảo của Lê Q Đôn, khi ông đánh tráo khái niệm đường lối đức
trị bằng những phương pháp chính trị cụ thể. Rõ ràng, việc dùng người hiền, trị
tội kẻ ác... là những phương pháp chính trị khơng chỉ riêng có của đường lối
đức trị, nhưng khơng thể lấy đó làm tiêu chuẩn để đồng nhất vương đạo với bá
đạo. Tuy nhiên, với quan niệm mềm dẻo về vương đạo và bá đạo theo cách đó,
ơng đã đưa ra cách hiểu về vương đạo và bá đạo theo hướng phù hợp với thực
trạng chính trị của thời đại ơng. Tính nhị ngun đề cao cả hai đường lối trong
đạo trị nước của ông là dựa trên cách hiểu này. Trên cơ sở đó, ơng ra sức ca
ngợi và đánh giá cao học thuyết chính trị của Quản Trọng: “Quản Tử, trên bàn


kỷ cương trời đất; dưới nói tình hình nhân vật; sáng đạo đức, chuộng nhân
nghĩa. Đủ cả danh lẫn thực mà khơng phiền tối. Hình pháp tuy nghiêm mà
trung hậu. Xét rõ: ý nghĩa khơng khác gì ý nghĩa của đạo tam vương. Còn như
học thuyết Hàn, Thương, thiên trọng về hình danh, khơng được đầy đủ; kém
Quản Tử xa lắm”.
Từ sự đồng nhất vương đạo và bá đạo về mặt phương tiện, từ sự đánh giá

ưu thế của hai đường lối, Lê Q Đơn chủ trương đường lối chính trị kết hợp cả
vương đạo và bá đạo. Với ông, thực hiện đường lối nhân nghĩa là lý tưởng tốt
đẹp trong việc trị nước an dân, nhưng việc xây dựng thế nước cho mạnh, giàu
theo tư tưởng bá đạo cũng là việc phải làm để thực hiện sự nghiệp chính trị:
“Từ xưa các bậc đế vương đều coi trọng việc võ bị. Muốn cho nước trị, ngồi
giáo hố, lễ nhạc, phải thường xuyên chăm lo việc quân cơ, binh phục”.
Xuất phát từ nguyên tắc kết hợp vương đạo với bá đạo, Lê Quý Đôn đã
triển khai một số nội dung cụ thể cần tuân thủ trong cả hai đường lối, như kết
hợp giáo hoá với củng cố sức mạnh quân sự, kết hợp đức trị với pháp trị,...
Trong đường lối vương đạo, Lê Quý Đôn đề cao tư tưởng “dân vi bang
bản” của Mạnh Tử, coi việc được lòng dân là yếu tố quyết định sự tồn vong của
vương triều. Từ đó, ơng coi trọng việc giáo hố dân chúng, tin tưởng vào khả
năng giáo hoá được người dân. Bởi theo ơng, đường lối nhân nghĩa chính là
thuận theo chính lý của thiên hạ. Triều đình mà theo chính lý thì dân sẽ theo:
“Đạo của đế, của vương đều muốn thuận theo cái lý của thiên hạ mà cai trị.
Nhân nghĩa là chính lý của thiên hạ, người ta ai cũng thích”. Đồng nhất lẽ trời
và lịng người, ơng cho rằng, trị dân là phải theo lẽ trời và lòng dân. Người làm
vua phải biết sợ dân, kính thân, tu thân, làm điều nhân với dân: “Vua Thuấn
nói: “Người đáng sợ, không phải là dân ư?”. Mối liên hệ hữu cơ giữa ngơi vua
và lịng dân được ơng tiếp tục khẳng định trong sự triển khai tư tưởng chính trị
vương đạo của mình: “Dân là căn bản của nước, căn bản vững chắc thì nước
mới yên”.


Lê Quý Đôn khẳng định sự an nguy của vương triều là ở lòng dân. Lòng
dân một khi lung lay, tức là đã có mối lo lớn ở đó”. Từ quan điểm này, ông
cảnh báo nguyên nhân suy vong của vương triều là vì chính sự hà khắc, mất
lịng dân, khơng an dân: “Lúc đầu do chính sự khắc nghiệt, thuế khố nặng nề,
binh cách q nhiều, hình phạt phiền phức, quan lại tham nhũng, trăm họ phiêu
bạt; thêm vào đó là lụt lội, hạn hán; cộng vào đó nữa là đói khát, làm cho dân

