Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Tài liệu BÀI THU HOẠCH ĐIỀN DÃ ĐỀ TÀI: “Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội” pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.56 MB, 33 trang )

Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
1





BÀI THU HOẠCH ĐIỀN DÃ

ĐỀ TÀI: “Tín ngưỡng – Tôn giáo –
Phong tục – Lễ hội”
















Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
2

LỜI MỞ ĐẦU



Đạo Phật du nhập vào Việt Nam cho đến nay đã hơn hai ngàn năm. Ngay từ
khi mới du nhập, với tính cách ôn hoà, thần bí, với tư tưởng siêu việt và những giáo
vụ từ bi bác ái của Đức Phật rất phù hợp với phong tục thuần hậu của nước ta.
Chính vì vậy, đạo Phật dễ dàng hoà nhập vào những tập tục dân gian để mau chóng
ăn sâu vào lòng tín ngưỡng của người Việt. Đặc biệt, ở thời kỳ Lý - Trần (thời kỳ
độc lập tự chủ, xây dựng và củng cố chế độ phong kiến), đạo Phật rất được giai cấp
thống trị coi trọng. Nhiều nhà sư trở thành những cố vấn tin cậy của nhà vua, các
nhà sư được coi là tri thức, coi sóc phần tâm hồn của con người. Đạo Phật trở thành
quốc giáo, kết hợp với vương quyền để cai quản đất nước.
Từ tín ngưỡng, Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều lĩnh vực khác trong
xã hội như chính trị, văn học - nghệ thuật, kiến trúc , để lại cho dân tộc nhiều công
trình văn hoá có giá trị lớn. Nếu như ở thời nhà Lý, chùa được xây dựng rất lớn
bằng tiền của nhà nước thì thời nhà Trần, sau 3 lần chống quân Nguyên – Mông
thắng lợi, nền kinh tế bị sa sút nhiều do bị chiến tranh tàn phán, chùa vào thời kỳ
này chủ yếu là chùa làng – do dân của 1 làng đóng góp tiền xây dựng. Nhà nước
không đủ khả năng kinh tế xây dựng chùa tháp trên cả nước mà chỉ đủ tiền xây
dựng chùa ở kinh đô Thăng Long và quê hương của dòng họ nhà Trần (ngoại vi
thành phố Nam Định). Trong số đó, tiêu biểu là chùa Phổ Minh – Di tích lịch sử
thuộc quần thể di tích nhà Trần, nổi tiếng với kiến trúc Phận giáo độc đáo thời Trần
và ngôi tháp Phổ Minh, cách thành phố Nam Định khoảng 5km về phía Bắc.
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
3


PHẦN 1: THÔNG TIN DI TÍCH

1. Tên di tích
Chùa Phổ Minh (Phổ Minh Tự) còn được gọi là chùa Tức Mặc hay chùa
Tháp. Chùa Phổ Minh là ngôi chùa thuộc quần thể di tích nhà Trần, nay thuộc địa

phận thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, cách thành phố Nam Định 5km về phía Bắc.
Nơi đây vốn là quê hương của dòng họ nhà Trần. Tổ tiên các vua Trần vốn làm
nghề chài lưới ở quãng sông Châu chảy qua địa phận Nam Định, sau đó tụ họp lại
thành xóm ấp bên hữu ngạn sông, còn được gọi là hương Tức Mặc (sau này được
nâng lên thành phủ Thiên Trường)
Phải nói thêm rằng, thời nhà Trần bắt đầu phát triển hình thức chùa làng (dân
làng tự đóng góp tiền xây chùa) nhưng chùa Phổ Minh không phải là chùa làng mà
là chùa của Hoàng tộc, lấy tiền kho của nhà nước xây dựng vào thời nhà Trần.
Chỉ dẫn đường đi: Thành phố Nam Định cách Hà Nội khoảng 90km. Từ Hà
Nội, xe đi hướng Đông Nam, đi theo đường cao tốc Pháp Vân – Cầu Rẽ, qua các
tỉnh Hà Tây – Hà Nam – Nam Định. Hoặc cũng có thể đi bằng tàu hỏa từ ga Long
Biên đến ga Nam Định. Từ thành phố Nam Định đi về hướng Bắc khoảng 5km là sẽ
đến chùa Phổ Minh.

2. Quá trình xây dựng và các đợt trùng tu di tích
Theo sử liệu, địa chí, bi kí thì chùa Phổ Minh khởi dựng từ thời nhà Lý tại
hương Tức Mặc. Cho đến bắt đầu năm 1239, các vua Trần đã biến quê hương Tức
Mặc của mình thành một công trường lớn. Thợ thuyền được tuyển chọn cùng với
phu lính đi làm việc ròng rã mấy chục năm liền để xây dựng những cung điện, đền
miến, dinh thự, lầu gác làm nơi ở cho hoàng thân quốc thích. Đây là trung tâm thứ
hai của đất nước bên cạnh kinh đô Thăng Long. Và để đáp ứng nhu cầu lễ Phật cho
con em hoàng tộc trong vùng, năm 1262, chùa Phổ Minh được xây dựng. Hơn nửa
thế kỷ sau, vào đầu thế kỷ XIV, năm 1305 vua Trần tiếp tục cho xây cây tháp Phổ
Minh, hoàn thiện kiến trúc chùa. Vì vậy ta có thể hiểu “Nhà Lý xây dựng, họ Trần
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
4

điểm tô” – chùa được xây dựng từ triều Lý, sang thời Trần, nhờ phái Trúc Lâm mà
chùa cảnh được mở mang khang trang lộng lẫy.
Chùa Phổ Minh kể từ các đời vua Trần kính thờ đến nay hơn 700 năm, đời

nào cũng có tu sửa để hoàn thiện nhưng không được ghi chép lại trong sổ sách, chỉ
có ghi tại bia Lê Cảnh Trị và một số bia trong chùa. Dựa trên phần công đức ở văn
bia trong chùa thì có hàng trăm người thuộc đủ tầng lớp, dòng họ từ quý phái đến
bình dân trên mọi miền đất nước, cũng như con em địa phương góp tiền tài, vật lực
phục hồi, tôn tạo cho chùa.
Vào thế kỷ XVI, công trình xuống cấp, công chúa nhà Mạc là Mạc Ngọc
Lâm cùng hội chủ Thái Bảo Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn liên tục đóng góp 36 cây
gỗ lim cực lớn để sửa chùa
Đến thế kỷ XVII, chùa cảnh hư hỏng, tỳ kheo Thích Hội Thông và Sa Di
Vân Thủy lại tu sửa chùa, sửa chữa, sơn thiếp tượng Phật.
Đầu thế kỷ XVIII, vào năm Nhâm Thìn 1712, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8
bản xã góp công sửa chữa tòa tháp trước cửa chùa
Sang thời Lê, Nguyễn công việc trùng tu tôn tạo cũng được quan tâm nhiều
lần. Thành phần công đức tu sửa chùa có tầng lớp quan chức, tôn thất quyền quý,
đặc biệt là vai trò của địa phương. Có lần các chức sắc hàng xã đứng ra lo liệu, tu
sửa tháp Phổ Minh.
Năm Nhâm Tý 1912, vua nhà Nguyễn, niên hiệu Duy Tân đã phục hồi cảnh
chùa như tu sửa lầu, chùa, phủ và làm thêm hai dãy giải vũ Đông – Tây, cung đình
nội ngoại cũng làm đầy đủ.
Sau này, nhà nước tái khẳng định đây là di tích, di sản văn hóa tiêu biểu của
dân tộc nên sớm xếp hạng và bảo vệ, đồng thời đã tiến hành tu sửa vào các năm
1961, 1987, 1994. Sửa chữa tầng trên của tháp, một số di sản như rồng đá trước cửa
chùa, tôn tạo một số hạng mục để bảo toàn di tích, kiến trúc này cho hậu thế.
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
5


