Chứng khoán có đáng lo chăng ?
Hiện nay, không thể bỏ qua những nỗi lo toan của Nhà nước và nhiều
người: thị trường phát triển bất thường, giá cổ phiếu lên quá cao rồi rớt
mạnh sẽ làm nhiều người mất những khoản tiền lớn, dòng vốn đầu tư nước
ngoài ồ ạt đổ vào rồi sau đó ồ ạt rút ra sẽ dẫn đến khủng hoảng như Thái
Lan năm 1997.
Đó là những nỗi lo chính đáng nhưng cũng cần bình tĩnh phân tích thực tế
để xem có thể hóa giải những âu lo đó chăng.
Giá cổ phiếu hiện nay có quá “ảo” như nhiều người nhận định chưa?
Ta tạm dùng khái niệm P/E (Price: giá, Earnings: thu nhập của một cổ
phiếu) để so sánh. P/E là một chỉ số nói lên mức đầu tư để tạo ra 1 đồng thu
nhập, hay nói cách khác nó là nghịch đảo của E/P vốn là tỷ suất sinh lợi
trên vốn đầu tư. P/E cao quá sẽ cho hiệu quả đầu tư thấp.
Hãy so sánh P/E của vài thị trường: ở Mỹ P/E bình quân là 12, ở Singapore
P/E là 20. Mỹ có tốc độ tăng trưởng GDP từ 0 đến 1,5%, Singapore tăng
trưởng GDP là 4%. Vậy ở Việt Nam tăng trưởng GDP là 8,5 thì P/E có thể
chấp nhận là bao nhiêu?
Một điều chắc chắn, nếu P/E ở Việt Nam cao hơn Mỹ và Singapore thì
cũng hoàn toàn hợp lý. Nếu kết hợp yếu tố hoàn cảnh thuận lợi và khả năng
tăng trưởng nhanh hơn trong những năm tới của nền kinh tế Việt Nam, các
nhà đầu tư nước ngoài dày dạn kinh nghiệm cho rằng có thể chấp nhận P/E
trung bình ở mức 25 đến 30 lần.
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại có nhiều cổ phiếu giá cao,
nhưng thật ra chưa cao đến mức ảo như nhiều người nghĩ, có khá nhiều
doanh nghiệp mà tiềm năng phát triển của nó cho phép nó xứng đáng với
giá cao như vậy. Còn lại số khác thì giá cao là do “ăn theo” thị trường.
Trong những ngày qua, do sự cảnh báo của Chính phủ và các phương tiện
truyền thông, thị trường đã tự điều chỉnh, trên hai sàn giao dịch đã xuất
hiện một số cổ phiếu lên giá trong khi một số cổ phiếu xuống giá chứ
không phải tất cả cùng lên và tất cả cùng xuống như trước đây nữa, đây là
hiện tượng đáng mừng, và sự điều chỉnh này chắc chắn sẽ làm nhiều nhà
đầu tư trong nước tỉnh táo hơn trong tương lai.
Liệu có cần thêm một sự can thiệp mạnh hơn từ phía Chính phủ? Tôi nghĩ
là không.
Nỗi lo thị trường phát triển quá nóng tạo ra hiện tượng giá bong bóng và
cuối cùng bong bóng bể
Do sức hấp dẫn của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn cất cánh, đầu tư
vào các doanh nghiệp mang lại hiệu quả cao, và đến lượt nó, giá cổ phiếu
tăng nhanh chóng lại tiếp tục thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư mới cả
trong và ngoài nước. Khi nhu cầu đầu tư tăng lên đột ngột thì giá tăng là
điều tất yếu.
Để giải quyết tình trạng này, Chính phủ cần đóng vai trò hướng dẫn và điều
tiết thị trường bằng các biện pháp kinh tế. Khi thị trường mất cân đối cung
cầu (cầu lớn hơn cung) như hiện tại, đã xuất hiện một xu hướng tiêu cực là
tìm cách giảm cầu thay vì tìm cách tăng cung.
Đối với một thị trường đang trong giai đoạn chớm phát triển như hiện nay,
việc tác động giảm cầu sẽ trực tiếp làm cho thị trường nhỏ lại, nhiều nhà
đầu tư bỏ đi và ta sẽ mất rất nhiều công sức để đưa họ trở lại thị trường.
Để tăng cung ngay cho thị trường, ít nhất ta có hai giải pháp:
Cho phép áp dụng hình thức “bán khống”: đây là hình thức cho phép nhà
đầu tư được vay chứng khoán để bán ra, sau đó họ phải mua lại số chứng
khoán đã vay để trả nợ. Khi thị trường tăng giá quá nóng, nhiều người đánh
giá rằng giá sẽ rớt và họ muốn vay chứng khoán để bán ra trước, khi giá rớt
xuống họ sẽ mua lại và kiếm lời.
Cơ chế bán khống (short sale, chính ra nên dịch là “bán trước” để tránh ngộ
nhận) thật ra khá phổ biến trên các thị trường chứng khoán nước ngoài, nó
phát huy tác dụng rất tốt khi thị trường quá nóng bằng cách tăng lượng
cung, và sau đó khi thị trường giảm giá nó lại làm tăng lượng cầu (do nhà
đầu tư phải mua lại chứng khoán đã bán để trả nợ).
Ngoài ra để hạn chế tác dụng không mong muốn (tăng thêm lượng cung khi
thị trường giảm giá) Ủy ban Chứng khoán có thể quy định: khi giá một cổ
phiếu giảm liên tục đến mức 20% thì tạm ngưng cho vay chứng khoán đó
cho đến khi giá trở lại bình thường.