khơng thể nào sống được, phải đi làm giặc. Một người dấy lên, trăm nghìn
người hùa theo, cùng nhau vùng dậy, khơng sức gì cản được. Tức thì cái thế đất
lở dần xuất hiện... Nếu khơng để xảy ra cái thế đất lở thì ngay dẫu có nước
mạnh binh hùng xâm phạm, cũng chỉ trong chốc lát đã diệt được...”. Chính sách
khơng thuận lịng dân sẽ khiến dân bất an và dẫn tới thế đất lở, là cái thế nguy
hiểm nhất cho vương triều, nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm hay nội loạn cung
đình.
Như vậy, có thể nói, quan điểm chính trị vương đạo của Lê Quý Đôn tập
trung vào vấn đề mấu chốt nhất là chính sự phải hợp lịng dân, lấy sự yên ổn
của dân để đo sự thuận ý trời, để bảo vệ ngôi vua được bên vững, dài lâu.
Song song với đường lối vương đạo, Lê Quý Đôn cũng đề cao việc sử
dụng bá đạo trong trị nước. Trong những nội dung của bá đạo, ông nhấn mạnh
tới hai phương diện chủ yếu là chăm lo võ bị, nâng cao sức mạnh quân sự của
đất nước và chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân. Với
ông, hai phương diện sức mạnh quân sự và sức mạnh kinh tế liên quan chặt chẽ
với nhau và là hai nhân tố chính đảm bảo cho sự yên ổn trong dân chúng. Củng
cố quân sự, võ bị là một đường lối làm cho nước chiếm được thế mạnh buộc kẻ
địch phải phụ thuộc vào mình: “Muốn cho nước mạnh tất phải độc chiếm lấy
cái quyền điều khiển thiên hạ, khiến cho ta có cái thế sai khiến người, làm cho
kẻ địch cử động phải phụ thuộc vào ta, rồi sau đó cái uy của nước mới có... ”.
Làm cho dân giàu có, n ổn làm ăn thì tránh được cái thế đất lở, củng cố sự
vững bền của ngôi báu. Như vậy, hai mũi nhọn kinh tế và quân sự sẽ tạo ra
được sự giàu mạnh thực sự của dân, của nước, nhờ đó khơng cịn e ngại gì giặc


ngoài, thù trong. Sức mạnh kinh tế là để dân yên ổn, còn sức mạnh quân sự là
để tạo thế trấn áp, sai khiến thiên hạ. Đó chính là căn nguyên thực sự khiến Lê
Quý Đôn đặc biệt đề cao đường lối của Quản Trọng: “Quản Trọng đặt ra phép
nội chính, tuy nói là thay đổi chế độ đời xưa, nhưng thực ra là đã hiểu thấu tình
thế thời ấy vậy”.

Ngoài việc củng cố sức mạnh quân sự và kinh tế, trong nội dung chính trị
bá đạo, Lê Q Đơn còn nêu rõ chủ trương trị nước phải kết hợp đạo đức với
luật pháp. Luật pháp ở đây được ông hiểu trước hết là các phép tắc của tiền
triều đã được thừa nhận và phổ biến: “Đường lối chính trị phải có pháp luật,
điển lệ. Vua quan khơng thể tuỳ ý riêng của mình mà xét xử tội hình hay ban
thưởng công trạng”. Tuy nhiên, ông không cứng nhắc tới mức tuyệt đối hoá
pháp độ của tiên vương. Tinh thần tuỳ thời được ơng qn triệt mà theo đó, trị
nước phải có thể lệ noi theo tiên vương, nhưng cũng phải châm chước theo
thời: “Thể lệ do người đời trước sáng lập ra, mà người đời sau tuân giữ, đều tuỳ
thời nghi, xưa nay khơng có cách cục nhất định... Hiến chương cũ của tiên
vương cũng châm chước phép tắc đời thượng cổ mà làm ra, nhưng tuỳ thời
thêm bớt, có chỗ khơng giống nhau”.
Tinh thần nhị ngun qn xuyến tư tưởng Lê Quý Đôn tới mức ông
luôn đưa ra hai lựa chọn song trị: vừa tuân thủ pháp tiên vương, vừa tùy nghi
châm chước phép tắc đời trước. Nhưng, châm chước như thế nào, tuỳ thời ra
sao để không phải là “tùy ý riêng” thì ơng khơng bàn rõ.
Ngồi ý nghĩa là điển lệ của tiên vương, pháp trong quan niệm của Lê
Q Đơn cịn là kỷ cương, hình phạt. Ơng coi kỷ cương là lễ pháp hình chính,
là đầu mối lớn, căn bản lớn để trị thiên hạ. Cơ sở để ơng coi trọng cả lễ giáo và
hình phạt trong đạo trị nước xuất phát từ quan niệm triết học của ơng về tính,
về khí chất của con người: “Giời sinh mn dân, tính vốn thiện, nhưng khí chất
khơng như nhau; qn tử ít mà tiểu nhân thì nhiều,... Cho nên qn tử dùng
hình phạt để đề phịng dâm loạn, dùng lễ giáo để đề phòng tư dục”. Thừa nhận
thực tế dân tình bị tư dục chi phối, khí chất khác biệt dẫn tới sự tồn tại của cái


xấu, cái ác, ông không ảo tưởng vào phương tiện giáo hố đạo đức như là cơng
cụ duy nhất để điều chỉnh xã hội mà cho rằng, mỗi phương tiện có phạm vi tác
dụng riêng, khơng thể thay thế và việc dùng cả lễ giáo lẫn hình phạt trong cai
trị dân chúng là điều tất yếu.

Những phân tích trên cho thấy Lê Q Đơn chủ trương đường lối chính
trị nhị nguyên: kết hợp cả vương đạo và bá đạo trong trị nước. Sự kết hợp đó
dựa trên nền tảng phê phán lịch sử chính trị Trung Hoa cổ đại và căn cứ vào
thực trạng chính trị Đại Việt thế kỷ XVIII. Xuất phát từ nhu cầu củng cố chế độ
lưỡng đầu song tồn triều đường - vương phủ, Lê Quý Đôn đã lựa chọn những
nội dung trong vương đạo và bá đạo mà ơng cho là thích ứng nhất cho sự vững
bền của chế độ mà ông phụng sự: đường lối nhân nghĩa hợp lịng dân kết hợp
với chính sách nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế, giáo hố dân chúng kết
hợp với kỷ cương luật pháp. Đó là những nội dung cơ bản nhất trong lý luận
chính trị nhị nguyên của Lê Quý Đôn.
Từ quan điểm quán xuyến chung về đường lối chính trị đó, Lê Q Đơn
đã đưa ra những tư tưởng chính trị thực hành cụ thể, góp phần hồn chỉnh hệ
thống tư tưởng chính trị nhị ngun của mình.
1.2.