PHẦN 2: QUY HOẠCH VÀ KIẾN TRÚC

1. Thế đất và cảnh quan môi trường

Chùa Phổ Minh là danh lam tiêu biểu đất Thiên Trường. Thế đất và cảnh
quan đã được ghi lại tại “Phổ Minh đỉnh tự”, đúc năm Bính Thìn, niên hiệu Cảnh
Thịnh thứ 4 (1796): “Chùa Phổ Minh trước đây vốn là đại danh lam của nước Việt,
xây dựng vào thời nhà Lý, mở mang trong thời Trần cho hợp cảnh nơi quý hương
(quê vua). Đất nàng, bên trái có nước quanh co uốn khúc, bên phải nhấp nhô như
núi cao thấp, chạy vòng, mặc bắc có sông Hoàng tụ thủy, mặt nam có dòng nước
chảy mênh mang ”
Thời gian cùng với những biến thiên lịch sử đã làm cho quang cảnh nơi đây
thay đổi. Song sự biến dạng không nhiều. Hiện nay, chùa vẫn quay về hướng Nam
mà theo quan niệm của người Việt thì hướng Nam là hướng tốt để dựng nhà - “Lấy
vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”. Chùa tọa lạc trên khu đất cao ráo, rộng khoảng
gần 2ha, đứng biệt lập, không bị các thổ cư lấn át, do vậy vẫn giữ được dáng vẻ
thanh cao, tĩnh mịch của chốn cửa chùa. Điều mà ít chùa cảnh có được là 2 cây
muỗm cổ thụ khoảng vài ba trăm tuổi xum xuê, xanh tốt, cùng với các cây đại,
nhãn, thị cùng cây tháp cổ không chỉ làm tăng vẻ thanh u, còn đăng đối thêm vẻ
đẹp cho tháp và cho chùa.
Vào khu sân ngoài của chùa, hai bên đường chính đạo là 2 hồ sen nhỏ. Xưa
kia đây chỉ là 2 giếng nhỏ mà dân gian gọi là “mắt rồng”, sau này được mở rộng
thành hồ sen. Vào thời gian này, đến thăm chùa, du khách sẽ được thưởng thức
hương thơm và vẻ đẹp xanh tươi, mát mắt của hồ sen. (Ảnh minh hoạ 2)
Phía sau chùa là vườn bia, được bao bọc bởi vườn cây xanh mát và có ao.
Tuy nhiên, diện tích ao ngày càng bị thu hẹp lại.

2. Kết cấu bộ khung gỗ toàn nhà chính (đính kèm)

Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
6

3. Trang trí kiến trúc nội ngoại thất


Chùa Phổ Minh là ngôi chùa Đại Thừa, Bắc Tông, có quy mô lớn, là nơi tu
hành tụng niệm của các quan lại, quý tộc cao cấp nhà Trần được bố trí theo kiểu nội
công ngoại quốc và thể hiện rất rõ dấu ấn sự hòa đồng ba tôn giáo (Nho – Phật –
Lão)
Công trình bố cục theo trục đôi xứng bắc – nam, các hạng mục từ to tới nhỏ
xây dựng cân đối khiến tổng thể trải dài, rộng, tạo khung cảnh hài hòa quy mô mà
vẫn khép kín, không làm mất đi vẻ hoành tráng của chùa.
Cổng tam quan (Ảnh minh hoạ 1) làm kiểu chồng diêm ba gian mái thẳng, bít
đốc. Đầu hồi mặt tiền có hai trụ hoa biểu, trên có đôi nghê chầu dáng vẻ tự nhiên.
Bậc tam quan có đôi sóc đá chầu đăng đối, đây là ranh giới phân tam quan thành 3
cửa. Cửa giữa là “trung quan”, còn hai bên là cửa “giả quan” và “vô quan”. Bước
qua cổng tam quan là vào chùa. Vào chùa là vào cõi không, rũ sạch vương vấn để
giải thoát mọi khổ não, để có tâm trong sáng – đó là tâm Phật. Hệ thống tường rào
có hoa văn trang trí, không quá cao nên khu nhà bia sân tháp không bị che khuất.
Du khách đứng từ xa cũng có thể trông thấy vẻ đẹp bên trong của chùa.
Từ tam quan theo đường chính đạo vào khu sân ngoài của chùa, hay có thể
coi là khu sân tháp bởi cách cửa chùa khoảng 6m là cây bảo tháp Phổ Minh. Hai
bên tháp là 2 nhà bia thời Lê làm kiểu chồng diêm mái cong, nhà bia ghi lại quá
trình xây dựng những nét kiến trúc và những lần trùng tu chùa. Bia quá to nên nhà
bia cũng không thể xây nhỏ. (Ảnh minh hoạ 3)
Đáng lưu ý là trên sân chùa đặt hai hàng chân tảng bằng đá, đục bông sen nở
rộ. Giữa hai hàng chân tảng còn có 4 tảng hoa sen đặt theo hình vuôn mà di ngôn
cho thấy, đây là vị trí kê vạc Phổ Minh. Vạc Phổ Minh được coi là một trong An
Nam Tứ Đại Khí, cùng với tượng Phật chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều – Quảng
Ninh), tháp Báo Thiên (khuôn viên chùa Sùng Khánh - Hồ Gươm ngày nay),
chuông Quy Điền. Vạc Phổ Minh được nhà sư Minh Không và Đạo Hạnh cho đúc
bằng đồng vào thời vua Trần Nhân Tông tại chùa Phổ Minh. Vạc sâu 6 thước, rộng
10 thước, nặng trên 7 tấn. Tương truyền rằng vạc to tới mức có thể nấu được 1 con
bò mộng, trẻ con có thể nô đùa trên thành miệng vạc. Phía ngoài vạc có hình rồng
quấn xung quanh và hình chim Lạc đang bay để tượng trưng cho con Hồng, cháu