Một biện pháp rất tích cực và trong tầm tay để tăng cung ngay: đó là bán cổ
phiếu mà Nhà nước đang nắm giữ. Do các cổ phiếu này hiện do nhiều
doanh nghiệp nhà nước các cấp khác nhau nắm giữ nên nếu muốn bán ra
kịp thời phải thực hiện bằng một quyết định của Thủ tướng Chính phủ, giao
Bộ Tài chính chủ trì thực hiện. Số tiền bán cổ phiếu sẽ được giữ lại để ổn
định thị trường nếu có biến động. Khi giá sụt xuống dưới giá trị ta sẽ dùng
vài chục ngàn tỉ này mua vào lại để bình ổn thị trường.
Kết quả là ta hoàn toàn kiểm soát được thị trường bằng biện pháp kinh tế,
hơn nữa giải pháp này sẽ làm tăng thu cho ngân sách vì bán lúc giá cao mà
mua lại khi giá thấp.
Nhiều ý kiến cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài vốn lớn nên rất dễ thao
túng thị trường, làm giá theo ý họ, nhưng nhìn lại trên thị trường chứng
khoán hiện tại, có nhà đầu tư nào lớn hơn nhà đầu tư “Nhà nước Việt
Nam”, vốn nào lớn bằng vốn của cổ đông Nhà nước? Vấn đề là Nhà nước
có nhìn thấy vai trò to lớn của mình trên thị trường và tận dụng tối đa vai
trò đó để điều khiển thị trường bằng các biện pháp kinh tế hay không.
Tôi nhớ vào khoảng năm 2002, nhà đầu cơ lớn nhất thế giới Soros chuyển
đến Hồng Kông nhiều tỉ đô la và tiến hành hoạt động đầu cơ trên thị trường
tiền tệ với mục tiêu kiếm lời hàng tỉ đô la, nhưng chính quyền Hồng Kông
khi đó với sự hỗ trợ âm thầm của Chính phủ Trung Quốc đã dùng chính sức
mạnh tài chính của mình đối đầu với Soros, kết cuộc sức mạnh tài chính
của một quỹ đầu cơ không thể bì kịp với sức mạnh tài chính của nhà nước
và Soros đã buộc phải chào thua với khoản lỗ khổng lồ (gần 2 tỉ đô la) và
một kinh nghiệm cay đắng không bao giờ quên về chuyện đối đầu với một
nhà nước.
Nỗi lo về việc vốn nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam và khi ồ ạt rút ra sẽ tạo
khủng hoảng giống như cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997 bắt nguồn từ
Thái Lan: mọi thứ như có vẻ sẵn sàng lập lại kịch bản của năm 1997, tuy
nhiên ta cần tỉnh táo nhìn lại tình hình và cập nhật tình hình :
- Ta hãy nhìn trên quan điểm của nhà đầu tư nước ngoài: khi nào họ rút vốn
và rút vốn vì lý do gì? Rõ ràng họ đầu tư vào Việt Nam là để tìm kiếm lợi
nhuận, hầu hết đều muốn đầu tư lâu dài vì nhận định rằng kinh tế Việt Nam
sẽ phát triển và phát triển với tốc độ cao. Họ chỉ rút vốn khi cho rằng các
doanh nghiệp Việt Nam không còn khả năng tăng trưởng hoặc có chiều
hướng giảm sút lợi nhuận, và giá cổ phiếu trên thị trường chỉ toàn là giá ảo,
khi đó mục đích đầu tư không còn được đáp ứng.
Vậy thì vấn đề nằm ở khả năng quản lý vĩ mô của Chính phủ: các doanh
nghiệp Việt Nam phải tăng trưởng tốt, thị trường lành mạnh khiến giá cổ
phiếu không rơi vào vùng giá ảo. Hiện nay tôi nghĩ rằng những vấn đề này
vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ.
- Sau khủng hoảng năm 1997, các nước trong khu vực nhận thức được một
điều là nếu khủng hoảng lại xảy ra thì hầu hết các nước trong khu vực đều
bị thiệt hại nặng nề, do đó họ đã quyết định thành lập một quỹ ngoại tệ
khẩn cấp đủ lớn để sẵn sàng can thiệp dập tắt ngay từ đầu những cơn khủng
hoảng trong tương lai dưới hình thức cho vay “nóng” cho nước nào xuất
hiện khủng hoảng tài chính.
Có bốn nước rất tích cực đóng góp cho quỹ này là Trung Quốc, Nhật Bản,
Singapore và Hàn Quốc, và với nguồn dự trữ ngoại tệ của bốn nước này tôi
nghĩ khả năng dập tắt khủng hoảng tài chính ngay từ trong trứng nước là
điều rất hiện thực.
Việt Nam hoàn toàn có thể đàm phán để có thể vay ngoại tệ của quỹ này.
Khi có hiện tượng rút vốn ồ ạt, Nhà nước sẽ là người đứng ra mua lại cổ
phiếu bằng nguồn vốn vay từ quỹ ngoại tệ khẩn cấp và khi tình hình ổn
định lại bán ra để hoàn vốn lại cho quỹ, dĩ nhiên là khi đó các nhà đầu tư
nước ngoài lại chuyển ngoại tệ vào để tiếp tục đầu tư. Còn việc để họ đi
luôn không quay trở lại thì đó là một lỗi khác mà ta phải trả giá.
Trịnh Kim Quang