Tư tưởng chính trị thực hành của Lê Q Đơn.

Tư tưởng chính trị thực hành của Lê Quý Đôn tập trung vào hai nội dung
lớn: Xây dựng đạo làm vua và đạo làm quan. Khi xác định mối quan hệ chính
trị căn bản nhất là quan hệ giữa vua - quan và dân, ông coi đây là mối quan hệ
gắn kết hữu cơ: “Gốc của nước là dân, mệnh của vua cũng là dân. Bọn cường
thần gây loạn bên trong, nước thù địch quấy rối bên ngồi đều chưa đáng lo
lắm. Chỉ khi lịng dân dao động mới là điều đáng sợ”. Trên cơ sở nhận thức tầm
quan trọng của việc yên dân và vai trò quyết định của người làm vua, làm quan
trong sứ mệnh yên dân, ông đặc biệt tập trung vào việc xây dựng tư tưởng về
đạo làm vua, làm quan.
Tư tưởng người làm vua phải trọng dụng người tài trong trị nước là một
trong những nội dung hết sức quan trọng trong chính trị thực hành của Lê Quý



Đôn. Bởi lẽ, theo ông, người làm vua phải biết chọn người tài giỏi làm tướng,
làm quan giúp vua trị dân, hồn thành được đạo làm vua. Ơng khẳng định phải
chọn người tài giỏi làm tướng trước, còn những việc trị nước cụ thể bàn sau:
“Người làm vua bàn việc trị nước, có ai bàn trước đến việc chọn người làm
tướng đâu. Nhưng nếu chọn được người tài giỏi thì muôn việc đâu vào đấy, nếu
chọn phải kẻ bất tài thì mn việc sẽ đổ vỡ. Việc chọn lựa ấy thật là khó, trách
nhiệm ấy thật là nặng nề”.
Coi đội ngũ nhân sự trong bộ máy triều chính là nhân tố quyết định thành
bại của việc thi hành đường lối trị nước của vua, Lê Quý Đôn cho rằng, nguyên
nhân nước yếu là do dùng người tầm thường thay chỗ người hiền tài. Ông cảnh
báo việc người làm vua chỉ thích dùng người giống mình, dùng kẻ hương
nguyện, khơng thích người tân tiến sẽ khiến người tài bị hao mòn tráng chí,
nguyên khí của quốc gia bị hao tổn, dẫn tới sự suy yếu của thế nước.
Đề cao việc trọng dụng người tài trong đạo làm vua, Lê Quý Đôn quan
niệm tùy tài mà trao chức. Ông phân biệt ra ba loại người tài để tuỳ theo mỗi
loại mà dùng cho đúng mục đích, sở trường của họ: Hạng tài năng, độ lượng
siêu việt xuất chúng; hạng bình thường, khơng có lỗi và hạng bình tĩnh, hồ
nhã, thích làm việc phải, thuỷ chung: “Đem 3 loại ấy để định luận nhân cách thì
đều đắc dụng ở triều”.
Cùng với tư tưởng về đạo làm vua, Lê Q Đơn cịn đưa ra tư tưởng xây
dựng đạo làm quan. Theo ông, đạo làm quan là: “Trên thờ vua, dưới trị dân, giữ
trọn chức trách, theo địi chính sự, kẻ làm tơi có phép thường, đấng thánh thân
đã dạy sẵn, các vị tiên nho đời này qua đời khác lại càng nắm vững những lời
dạy bảo ấy. Cơng nghiệp to lớn thường ở đó mà ra”. Ông cho rằng, trăm quan
quyết định việc trị hay loạn của một nước, người có đức, có tài nhậm chức thì
trị, người bè cánh, hung ác nhậm chức thì loạn; do vậy, xây dựng được một đạo
làm quan chuẩn mực để người làm quan lấy đó mà thực hiện, noi theo là hết
sức cần thiết. Ông xác định những nhiệm vụ của người làm quan ở mọi nơi,
mọi lúc: “Kẻ sĩ làm quan hành chính... phải nghĩ làm sao để vỗ về binh nông,