Lạc. Đầu rồng, đầu chim ngẩng lên hướng vào lòng vạc. Trên vành vạc khuyết 100
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
7

lỗ hình quả trứng. Trong mỗi lỗ đặt 1 tượng rồng vàng, để thu linh khí của 100
người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ và của Bách Việt. Trên bệ vạc có khắc tên
tất cả các vị vua của tộc Việt, cao nhất là King Dương Vương, Lạc Long Quân,
cho đến Lý Thánh Tông để các vị tiên đế cùng nhau phù hộ dân giàu, nước mạnh,
mưa thuận, gió hòa. Cho đến năm 1428, giặc Minh cho rằng sở dĩ Bình Định Vương
Lê Lợi thắng được chúng là nhờ đỉnh tháp Báo Thiên, tượng Phật chùa Quỳnh Lâm
và vạc Phổ Minh nên Vương Thông cho phá đi.
Tại khu sân chùa còn có 2 cây hương đá cao khoảng 1m60, tạo hình bát giác,
mỗi cạnh khắc hàng chữ tỏ ý kính trọng các đức Phật và chư vị Bồ Tát. Phía trong 2
cây hương, có 2 cột kinh đá, cũng tạc theo kiểu bát giác cao gần 4m. Phần giữa 2
cây hương còn có bát hương cổ bằng đá khá lớn, đục chạm mây tản, mặt nguyệt
công phu, nghệ thuật. Đặc biệt, ngay chân bát hương có cây đại cổ thụ tuyệt đẹp.
Dáng cây như cúi rạp vào tháp, thân cây sần sùi, nổi cộm thật sinh động khiến ngoại
cảnh có sức gợi cảm.
Tháp Phổ Minh: Trước chùa là tháp Phổ Minh cao 13 tầng (chưa kể đế tháp),
cao 21,2m bề thế và vững chắc, được xây dựng năm 1305. Đây là tháp mộ, có đặt 1
viên xá lị Điều ngự Giác hoàng đệ nhất cổ phái Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông.
Nhiều thế kỷ nay, tháp vẫn hiên ngang vươn cao, tạo điểm nhấn độc nhất vô nhị cho
cổ tự. (Ảnh minh hoạ 5, 6)
Mái của các tầng đều rất hẹp. Điều đáng chú ý là kiến trúc đã biết giải quyết
các tầng mái bằng cách xây gạch nhô dần ra thành nhiều lớp cấp nhỏ, uốn cong lên,
hoà vào cái thế vươn lên chung của toàn bộ kiến trúc. Càng lên cao, các tầng thu
hẹp dần và kết thúc bằng một chỏm hình bầu rượu có nhiều cạnh.
Cũng như chùa, tháp Phổ Minh quay mặt về hướng Nam, mặt bằng được bố cục
vuông, cạnh đáy của đế dài 5,21 m. Các tầng trên đều có cửa bốn phía, được trổ
theo lối cuốn tò vò. Riêng tầng dưới cao trội hẳn lên (2,2 m), cửa của nó người lớn

có thể vào thắp hương dễ dàng (cao 1,09 m, rộng 0,77 m). Toàn bộ tháp được xây
trên một hồ vuông, nông, nhỏ (rộng 8,6 m). Hồ có hành lang bao bọc, bốn phía cũng
có cửa và các thành bậc được chạm trổ rồng đá, sấu đá. Phần nền đế chân tháp gồm
nhiều tầng cấp thu dần vào và gần đến hết lại nhô ra. Chính ở cấp cuối cùng của
phần nền đế trước khi đi vào tầng tháp thứ nhất, nghệ sĩ xưa đã sử dụng mặt ngoài
của cấp này, dùng thủ pháp tạo ra một vành đai trang trí xen kẽ những cành hoa lá
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
8

đan chéo nhau và những hoa hình tròn, cánh hoa ngã vòng quanh, còn ở giữa có
cánh hoa cất lên và xoáy trôn ốc. Vành đai này là một bức diềm những nét khắc nhỏ
tuyệt đẹp, hai thứ hoa lặp đi lặp lại chạy vòng chung quanh tháp, khi ánh sáng chiếu
xiên vào, hiện lên như một vòng hoa màu xám dịu dàng và tế nhị.
Về chất liệu, tháp là một công trình hỗn hợp giữa gạch và đá. Bệ và tầng
dưới của tháp được xây bằng loại đá xanh mịn vừa đẹp vừa có sức nặng, làm tăng
độ bền cho móng nền. Các tầng trên đều được xây bằng gạch nung mỏng, nhẹ, rất
tiện lợi cho việc xây lắp. Kết cấu của tháp ở các tầng đá chủ yếu dựa vào các mộng
và keo vữa kết dính. ở các tầng trên, ngoài vữa còn có các dây đồng xâu móc qua
các viên gạch để làm tăng độ bền vững cho kiến trúc. Về cấu trúc của tháp, sách
“Đại Nam nhất thống chí” còn cho biết, ngày xưa người ta xây một cột đá bên cạnh
và lấy dây đồng để ràng lấy đỉnh tháp.
Trang trí trên tháp cũng rất ấn tượng. Bên cạnh các tượng đá hình cá sấu,
hình rồng được tạc ở các thành cửa vào hồ quanh tháp thì các nghệ sĩ đã chạm các
lớp cánh sen với nhiều hoa văn hoa dây uốn lượn quanh cửa tháp và trên các mặt
tường. Hàng loạt hoa lá được chạm khắc như vẽ trên đá là những hoa và lá mọc
trong ao, trong vườn Việt Nam, do vậy nó luôn gây ấn tượng mạnh mẽ trong tình
cảm của người Việt. Đó là hoa sen, hoa cúc, hoa mai .và những dây leo trên giàn
hay bờ giậu của nhiều gia đình đã đi vào ca dao, vào thơ văn của dân tộc.
Những hình trang trí trên đá vô cùng gần gũi với hội họa. Đó chính là những hình
ảnh được các nghệ sĩ tạo thành bởi thủ pháp rạch chìm những nét nông, mảnh, từng

nét cứ hiện ra dưới lưỡi đục sắc, khi thì nhịp nhàng chính xác, lúc lại vung vẩy
phóng khoáng. Hình khắc rạch trên phần đá của tháp Phổ Minh tạo ra các hoa văn
hoa lá, sóng nước, mây trời đơn giản, sáng sủa rất sinh động bao viền quanh thân
tháp và các cửa tháp. Sự vận dụng những đường cong khéo léo tạo cho tác phẩm có
chất tươi mát, cuồn cuộn và sinh động rất lạ thường.
Tầng tháp thứ nhất được bắt đầu bằng một vòng những cánh sen hai lớp, lớp
dưới cúp xuống, lớp trên ngửa lên nở xoè, tạo cảm giác cây tháp như mọc trên một
đoá hoa sen khổng lồ. Khác hẳn với cánh sen thời Lý thanh dài và bên trong thường
được trang trí đôi rồng rắn, những cánh sen ở đây đều mập mạp, có mũi cong xoắn
lại, nó vẫn hiện thực nhưng đã được nâng lên theo trí tưởng tượng của nghệ sĩ. Bên
trong cánh sen còn trang trí những móc câu, hoa và nhánh hoa dây móc nhau. Cùng
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
9