dấy lợi trừ hại, tuyên bố giáo điều, dời đổi phong tục, hết khả năng tâm lực mà
làm điều chức phận nên làm, để thoả lòng bề trên, ban ơn dân chúng. Dẫu thời
có khó dễ, thế có nên chăng, theo thời mà châm chước tính lường thì việc gì
cũng thích đáng cả”.
Lê Q Đơn cho rằng, người qn tử phải đạt tiêu chuẩn có được “chín
điều hay” về ngơn từ và tri thức Nho giáo thì mới là người có đức, mới có thể
làm quan đại phu. Ơng đã đồng nhất văn với đức, với tài, với sự hiểu biết và
cách thức thể hiện tri thức theo những hình thức của văn (bói rùa, ra mệnh lệnh,
làm minh, làm thơ ca, làm lời thệ, đặt tên hèm...). Ngồi chín điều mà người
làm quan phải biết, ơng cịn đưa ra một số lời khuyên trong đạo làm quan, như
sáu điều nên theo và sáu điều nên bỏ của kẻ sĩ đi làm quan: “Mình có cái hay
thì chớ giữ riêng, dạy bảo cho người kém thì khơng nên trễ biếng; việc đã qua
thì khơng nên xoi mói; lỡ lời khơng nên chống đỡ, có làm điều gì bất thiện thì
đừng bỏ qua, muốn làm điều hay thì khơng chần chừ”. Đây là những lời khun
có tính chất ứng dụng thực tiễn có thể giúp người làm quan giữ gìn sự bình an
và thành đạt, xuất phát từ chiêm nghiệm của bản thân ơng trong q trình làm
quan. Theo ơng, kẻ làm chính sự phải khéo léo, hiểu thấu nhân tình, có cứng, có
mềm và phải biết kết hợp cứng mềm. Người làm quan cũng phải luôn tu dưỡng
sao cho được lịng người và hợp ý trời, phải hiểu được ích lợi của việc kiệm
ước và tai họa của sự xa xỉ. Ông cho rằng, sự ham muốn khiến cho người làm
quan dễ mắc vào tai vạ, tội lỗi, đi sai chính đạo. Do vậy, ơng đặc biệt đề cao tri
thức và sự tu dưỡng cá nhân trong việc thực hiện đạo làm quan.
Xác định rõ ràng vị trí và vai trị của từng nhân tố trong mối quan hệ
chính trị cơ bản nhất của xã hội là quan hệ vua-quan-dân, Lê Quý Đôn tập
trung vào việc xây dựng những nội dung cốt yếu, quan trọng nhất của đạo làm
vua và đạo làm quan, hình thành nên hệ thống tư tưởng chính trị thực tiễn của
mình. Tư tưởng trị nước của Lê Q Đơn đặc biệt đề cao tính biện chứng. Ơng
cho rằng, người làm chính trị phải ln ln vận động, thay đổi, không khư khư
một học thuyết nào hay một phương tiện nào, không nên câu nệ về đời xưa hay



tuỳ thích về đời nay: “Nước chảy khơng thối, then cửa khơng mọt, vì nó ln
vận động, huống chi trị thiên hạ mà lại không vận động liệu được sao?”. Đó là
ngun tắc cơ bản trong tư tưởng chính trị thực hành của Lê Qúy Đơn.
2. Tư tưởng chính trị xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Sinh ra trong một gia đình trí thức lớn của thế kỷ XV- XVI, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã đạt tới trình độ cao của trí tuệ đương thời, đặc biệt là về lý số. Ơng
thơng thiên văn, đạt địa lý và tri nhân tâm. Ông khát khao cống hiến tài năng và
trí tuệ cho đất nước và nhân dân. Nhưng đất nước đầy binh lửa, núi xương,
sông máu chất ngất thảm thê “Mãn mục can qua khổ vị hưu” (Trước mắt đầy
rẫy chiến tranh, cái khổ bao giờ hết !). Giữa cái ren rối và bất ổn của thời cuộc,
dù học rộng, tài cao thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng khơng dễ dàng tồn tâm phù
Lê, phù Mạc hay phù Trịnh? Dù thông tuệ đến sâu cùng quy luật của trời đất,
xã hội và lòng người, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không sao ngăn nổi khát vọng
quyền lực của các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc - Trịnh. Và cuối cùng, ông đã
nghiêng về giúp nhà Mạc. Trong hơn 30 năm phò bốn triều nhà Mạc, Nguyễn
Bỉnh Khiêm cùng nhiều cựu thần nhà Lê và sáu con trai đã đóng góp vào lịch
sử phát triển đất nước một bước rất quan trọng. Về mặt đạo đức, ông đã khơi
gợi sự đổi mới kinh tế và đặc biệt là sự đổi mới về tư tưởng trong quan hệ vua
tơi. Khi thấy bọn gian thần lộng hành, lịng dân ly tán, đất nước ngàn cân treo
sợi tóc, mn dân lầm than thống khổ, ông đã dâng sớ để chém đầu bọn nịnh
thần. Nhưng ý kiến của ông không được chấp nhận. Ông ghét bọn tham nhũng
và sống thẳng thắn, cương trực. Có người cho rằng ơng là người ba mang, phục
vụ cả Trịnh, Nguyễn và Mạc. Qua các tác phẩm của ơng thì thấy rõ tầm tư
tưởng đạo đức của ông rất rộng, gắn với nhân cách kẻ sĩ lúc đó. Nếu đúng là
ơng phục vụ cả Nguyễn, Trịnh, Mạc thì ở đó, ta đã thấy ơng nêu rõ cách xuất
xử trong các thời loạn lạc phải thông minh và mềm dẻo như thế nào.