với các cánh sen ở bệ tháp, việc xây hồ quanh tháp phải chăng là do những người
xây dựng muốn tạo cho tác phẩm kiến trúc của mình thành một hình tượng búp sen
khổng lồ đang nổi trên mặt nước, một hình tượng mang ý nghĩa của nhà Phật (kiến
trúc mô phỏng hoa sen khác với kiến trúc chùa Một Cột).
Bốn cửa tháp ở tầng dưới đều có gờ nhô ra, trên mặt gờ rất nhẵn, được khắc rạch
những nét nhỏ hoa lá cách điệu. Đó là những vòng tròn ở chính tâm có bông hoa
nhỏ sáu cánh (đôi khi năm hoặc bảy cánh), rồi từ đó toả ngược ra hai nhánh lượn
thành đường xoắn ốc kép. Hai bên mỗi nhánh lại rậm rạp những lá nhỏ ken xít
nhau. Giữa các hoa lá ấy là những nhánh lá cùng loại, cũng xoắn lại, rất dày và hợp
thành hình giống như chữ “X”. Lại có những nhánh hoa to mập, uốn cong lưỡi liềm
rất duyên dáng, mà phần đài hoa vừa như mây cụm, vừa như thứ nấm gần gũi với
cỏ linh chi, cứ thế lặp đi lặp lại nhiều lần thành một dải dài. Khác với thời nhà Lý,
tháp có tính thực tế, tháp là để thờ Phật nên 4 mặt có Bát bộ kim cương canh giữ
nhưng dưới thời nhà Trần, tháp chỉ mang tính tượng trưng lại là tháp nhỏ nên không
có hình tượng Bát bộ kim cương.
Chân cột góc của tầng tháp dưới này được trang trí cũng bằng lối khắc rạch

hai bức diềm nhỏ chồng chéo lên nhau chạy song song. Bức diềm phía trên gồm
những bông hoa nhọn đầu, mập, uốn cong lưỡi liềm rất mềm mại, phía dưới có đài
và cuống hoa biến thành cụm mây cách điệu. Còn bức diềm phía dưới thì rõ ràng là
một dãy sóng nước cách điệu. Sóng nước ở đây có hai phần, phần dưới như một
dòng nhạc năm dòng kẻ song song lượn sóng đều đặn, phần trên là những ngọn
sóng đầu nhô cao gồm các đường cong nối nhau gẫy khúc. Điều đặc biệt là trong
mỗi ngọn sóng lại có một bông hoa nhỏ xinh xắn.
Kiểu hoa văn cuối cùng trang trí trên tháp dưới là mây trời được khắc thành
băng dài cuốn quanh phía trên tầng tháp này. Mây ở đây là những cụm nhỏ xoắn
xuýt, dày đặc nhưng dàn mỏng, có sự cách điệu và được chạm nổi.
Còn ở các tầng trên, trang trí chủ yếu trực tiếp vào các viên gạch. Cạnh ngoài của
mỗi viên đều có khắc hình rồng cuộn khúc vờn mây. Rồng là biểu tượng cội nguồn
dân tộc, một biểu tượng kỳ vĩ và đặc sắc của dân tộc và văn hoá Việt Nam (dân tộc
ta là con Rồng cháu Tiên). Tuy phải khắc rạch trước khi nung, song hình trang trí
rất mềm mại, chứng tỏ người xây dựng đã làm chủ kỹ thuật, có tay nghề khá vững
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
10

vàng. Với lối xây gạch để mộc có trang trí như vậy, toàn bộ kiến trúc cây tháp sẽ đỏ
rực, đẹp biết bao.
Đế tháp được xây bằng đá nhưng lại giả gỗ cho nên có những xà gỗ chạy
ngang. Ta có thể thấy để bị võng do đất bị lún hay do chủ ý của người xây dựng thì
còn đang là đề tài bàn tán. Tuy nhiên, thể theo lối kiến trúc này, khi xây lăng Hồ
Chủ Tịch, 3 tầng xếp lên trên đều võng và ở 4 đầu thì hơi nhô lên. Người ta tưởng
tượng như hình bông sen đang nở. Do vậy, đất lún là do tự nhiên hay do nhân tạo
thì cũng không còn được chú ý nhiều vì tháp vẫn đứng vững, không hề bị ảnh
hưởng. Đây cũng có thể là một nét kiến trúc đặc sắc của cha ông ta ngày xưa.
Tất cả những nét kiến trúc và nghệ thuật trên cho thấy đây là một công trình kiến
trúc có giá trị của dân tộc ta. Tuy không thuộc vào loại cao lớn, nhưng do bề ngang
hẹp, nên tháp Phổ Minh có dáng cao, thanh mảnh. Nó gợi cho khách đến vãn cảnh

chùa - nhất là những phật tử vốn giầu lòng sùng kính - một cảm giác siêu thoát linh
thiêng. Nhất là khi đứng dưới chân tháp nhìn ngược lên, các rìa mái cứ nối nhau
tầng tầng lớp lớp, lên mãi không trung dễ gây lên sự choáng ngợp trước cảnh Phật.
Tháp còn đẹp vì nó gắn với môi trường của cả ngôi chùa rộng lớn xung quanh.
Toàn bộ cây tháp in bóng xuống mặt ao phía trước, nó hoà vào trong độ cao chung
của các cây cổ thụ um tùm cạnh sân. Nhờ vậy, tuy là cảnh Phật mà vẫn ấm cúng,
gần gũi với con người trần tục. Ngày xưa, giữa cảnh lầu gác cung điện của phủ
Thiên Trường trù phú, với dáng cao thanh đẹp như vậy, chắc chắn tháp sẽ thu hút
được sự chú ý của mọi người.
Việc tồn tại của tháp ngót bảy trăm năm ở một xứ khí hậu nhiệt đới, chiến
tranh liên miên như nước ta, quả đã có giá trị vô bờ. Nó không chỉ là niềm tự hào
của nhân dân, mà còn là tài sản vô giá do tổ tiên ta đã tốn bao nhiêu công sức, trí
tuệ, tiền của để tạo dựng trong quá trình lịch sử của dân tộc.
Tháp vút lên trên nền trời xanh thẳm như thể hiện ý chí hiên ngang bất khuất
của hào khí dân tộc một thời - hào khí Đông A - đã từng đánh bại 3 lần xâm lược
của phương Bắc. Đồng thời qua đó cũng thấy được triều đình nhà Trần đã nối tiếp
các triều đại trước có ý thức xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập và tự chủ. Trong
quá trình đó, bên cạnh việc xây dựng nền chính trị tự cường, các vua Trần đang cố
gắng xây dựng một nền văn hoá - nghệ thuật riêng mang đậm bản sắc dân tộc.
Trong quần thể kiến trúc chùa Phổ Minh, tháp nằm ngay ở sân trước không còn
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
11

chiếm vị trí trung tâm như kiến trúc chùa tháp thời Lý. Vị trí kiến trúc của tháp như
một sự tiếp nối quá trình chuyển đổi từ chỗ tháp là trung tâm của chùa về đúng với
vai trò ban đầu và nguyên thuỷ của nó là mộ thờ Phật.
Đầu thế kỷ XX, có một nhà buôn nổi lòng từ thiện, bỏ tiền xin trùng tu tháp
đã dùng vôi vữa trát kín toàn bộ mặt ngoài lại. Kể cả quả hồ lô (chỏm tháp) vốn
bằng đồng cũng đã bị lấy cắp mất từ bao giờ. Trải qua bao đời, tuy có được trùng tu
sửa chữa nhiều lần, nhưng nhìn chung, tháp vẫn giữ được cốt cách, hình dáng xưa.