Các tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai đặc điểm lớn: một
là sâu sắc, hai là gần dân. Cả hai đặc điểm này đều gắn với bản chất triết lý
thơng tuệ và tính dân dã của ơng. Sống gần trọn thế kỷ thứ XVI, Nguyễn Bỉnh
Khiêm nghe nhiều, nhìn thấy nhiều, do đó suy tư rất nhiều. Người ta thường gọi
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà triết lý đầy suy tư. Tính triết lý đó phản
ánh rất rõ trong tư tưởng đạo đức của ông. Sau khi đã “đọc khắp mn thiên”,
ơng có tham vọng tổng kết các tri thức được chung đúc trong dân gian, nâng lên
hoàn chỉnh rồi lại trả về với cuộc sống thực. Vì vậy, các lời răn dạy đạo đức của
ơng giản dị mà sâu sắc. Hầu như ơng nhìn thấy những người nông dân quanh
thôn ấp đang chờ đợi lời khun nhủ của ơng giữa cái nhân tình thế thái bon
chen, thiện ác lẫn lộn. Ơng dặn dị mọi người: “Giữ miệng cho hay biếng nói
năng. Gìn lịng hơm sớm hãy khăng khăng”.
Sống giữa lòng dân, các tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang
rõ tính nhân dân. Tình cảm, tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm bắt nguồn từ đời
sống nhân dân và rất nhiều tư tưởng đạo đức của ơng được nhân dân u thích
đã trở thành lẽ sống thường nhật của họ. Tư tưởng đạo đức quan trọng của
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tư tưởng phấn đấu cho hồ bình. Khi răn dạy những
điều thiện cho học trị, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rõ khát vọng thiên hạ thái
bình là khuynh hướng day dứt nhất của thế kỷ mà ông sống và cũng là nguyện
vọng thiết tha nhất của toàn dân tộc. Trong cái đớn đau đến tận cùng của thơn
xóm đói khổ, ly tán vì chiến tranh, vợ xa chồng, con mất cha, Nguyễn Bỉnh
Khiêm ước mơ có một “buổi thái bình”, “no lịng ấm cật thời Nghiêu Thuấn”.
Ơng biết cái thời ấy khơng thể dễ dàng trở lại bởi sự nứt rạn từ lòng sâu của đất
nước, sự phân cực của các quyền lực khơng gì hàn gắn được. Nhưng dù sao, vì
thương dân, vì yêu nước, ông cũng muốn mang hết “tuổi già bất tài” mà gắng
sức ngày đêm làm một việc gì đó để đất nước tránh được thảm hoạ chiến tranh.
Trong tư tưởng đạo đức cơ bản của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi “nước
lấy dân làm gốc”, “bền nước yên dân là việc đầu mối”. Ông đặt vấn đề trị nước
phải lấy dân làm sức mạnh. Tư tưởng đạo đức này của ông xuất phát từ một



nguyện vọng xây dựng xã hội vua hiền tôi trung. Từ nguyện vọng này, ơng
khun mọi người gìn giữ tam cương, ngũ thường và nhớ báo đáp ân chúa (Ân
chúa đã nhiều chưa báo - lòng còn canh cánh ất khơn nài). Trong khi ấy, chính
ơng biết rất rõ rằng, đất nước lâm vào cảnh ngộ bất ổn đến đau lòng. Kẻ giàu
sang, sang trọng đến cực độ “đường đem trát chõ đồ xơi, sáp đem làm củi …”,
cịn người nghèo thì bị “khinh bỉ trong đám chiếu rách, nằm co lạnh lẽo bên
đường”. Ông đã kêu lên rằng, “đời này nhân nghĩa tựa vàng mười”. Cái xã hội
mà ông đang sống cương thường đã đảo ngược, cảnh sống phân hố rõ rệt,
nhân tình thế thái đảo điên, “nhà ở đem bẻ làm củi, trâu cày đem giết thịt ăn,
chỉ trông thấy cảnh tro bùn”, “giàu sang người đến dập dìu. Bần tiện ai kẻ trọng
yêu”. Trong cái nghịch cảnh ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm càng thiết tha gìn giữ một
kỷ cương, mong thiên hạ bình yên. Khát vọng này tuy chỉ là một mơ ước,
nhưng nó lại đáp ứng với ước mơ của cả triệu người nông dân nghèo khổ. Ông
khuyên vua chúa hãy vì dân, vì nước, nhưng lời khun ấy khơng thành hiện
thực.
Lịng thương người, chủ nghĩa nhân đạo trong tư tưởng đạo đức của
Nguyễn Bỉnh Khiêm thường được thể hiện trong thơ văn. Yêu con người phải
chống lại những gì làm hại con người, đó là tư tưởng đạo đức Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Tư tưởng này là một bước phát triển mới về chủ nghĩa nhân đạo trong
lịch sử văn hóa dân tộc. Đây là bước phát triển cả về chiều sâu và bề rộng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm thương người và tạo lập một triết lý mới: tố cáo và tin
tưởng. Trong một bài văn rất nổi tiếng: Nhân tình thế thái. Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã tố cáo cái xã hội của ơng: “Cịn bạc cịn tiền cịn đệ tử. Hết cơm hết gạo hết
ông tôi”, dù vậy, ông vẫn tin tưởng xã hội trọng người chân thật và không ưa kẻ
đãi bơi. Ơng ln tố cáo kẻ bạc ác, tố cáo sự bất công của xã hội coi trọng đồng
tiền (Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bọn. Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền), đầy
đọa con người nghèo khổ và tin tưởng ở sức mạnh của dân. Mặc dù Nguyễn
Bỉnh Khiêm chỉ mong muốn xã hội trở lại một trật tự “coi dân là sức nước”,



“dùng dân để kết mối vững bền”, thì mong muốn ấy cũng là ý tưởng đạo đức
rất mới và rất lớn. Đó cũng chính là ý tưởng của thiên hạ và nguyện vọng ấy
cũng là nguyện vọng của muôn dân. Và do đó, ý tưởng đạo đức trong các tư
tưởng của ơng gắn với lịng u nước, thương dân sâu sắc.
Có lẽ, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rằng, biện chứng của đạo đức khơng chỉ
là lịng tin và sự tố cáo, mà hơn thế phải hành động, phải lao động, phải đấu
tranh vì sự no ấm và bình yên. Trong xã hội loạn lạc, một mặt, ông khuyên mọi
người hãy giữ mình, mặt khác phải tự lo cho mình, đừng chờ đợi. Tự phấn đấu
để đạt tới sự bình yên là tư tưởng đạo đức quan trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Các tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ gắn với cuộc
sống xã hội mà còn gắn cả quan hệ của con người với thiên nhiên. Theo ơng,
chỉ có lao động, chỉ có phấn đấu mới xây dựng được cuộc sống gắn bó với tự
nhiên. Phải lao động, phải phấn đấu con người mới được hưởng hạnh phúc
trong tự nhiên. Ơng ln cầu mong cho mưa thuận gió hồ. Ơng mong mỏi
những vụ mùa bội thu, xóm thơn no đủ, thuyền về gối bến đông vui, chợ búa đi
về tấp nập, trẻ chăn trâu ca hát, làng quê yên ả, tiếng sáo diều ngân vang khắp
đồng quê, người già câu cá bên suối. Khát vọng thực sự của Nguyễn Bỉnh
Khiêm là nhà nhà được sum họp, người người được hưởng hạnh phúc. Trong tư
tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm, để có mối quan hệ thiên - nhân tương
dữ thì mỗi người phải nỗ lực. Ơng ca ngợi sự gắn bó của con người với tự
nhiên, chứ khơng phải khuyên người ta ăn bám tự nhiên, ẩn nấp vào cái tự
nhiên hoang dã đầy núi cao và rừng hiểm trở. Ông ngợi ca lao động và gợi mở
cho mọi người đến với tự nhiên bởi ở đó, mọi người đều sẽ trở thành những con
người bình đẳng và bình dị, ở đó mọi người đều lao động và sẽ đối xử tốt với
nhau. Ở đó, dù là vua chúa hay người nơng dân đều hít hơi thở khống đạt của
tự nhiên, đều ngắm trăng lồng cổ thụ, đều thả hồn vào tám hướng tranh treo. Tự
nhiên là của chung, là hồn của núi sơng, con người sẽ thoả chí u q hương
đất nước mà khơng có lực lượng xã hội nào kìm trói được. Tư tưởng đạo đức



của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn con người với tự nhiên có cội nguồn từ Đạo giáo.
Đây là tư tưởng làm cho con người khi yêu thiên nhiên thì yêu nhau hơn.
Nhiều người cho rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trốn vào tự nhiên, đã ở ẩn
trong tự nhiên, thực hiện triết lý nhàn trong tự nhiên. Đúng là trong thơ văn
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết rất nhiều về chữ nhàn (An nhàn ngã thị địa trung
tiên - an nhàn ta là tiên trên đời). Nhưng không một nhà nghiên cứu nào về
Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm được sống an nhàn, thanh
nhàn. Ông đã lao động đến say mê, đã trăn trở đến nhức nhối. Hầu như ngày
nào ông cũng bận bịu. Ơng lo cho mn dân, ơng gắng sức rèn luyện học trị.
Văn phẩm của ơng để lại cho đời hàng nghìn bài trong Bạch Vân am thi
tập và Bạch Vân quốc ngữ thi là một minh chứng. Triết lý ông gửi vào muôn
trùng sông núi và ăn sâu vào ý thức xã hội. Sao lại nói rằng Nguyễn Bỉnh
Khiêm nhàn hạ được? Trong bài tế Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đinh Thời Trung đã
viết rằng: “Tiên sinh không bao giờ mất, bóng thu dương sáng mãi … tiên sinh
là núi Thái sơn. Đạo tiên sinh cịn mn thuở”. Sự thật thì tư tưởng nhàn ở
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tư tưởng đạo đức khoan dung. Ơng phấn đấu hết
mình cho đời và khơng mong tranh chấp và địi hỏi đền đáp. Con người hãy
sống hồ mình vào tự nhiên, giữ lấy xích tử chi tâm, lấy lịng nhân, nghĩa mà
sống.
Chữ nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn bó chặt chẽ với ý tưởng khoan
hồ của ơng. Các nhà thơ lớn, các nhà tư tưởng xuất sắc ở phương Đông
thường lấy thiên nhiên để thể hiện tình cảm cao thượng, phong cách ung dung
tĩnh tại của mình. Lão Tử, Trang Tử khun con người lấy chữ tâm, điều thiện
mà hồ mình vào tự nhiên. Triết học của Lão Tử gắn với sự khoan dung, chất
phác và hồ bình. Hồ nhập với thiên nhiên là hồ nhập với đất trời và khí
thiêng sông núi, khát vọng của nhân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người vừa
theo quan điểm xích tử chi tâm của Đạo giáo vừa tịng “thi ngơn chí” của Nho
giáo. Trong bài tựa cuốn Bạch Vân am thi tập, quan điểm thẩm mỹ và đạo đức
của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện rõ ý tưởng này. Ơng “thích cái đẹp của sơn