Chùa Phổ Minh thiết kế theo kiểu nội chữ Công, ngoại chữ Quốc – Đây là lối
kiến trúc chùa rộng rãi, tiêu biểu và phổ biến nhất. Kiến trúc này chia chùa thành 2
phần, đăng đối qua 1 trục tưởng tượng. Tiền đường gồm 9 gian, có 2 dãy hành lang,
mỗi dãy 12 gian. Phía sau là các hạng mục như hậu điện, nhà tổ, phủ, mẫu, Phía
trước có 2 cổng nách, phía sau có 2 cổng hậu ra vào sân sau, khiến chùa vừa hoành
tráng vừa kín đáo, ngăn nắp.
Khu chùa chính gồm 3 tòa nhà làm theo kiểu chữ Công: tiền đường 9 gian,
tam bảo 3 gian, thượng điện 3 gian. Tiền đường chùa Phổ Minh có khá nhiều gian,
tuy mái phẳng bít đốc mà vẫn có độ cong cong vươn lên về 2 phía, có bảng giữa nóc
chùa đắp 3 chữ “Phổ Minh Tự”. Bờ dải, trụ hoa biểu đầu hồi được chú ý đắp vẽ
triện tàu, lá lật, gờ chỉ khá công phu.
Đặc biệt, ở thềm tam cấp từ sân lên chùa tạo 5 cửa lên xuống. Cửa giữa có
đôi rồng dài 2m từ trên nhao xuống. Cặp rồng này bị ghè vỡ đầu, năm 1994 làm
mới 2 đầu rồng gắn vào. Các gian bên có 4 con rồng nhỏ, dài 1,3m từ trên nhau
xuống. Tất cả những con rồng đá ở trước gian bái đường hay quanh tháp Phổ Minh,
tuy bị sứt mẻ nhưng đều là rồng được tạc từ thời nhà Trần. Ta có thế nhận thấy rõ
hình tượng con rồng thời Trần không giống như rồng thời Lý, không giống về mặt
cảm xúc. Rồng thời nhà Trần thân mập mạp hơn và uốn lượn nhỏ dần về phía đuôi,
nuột nà, có tính hiện thực hơn và thể hiện “tính xác thịt” của con vật. Nhìn vào hình
tượng rồng, ta có thể khẳng định rằng nó được tạc sau kháng chiến chống Nguyên –
Mông vì ở đây có sự giao lưu văn hóa giữa phương Bắc: rồng có thêm cặp sừng,
mũi và bên dưới là tai của rồng. Người ta cho rằng rồng là con vật có thật. (Ảnh
minh hoạ 7)
Một tác phẩm nghệ thuật còn lưu giữ được từ thời nhà Trần là 4 cánh cửa
chùa vào gian bái đường. Bản gốc hiện nay đang được trưng bày tại Bảo tàng Cổ
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
12

vật tại Nam Định. Bản ở chùa Phổ Minh là bản đục lại nhưng tương đối đẹp và
chính xác. Trên mỗi bên cánh cửa là hình tượng con rồng chạm trổ rất đẹp, các khúc

uốn lượn tinh tế, nhỏ dần về phía đuôi, đều đặn, mang tính chất Lý. Tính chất nhà
Lý còn được thể hiện rõ nét hơn là con rồng ở đây không có sừng và không có tai.
Tuy nhiên, đây là một công trình lớn có tính nhà nước nên phải làm theo kiến trúc
chính thống. Rồng là hình ảnh tượng trưng cho nhà vua nhưng ở Việt Nam, tại đình,
chùa người ta cũng dùng hình ảnh con rồng, đơn chiếc hoặc từng con uốn lượn, đan
xen để thể hiện tình làng nghĩa xóm của người Việt ta. Hình ảnh rồng ở đây được
chạm theo lối chạm trinh hay chạm nổi, khi ảnh sáng chiếu vào sẽ làm tôn hình ảnh
được chạm. Cánh cửa được sơn đen đều đặn, tạo ấn tượng vững chắc, khỏe mạnh.
Một nét đặc sắc nữa của đôi cánh cửa này là khi khép lại tạo thành hình lá
cây bồ đề, có người cho rằng đó là hai hình nửa giọt nước. Lá đề là biểu tượng cho
đức Phật. Hệ thống cửa khá hài hòa với hàng rồng đá ở bậc thềm và làm duyên cho
khu bảo tháp ở ngày trước chùa. (Ảnh minh hoạ 8)
Nhà bái đường (tiền đường) làm theo lối chồng giường, bẩy kẻ, 4 hàng cột
gỗ lim chắc nịch đặt trên chân tảng hoa sen. Hai hồi để cửa nách ra vào, mặc sau
liên đới với tòa tam bảo nên có sự giao mái bắt vần, tạo bộ mái phẳng phiu vừa phải
độ dốc, lại tránh được thấm nước, nhà bị dột. Hệ thống cột, giường, bẩy, kẻ, tuy
không có sự gia công đục chạm họa tiết nhưng cũng như hệ thống xà làm kiểu ống
tơ, tạo mạng, mộng khá tài tình nên từ bẩy, kẻ đến xà lòng, xà nách câu vào tứ trụ
đều rất bén, khít khó tìm ra khuyết điểm. Do vậy bộ khung tuy mộc mạc mà vẫn có
vẻ thanh thoát trong sự chắc nịch của kiến trúc cổ dân tộc.
Tại gian giữa tiền đường có bức cửa võng chạm họa tiết, sơn thếp lộng lẫy
làm cho gian chính điện thêm trang nghiêm, đồng thời làm đẹp cho cửa tam bảo.
Phía trong tiền đường có toàn tam bảo. Công trình này giao mái với tiền
đường, cũng được thiết kế theo lối chồng giường, tứ trụ, cột trong đứng trên chân
tảng hoa sen nên hai công trình có sự gắn bó, liên kết với nhau. Tòa tam bảo này bài
trí rất nhiều tượng Phật, theo nhiều cấp khác nhau từ cao xuống thấp nên quy cách
tam bảo mới đáp ứng được 7 cấp theo độ dốc, để khách hành hương có thế ngước
nhiền lên đủ thấy hết chư vị Phật cũng như Bồ Tát.
Sau Tam bảo là Thượng điện. Công trình này cao hẳng lên bởi nền cũng
được tôn cao. Do nhà to, cao nên cột cũng phải to, đường kính cột lên đến 50cm,

Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
13

các cấu kiện xà, bẩy, con giường cũng theo tỷ lệ đó mà nhích lên cho phù hợp về
kiểu dáng, cũng như về độ bền vững. Nguyên vật liệu kết cấu bộ khung cũng phải
to, khỏa để đỡ dải nờ nóc có lưỡng long chầu nguyệt, bờ dải có triện tàu, bờ bảng
trang trí bề thế và nặng nề.
Phía sau Thượng điện là hậu điện. Công trình này gồm 2 tòa mỗi tòa 5 gian
và một chuôi vồ phía sau. Kết cấu công trình theo lối tiền chữ nhất, hậu chữ đinh.
Tòan đệ nhị làm kiểu mê cốn, cửa ô, ngạch ngưỡng. Lại có hai bức thuận đông, tây
để cửa vào 2 gian bên. Đây cũng là bức thuận của nhà cổ mà chùa tháp còn tồn tại.
Hai toà nhà phía đông liền với hậu điện thờ Tổ, đồng thời thờ các vị hậu Phật
có công xây dựng chùa. Hai tòa này gồm 6 gian thiết kế lối trụ, câu đầu, bẩy tiền
theo lối cổ nhưng chủ yếu bào trơn đóng bén, không đầu tư điêu khắc ở sà, bẩy.
Hai tòa thờ mẫu phía tây hậu điện cũng thiết kế như nhà Tổ, mộc mạc và
chắc chắn. Cả ba công trình hậu điện, nhà Tổ, nhà thờ mẫu hệ thống cột cái, cột
quân đều được đặt trên các chân tảng cánh sen. Có nhiều chân tảng đục, chạm từ lâu
đời, là nguyên tác thời Trần để lại.
Qua cổng hậu phía trong sẽ ra khu sân sau nơi vườn tháp và ao.
Hai dãy hành lang đông – tây có tới 24 gian, làm theo phong cách cổ truyền
khá bề thế, chắc chắn, góp phần tạo cho tổng thể các hạng mục đồng bộ, hài hòa.
Một bên hành làng dùng để tiếp khách, thư phòng. Một bên là các tăng phòng
(phòng dành cho sư ở trong chùa). Còn có các bia thờ hậu, thờ những người có công
đóng góp để xây dựng và tu sửa chùa.
Trải qua hàng ngàn năm xây dựng, tái tạo, sửa chữa mà chùa Phổ Minh vẫn
còn lưu lại được nhiều di sản của công trình cũ từ thời xa xưa. Điều này nói lên sự
trân trọng quá khứ, ý thức hồi cổ của các nhà hưng công tu tạo, trình độ hiểu biết
của các chủ công trình
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
14



PHẦN 3 : GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT

1. Nội dung lí lịch các pho tượng thờ chủ yếu
Chùa Phổ Minh thể hiện rất rõ dấu ấn tam giáo đồng tôn nên trong chùa
không chỉ có 1 hệ thống tượng Phật.
Tại tòa Tiền đường, ở gian chính giữa đước bố trí ban thờ. Trên ban thờ có
bát hương thờ chung thế giới Phật mà dân gian thường gọi là bát hương công đồng.
Hai bên của ban công đồng có 2 pho tượng lớn. Đây là hình tượng Hộ pháp, một
ông là Trừng Ác và một ông là Khuyển Thiện có nhiệm vụ bảo vệ pháp báu của nhà
Phật. Phía bên phải tượng Hộ pháp Trừng Ác là ban thờ Sư Tổ Đạt Ma – người đầu
tiên truyền bá đạo Phật vào Việt Nam (Luy Lâu – nay là Thuận Thành, Bắc Ninh).
Trên ban có tượng Sư Tổ và tượng người hầu. Bên cạnh ban thờ tổ Đạt Ma là ban
thờ Đức Ông là người cai quản trông nom Phật đường.
Phần nửa tòa tiền đường ở phía đông, bên trái tượng Hộ pháp Khuyến Thiện
là có tượng Thổ Địa, cai quản khu vực đất đai xây dựng chùa. Bên trái tượng Thổ
Địa có bạn thờ Đức Thánh Hiền. Thực ra đó chính là Atnanđà (có nghĩa là hoan hỉ).
Người là đệ tử tin cậy, thường được hầu cận bên cạnh Phật.
Như vậy, tòa Tiền đường thờ Hộ Pháp, sư tổ Đạt Ma, Thổ Địa, Đức Ông và
Đức Thánh Hiền là nhưng vị có công đưa đạo Phật vào Việt Nam, bảo vệ Phật pháp
cũng như bố thí chúng sinh, cai quản lịnh địa giữ cho cửa thiền đc trang nghiêm.
Tòa tam bảo được bài trí theo hàng ngang và từ cao xuống thấp, từ trong ra
ngoài. Nghĩa là các vị tối thượng được xếp ở bệ cao nhất, trong cùng nhất. Do vậy,
tam bảo có 6 hàng tượng đặt trên bệ như sau :
Cấp cao nhất có pho tượng Phật Adiđà đứng trên tòa sen cao 1,6m, một tay
chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất. Tượng đứng trên tòa sen bên trái tượng Phật
Adiđà là Quan Thế Âm Bồ Tát, tiêu biểu cho sự từ bi và trí tuệ. Bên tay phải tượng
Đức Phật là Bồ Tát Đại Thế Chí có trí tuệ soi khắp 10 phương.
Cấp thứ hai chính giữa là tượng Phật Thích Ca, còn hai bên là Bồ Tát Phổ

Hiền cưỡi ‘bạch tượng’ và Bồ Tát Văn Thù cưỡi ‘thanh sư’.
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
15

Cấp thứ ba là tượng Di Lặc, bên phải là tượng Quan Âm Tọa Sơn và bên trái
là tượng Quan Âm Thị Kính.
Cấp thứ tư gồm 3 pho tượng. Chính giữa là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát
nhiều tay, nhiều mắt. Hai bên tả hữu là Phạm Thiên và Đế Thích.
Cấp thứ năm có tượng Ngọc Hoàng, đội mũ bình thiên ngồi chính giữa. Hai
bên là tượng Nam Tào – Bắc Đẩu.
Cấp thứ sáu, chính giữa là tòa Cửa Long, hai bên có tượng Bồ Tát Mục Liên
và tượng Thánh Tăng, cùng hai ngọc nữ tay nâng hoa hầu chầu đức Phật.
Phía sau tam bảo là tòa Thượng điện. Tòa này có ban thờ Trúc Lâm tam tổ
và ở cấp trong cùng cao nhất còn có tượng Thích Ca to lớn ngồi trên tòa sen. Hai
bên có tượng Ananđà và Maha Cadiếp.
Sau Thượng điện có hệ thống Hậu điện, nhà tổ và phủ mẫu. Đây là những
công trình xây dựng ở cốt đất thấp hơn khu chùa chính. Nhưng quy mô các tòa,
cùng với bài trí thờ tự cũng khá nghiêm túc, hài hòa với nội dung chung của một
ngôi chùa truyền thống.
Hậu điện gồm 3 tòa, làm theo kiểu tiền nhất, hậu đinh gồm 10 gian lớn nhỏ.
Ban thờ trong cùng, còn gọi là hậu cung thờ Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu (thân mẫu
Đệ nhất tổ Trúc Lâm). Phía ngoài thờ công chùa Mạc Ngọc Lâm. Hai gian bên thờ
Khâm Từ hoàng hậu và Điện Súy phu nhân. Các vị này đều cso dòng dõi cành vàng
lá ngọc.
Phía tây Hậu điện là phủ mẫu. Gian ngoài có ngũ vị
Phía Đông Hậu điện là nhà tổ. Đâu là nơi thờ các vị sư trụ trì tại chùa, đồng
thời thờ những người có công đóng góp tu sửa chùa, được dân làng bầu là Hậu Phật
và được cúng giỗ hàng năm.

Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội

16

2. Hình thức thể hiện các pho tượng thờ kể trên
Tượng Hộ Pháp: (Ảnh minh hoạ 9) Tượng Hộ Pháp mặc giáp trụ, cân đai oai
phong ngồi trên lưng sư tử rất đường bệ nhưng sắc thái hai vị khác nhau. Tượng
mặc như những vị võ tướng, thân hình vạm vỡ khoẻ mạnh – lối thể hiện này chủ
yếu có vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên trên thân mình ông Hộ
Pháp có hình tượng con rồng đang quấn. Nếu ta để ý kỹ thì đuôi rồng nhỏ dần, cho
thấy pho tượng không thể tạc vào thế kỷ XVIII mà phải từ thế kỷ XIX trở về sau.
Ông Khuyến Thiện (Thiện Hữu) bao giờ cũng được coi trọng hơn ông Trừng Ác.
Tượng ông Khuyến Thiện có khuôn mặt hiền từ, khuôn mặt trắng hồng, tay cầm
viên ngọc hoặc báu vật luôn tỏ ý khuyên răn làm điều đúng đắn. Trong khi đó,
tượng ông Trừng Ác mặt dữ tợn, đỏ au, tay cầm vũ khí, có động tác mạnh như
muốn bổ xuống đầu người khác. Hai pho tượng Hộ Pháp cao khoảng 3,2m, là tượng
được đắp bằng đất từ thời Hậu Lê to thể hiện ước mơ, nguyện vọng bảo vệ tôn giáo
mà họ đang tôn thờ. Hai pho tượng này tuy không đẹp bằng ở chùa Bút Tháp và
Tây Phương nhưng cũng thể hiện được cái thần qua dáng ngồi, đôi mắt, tà áo tung
bay Sang đến thời Nguyễn tiếp tục sửa sang, quang diện lộng lẫy cầu kỳ, khiếp
chùa thêm phần đẹp đẽ nghiêm trang.
Tượng Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma: (Ảnh minh hoạ 10) Tượng được tạc bằng gỗ, to
bằng người thật, tóc xoăn đen, râu quai nón, quang diện màu hơi hồng (có nơi màu
đen, thể hiện cho người Ấn Độ), cốt cách hàm chứa vẻ từ bi của đạo thiền.
Tượng Đức Ông: to hơn người thật, được coi như là một vị thần. Vị thần này
coi sóc phần tinh khí của đất chùa, trực tiếp bảo vệ tài sản của chùa Phật. Đức Ông
là người có công mua đất của thái tử Vi Đà để cúng dường cho Đức Phật làm nơi
thuyết pháo nên ông được giao nhiệm vụ coi giữ cảnh chùa.
Tượng Thổ Địa: (Ảnh minh hoạ 12) Tượng được đặt ngồi trên bục gỗ cao
1,4m. Khuôn mặt từng trải, râu tóc bạc phơ. Việc thờ Thổ Địa là do chịu ảnh hưởng
của tín ngưỡng dân gian. Vị thần này trực tiếp trông nom đất đai trong khuôn viên
chùa. Dân gian coi như thần bản xứ, giúp đỡ tạo điều kiện đối với thiền tự Phổ

Minh.
Tượng Đức Thánh Hiền: (Ảnh minh hoạ 11) Hình dáng như một vị cao tăng.
Ông là đại diện cho hàng tăng chúng, có nhiệm vụ truyền kinh pháp, giúp đỡ cho
hàng chúng sinh. Tượng tạc Đức Thánh Hiền đang làm thủ ấn Giáo hóa, thể hiện
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
17

tình trạng giải ngộ cao và hoàn hảo, như đang truyền thụ Phật pháp. Hai bên là hai
pho tượng Diệm Nhiên và Đại Sĩ – hai vị này tượng trưng cho hàng quỷ đói nghe
thuyết pháp để thí thực.
Tòa Cửu Long: được kiến tạo như một vòm trời, có chín con rồng uốn lượn
tạo thành một động nhỏ cao chừng 1m. Chín con rồng ở chín tư thế khác nhau vừa
kết cấu thành động, vừa tạo thành điểm để các pho tượng nhỏ là các chư vị Phật
đứng hoặc ngồi phía trong, cũng như phía ngoài của tòa Cửu Long, làm tôn lên vị
thế pho tượng nhỏ Thích Ca sơ sinh. Tượng Thích Ca sơ sinh được tạc là một cậu
bé cởi trần, mặc váy ngắn (biểu tượng cho tã lót của trẻ sơ sinh) đứng trên bông sen,
ánh hào quang toả sáng khắp thân, tay phải chỉ xuống đất, tay trái giơ 2 ngón chỉ lên
trời như khẳng định vị thế của Phật: ‘Thượng thiên địa hạ, duy ngã độc tôn’. Truyền
thuyết kể lại rằng, khi ông vừa sinh ra thì đi được 7 bước, mỗi bước đi lại nở ra một
bông sen. Vì vậy đây là bức tượng duy nhất chưa thành Phật mà đã được đứng trên
toà sen. Trên vầng hào quang là rất nhiều các chư Phật đến chúc mừng sự ra đời của
Thích Ca như : các vị Phật của đạo Hindu Giáo (Phạm Thiên, Đế Thích), Phật
Thích Ca, Di Lặc Bên trái tòa Cửu Long có tượng Bồ Tát ngồi trên tòa sen, truyền
thuyết đây là đệ tử của đức Phật có tên là Mục Liên. Bên phải tòa Cửu Long là
tượng Thánh Tăng ngồi trên bục, đại diện cho giới tu hành phụng sự đạo Phật. Phía
ngoài tòa Cửu Long có hai pho ngọc nữ, y phục trang nghiêm, phong cách chững
chạc đang nâng hoa chầu hầu. Có nơi gọi hai pho tượng này là đôi Kim Đồng –
Ngọc Nữ. (Ảnh minh hoạ 13)
Tượng Ngọc Hoàng: được đặt ngồi trên ngai vàng, cầm cái đốt – tiêu biểu
cho quyền uy, đội mũ bình thiên.