thuỷ, vui cái mỹ lệ của hoa, trúc, mượn sự việc mà tự thuật”. Thích cái đẹp của
tự nhiên, gắn đạo đức người quân tử với cây tùng, cây bách là lý tưởng chung
về cái thiện, cái mỹ. Lý tưởng này là cơ sở của một lòng khoan dung và nhân
đạo vô hạn.
Người ta truyền tụng nhiều về các dự báo của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối
với thời cuộc. Người ta nhắc nhở các lời khuyên bảo đạo đức ngắn gọn đầy
thuyết phục của ông về vận mệnh tương lai của một triều đại. Các lời “sấm
truyền” của Trạng Trình quả thật đã mang một ý nghĩa về lý tưởng đạo đức và
tồn tại qua nhiều thế kỷ trong dân gian.
Vì đâu mà một số tư tưởng quan trọng của Trạng Trình có sức sống lâu
bền trong đời sống xã hội ? Trước hết là lý tưởng đạo đức lâu dài của ơng rồi
đến sự thơng tuệ của Trạng Trình đối với tri thức cao nhất mà phương Đông đã
đạt được vào thế kỷ XVI. Sau nữa, cách nhìn sự vật và thời thế của ơng khơng
tĩnh tại. Ơng coi thế gian ln biến đổi “thoi nhật nguyệt đưa thoăn thoắt”.
Nhìn sự vận động, sự phát triển trong các mối dây liên hệ, cùng với lý tưởng
đạo đức và sự thông đạt tri thức thời đại; bằng mẫn cảm tuyệt vời, Nguyễn
Bỉnh Khiêm thấy được lơgíc phát triển của sự vật. Ý tưởng về thiện - ác là cái
trục chính xoay quanh các dự báo về một nền đạo đức lâu bền của ơng.
Ơng nhìn đời với vẻ ân ái. Ơng tin rằng, cái thiện là khuynh hướng tất
yếu của sự phát triển. Quy luật tất yếu là khi phát triển đến cùng, sự vật, hiện
tượng sẽ chuyển sang một dạng mới. Cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, đó là do
“đạo trời lồng lộng chẳng hề sai”. Ý tưởng cái thiện thắng cái ác là một ý tưởng
nhân văn cao đẹp. Tất cả các nhà văn hoá lớn ở phương Đông, tuy mỗi người
mỗi vẻ nhưng không ai thiếu khát vọng về cái thiện và cái mỹ. Đó là các khát
vọng chung để nhân loại gặp gỡ và hiểu biết nhau. Mỗi người đều sống cho tốt;
mọi hoạt động sáng tạo đều lấy cái tốt làm điểm đạt tới thì xã hội sẽ tràn ngập
tình yêu và ánh sáng, thiên hạ sẽ chung hưởng thái bình.
Trên cở sở doanh hư, cơ ngẫu, tiêu trưởng, lý số, phân tích xã hội trong

sự vận động và nhìn thấu suốt tận cùng cuộc đấu tranh giữa cái thiện với cái ác,


Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ ra thế đất, thế nước và biện chứng của một nền hồ
bình bền vững dài lâu.
Trong các tư tưởng đạo đức của nhà văn hoá lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm có
một điều rất kỳ lạ, ơng ln lạc quan. Sống gần trịn một thế kỷ, gần một trăm
năm đất nước loạn lạc, ông đầy lo toan nhưng khơng thấy ở ơng có một dấu
hiệu gì về sự “lẩn thẩn”, “lẩm cẩm”, “bi quan”. Tuy suy tư dữ dội nhưng ơng
khơng sầu muộn. Ơng u đời, u người, u học trị, u làng xóm, q
hương, u đất nước và yêu nhân dân đến tận hơi thở cuối cùng. Phan Huy Chú
trong Lịch triều hiến chương có chép rằng: “Lịng Trạng khơng một lúc nào
qn đời”. Chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự nói rằng: “Ái ưu rực rực trăng in
nước”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm rất yêu đời nhưng không phải ông là người vô lo.
Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đau cho đời nhưng ông không than thân trách phận. Ở
Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta thấy có tình u, nỗi đau nhưng lại tràn đầy
niềm tin. Chính niềm tin cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, tin nền hồ bình sẽ về
với đất nước (Thái bình thiên tử, thái bình dân) mà nỗi đau, nỗi lo của ơng
khơng chứa đựng tình cảm bi quan; “tâm hồn buổi sáng như đuốc ngọc” và
“Đạo Người muôn thưở tốt tươi”.
Vượt lên trên hết, giá trị tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong
lịch sử dân tộc là ơng đã gắn tình cảm lạc quan với thế hệ trẻ. Tư tưởng về sự
kế tục các thế hệ là tư tưởng đạo đức đặc sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng chính trị xã h ội của Nguy ễn
Bỉnh Kiêm và Lê Quý Đôn.
Từ những nội dung của tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Q
Đơn ta có thể thấy được đặc điểm, giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử. Về tư
tưởng triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với vấn đề dân sinh
và đạo lý làm người và giá trị con người; hai là, tư tưởng triết lý nhân sinh

Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện tư tưởng yêu nước thương dân; ba là, phê phán


hiện thực cuộc sống là những đặc điểm nổi bậc của tư tưởng triết lý nhân sinh
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Về giá trị của tư tưởng triết lý nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm: Thứ nhất,
tư tưởng triết lý nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự tích hợp tinh hoa triết lý
nhân sinh của dân tộc và thời đại của ông. Thứ hai, tư tưởng khoan dung – giá
trị cốt lõi trong tư tưởng triết lý nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thứ ba, giá trị
tích cực của tư tưởng triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm – thái độ sống
nhập thế.
Về những hạn chế cơ bản trong tư tưởng triết lý nhân sinh của ông: một
là, triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm cịn mang tính duy tâm (thiên
mệnh); hai là, Triết lý nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm còn thiếu các giải pháp
để thực hiện tư tưởng của mình, ba là, triết lý nhân sinh chứa đựng nhiều mâu
thuẫn trong xuất xử. Trong sách Nguyễn Khuê viết “tư tưởng triết lý nhân sinh
của Nguyễn Bỉnh Khiêm có ảnh hưởng đến đời sau”, ảnh hưởng đó thể hiện
trong ý nghĩa lịch sử của tư tưởng nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Về ý nghĩa của tư tưởng nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ý nghĩa về
mặt lý luận và ý nghĩa thực tiễn. Có thể khái quát ý nghĩa về mặt lý luận trong
tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở những vấn đề chính:
một là, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm góp phần làm phong phú
và sâu sắc thêm nội dung tư tưởng triết lý nhân sinh của dân tộc ta; hai là,
những tư tưởng, quan điểm triết lý nhân sinh như về giá trị con người, giá trị
cuộc sống, quy luật chi phối sự vận động phát triển, đạo làm người đã bổ sung
vào tư tưởng nhân sinh của dân tộc những tư tưởng tiến bộ, những khái niệm
phạm trù có nội hàm được hiều theo hướng tích cực phù hợp với thời đại và với
sự vận động và phát triển của xã hội; ba là, bằng sự phản ánh thực tiễn đầy biến
động của thế kỷ XVI, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm góp phần
thể hiện cụ thể, sinh động nội dung tư tưởng triết lý nhân sinh nói chung, vì thế

tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trở thành một trong những tiền đề
cho các nhà tư tưởng sau này kế thừa và phát triển.


Ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể
khái quát lại ở những nội dung chính: thứ nhất, tạo một lịng tin trong nhân dân
ta về một cuộc sống tốt đẹp hơn với những giá trị được đề cao; hai là, khẳng
định các giá trị con người và phê phán những kẻ đi ngược lại với các giá trị ấy;
ba là, khơi dậy mong muốn hịa bình trong điều kiện đất nước phân tranh. Các
bài học lớn mà tư tưởng nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho chúng ta:
Thứ nhất, nước phải “dân làm gốc”, lấy lợi ích, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân làm mục tiêu cho quá trình đổi mới. Thứ hai, bài học về mục đích của
giáo dục và đào tạo nhân tài.
Tư tưởng nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm có giá trị to lớn và sức ảnh
hưởng đến thời đại chúng ta để lại cho chúng ta những bài học trong việc xác
định lại giá trị cuộc sống, giá trị con người, giáo dục đạo đức, nhân cách lối
sống cho thế hệ trẻ trong thời hiện đại các chuẩn mực đạo đức bị lu mờ. Và tư
tưởng nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ tỏa sáng định hướng cho chúng ta
trong thời đại mới, xây dựng một Việt Nam giàu mạnh.
Về tư tưởng của Lê Q Đơn, tư tưởng chính trị nhị nguyên của Lê Quý
Đôn là sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời đại mà ông đang sống, thời đại
manh nha một sự đa dạng học thuật và phát triển kinh tế thương mại, góp phần
tạo lập, hợp lý hố và phát triển xu hướng chính trị kết hợp vương đạo với bá
đạo về mặt lý luận . Đường lối nhị nguyên chính trị này đã tỏ ra thích ứng với
thực trạng xã hội đương thời. Ông là người duy nhất trong lịch sử tư tưởng
chính trị Việt Nam đã công khai ca ngợi đường lối bá đạo của Quản Trọng và
lấy đó làm một tấm gương trị nước. Tinh thần quyền biến, tuỳ thời trên nền
tảng lấy nhân nghĩa làm kim chỉ nam trong tư tưởng chính trị của ông là một
giá trị đặc sắc trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam.



KẾT LUẬN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định “Xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của
chiến lược phát triển”. Quan điểm này đã thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà
nước ta cần xây dựng lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người”, tuân thủ pháp luật, bảo vệ môi trường, uống nước nhớ nguồn, đền ơn
đáp nghĩa, tương thân, tương ái, quan tâm giúp đỡ người khác, nhân rộng các
giá trị tốt đẹp, nhân văn, đưa đất nước tiến nhanh và bền vững trong đó những
giá trị về con người được coi trọng, được phát triển toàn diện.
Thực tiễn xã hội Việt Nam đã chứng minh, ở bất cứ thời kỳ nào mà
những quan niệm dung hồ, bình hịa được duy trì và củng cố thì thời kỳ đó sẽ
ngày càng phát triển và ổn định. Trước bối cảnh toàn cầu hoá, nguy cơ mất sắc
thái cội nguồn, riêng biệt của dân tộc là khá lớn, việc kế thừa triết lý đạo đức về
con người với thiên nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm, áp dụng nguyên tắc này
trên một tinh thần mới, ý nghĩa mới chính là chiếc “chìa khố vàng” để xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa, có nhân cách, nhân ái, nghĩa tình, u thiên
nhiên và muốn gắn bó với thiên nhiên. Đảng và nhân dân ta đã, đang và sẽ trân
trọng những di sản, giá trị văn hoá quý báu mà Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Quý
Đôn để lại cho dân tộc



×