Tượng Nam Tào, Bắc Đẩu: tay cầm bút, tay cầm sổ như để ghi chép sinh, tử
của cõi trần . Dân gian tin việc sống chết là do số Trời định đoạt. Do vậy thờ Ngọc
Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu nhằm để cầu mong được che chở, sống lâu.
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều tay, nhiều mắt (24 tay): Trong số 12 cặp
tay của bà, hoặc chắp trước ngực, hoặc để ở thế thiền định và nhiều tư thế giơ cao
như hòa đồng vũ điệu một cách sinh động. Quan Âm là dưới đức Phật một bậc, là
một vị bồ tát đã đắc đạo nhưng chịu lời nguyền không lên cõi niết bàn mà ở lại trần
gian để phổ độ chúng sinh nên tượng của bà được đặt ngồi trên tòa sen. Đây là vị bồ
tát biểu hiện cho tính Phật tiêu biểu nhất, có nhiều biến hóa, nhiều tay, nhiều mắt để
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
18

vươn được tới những nơi xa xôi và nhìn thấy hết được nỗi thống khổ của các Phật
tử. (Ảnh minh hoạ 14)
Tượng Phạm Thiên – Đế Thích: được tạc giống nhau, nằm ở hai bên tả hữu
Quan Thế Âm Bồ Tát. Đây là 2 vị Phật của đạo Bà La Môn nhưng tôn kính đạo
Phật nên tự nhận mình là những vị Phật. Khi Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới gốc cây
bồ đề ngộ đạo, các vị có xuống chúc mừng, đồng thời hỗ trợ Thích Ca thắng bọn ma
vương, giảng giải giáo lý nhà Phật. Đây cũng là một cách để tuyên truyền Phật
Giáo.
Tượng Di Lặc: Di Lặc cũng là vị thần như các vị khác, vượt qua ngoài kiếp
luân hồi. Đây là vị Phật mới đc bổ sung trong các tu viện ở Trung Quốc vào thế kỷ
thứ X. Di Lặc là hình ảnh Phật ở thế vị lai. Để làm cho phái Đại Thừa đông đúc
thêm các Phật tử, người ta đã đưa ra quan niệm, nếu tu hành đắc đạo thì sẽ đến được
nước Di Lặc (Quốc đạo). Vì vậy tượng Di Lặc được tạc với thân hình béo tốt, bụng
to, nét mặt hoan hỉ, hiền từ, miệng cười cởi mở.
Tượng Quan Âm Tọa Sơn: Bệ tượng thể hiện hình núi. Thường được thờ ở
vùng trung du và miền núi. Dáng vẻ hiền lành, chững chạc. Một tay đặt trên đầu
gối, một tay giữ hạt ngọc
Tượng Quan Âm Thị Kính: Duy nhất ở Việt Nam mới có tượng thờ này. Đôi

khi tượng Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Tọa Sơn thay thế cho nhau. Vị Bồ Tát
này thường bế một đứa con. Nhưng vì tượng lâu ngày bị hỏng nên đã mất con chim
vẹt, mất cả hài nhi trên tay bà Thị Kính. Khi sửa chữa không phục chế theo nguyên
bản nên 2 vị Quan Âm (Tọa Sơn và Thị Kính) có nhiều nét tương đồng.
Tượng Thích Ca: tóc bụt ốc, dáng ngồi và thế tay đều theo thế thiền định.
Lòng bàn tau trái đỡ lưng bàn tay phải. Xung quanh là vòng bạch hào quang chạy
ngược chiều kim đồng hồ toả sáng. Tượng Phật khoác trên mình chiếc áo cà sa
xoàng xĩnh, thể hiện con người đó đang trong quá trình giải thoát.
Tượng Văn Thù Bồ Tát: ngồi bên phải Phật Thích Ca, cưỡi trên con sư tử
màu xanh - loại thú đứng đầu núi rừng, chứng tỏ uy linh rất lớn, tay nắm thanh
gươm. Đây là vị Bồ Tát có đức độ cao siêu, có đại trí nên còn thường được gọi là
Diệu Thủ Bồ Tát. Sau khi Thích Ca lên cõi niết bàn, Văn Thù Bồ Tát và Ấtnanđà đã
làm ra bộ kinh Hoa Nghiên. Tất cả các vị tổ trong Phật Giáo được Văn Thù Bồ Tát
dẫn dắt để đạt tới giác ngộ.
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
19

Tượng Phổ Hiền Bồ Tát: ngồi ở bên trái Phật Thích Ca, đội mũ Phật, tay
phải cầm bông hoa sen, tay trái cầm lưỡi kiếm. Vị Bồ Tát này cưỡi trên lưng con
voi trắng, thể hiện cho sự thuần khiết và uyên bác của chân lý. Đây là vị Đại Bồ Tát
tiêu biểu cho ‘đại hạnh’. Văn Thù Bồ Tát cũng như Phổ Hiền Bồ Tát đều đã vượt
qua vòng luân hồi sinh tử
Tượng Đại Thế Chí: tay cầm quyển sách. Ông là người giúp cho Phật Adiđà
về tư tưởng.
Tượng Quan Âm Bồ Tát: là người giúp Phật thực thi Phật pháp. Ở phái Đại
Thừa thường coi trọng vị Bồ Tát này, cho rằng Người rất từ bi, hỉ xả nên thường lễ
vị Bồ Tát này hơn Đại Thế Chí
Tượng Đệ nhất tổ, Giác hoàng Trần Nhân Tông: thờ chính giữa gian thượng
điện. Tượng được tạc theo thế nằm nghiêng, tay trái chống đầu, tay phải đặt lên đùi,
chân co, chân duỗi, khuôn mặt bình thản, phúc hậu trong tư thế nhìn nghiêng. Từ

xưa nhân dân đã coi Trần Nhân Tông như đức Phật, do vậy hình tượng Người được
tạc theo thế Phật đang nhập cõi niết bàn ung dung, tự tại - thể hiện mức cao nhất
của việc tu hành. Hai bên ban thờ có hình tượng chim hạc đứng trên lưng rùa. Hình
tượng này bình thường không có trong chùa Phật nhưng đây là ban thờ thần thánh
nên có hình tượng này. Chim hạc thể hiện sự thanh cao, quyền quý. Rùa thể hiện
cho sự trường thọ. (Ảnh minh hoạ 16)
Tượng Đệ nhị tổ Pháp Loa: đặt bên trái tượng nằm Trần Nhân Tông.
Tượng Đệ tam tổ Huyền Quang: đặt bên phải tượng Trần Nhân Tông
Vì chùa Phồ Minh là chùa của hoàng tộc nhà Trần, được đặt trên quê hương
của dòng họ nhà Trần nên có tượng thờ Trần Nhân Tông. Hai vị Pháp Loa và
Huyền Quang là những người đã giúp ông sáng lập và truyền bá phái Trúc Lâm
Tam Tổ nên cũng được đưa về đây thờ cúng.
Tượng Thích Ca: đặt ở cấp trong cùng cao nhất của gian thượng điện. Tượng
được đặt trên toà sen, bàn tay trái để ngửa trên đầu gối như giữ ấn, bàn tay phải giơ
hay ngón tay kiểu đang thuyết pháp khiến Phật thời quá khứ tĩnh mà lại động, tự tại
mà như hoá thân khắp vùng miền tế độ lương dân.
Tượng vị tổ thứ nhất Maha Cadiếp: được đặt ở hai bên tượng Thích Ca là hai
vị tổ. Maha Cadiếp là vị tổ thứ nhất, họ trò của Thích Ca Mầu Ni, theo Thích Ca từ
lâu, là con của một người lao động nhưng rất thông minh. Ông có công ghi chép lại
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
20

bộ ‘Kinh Phật nguyên thuỷ’ khi Thích Ca đi truyền đạo. Tượng ông có thêm râu thể
hiện là người già dặn, từng trái, dáng khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Dáng đứng trụ vào
một chân, chân trước, chân sau. Tượng ông còn có hình tượng khoát tay.
Tượng vị tổ thứ hai Átnanđà: ông là cháu của Thích Ca Mầu Ni. Dáng vẻ
hân hoan, thoả mãn đầy khoái lạc, nét mặt tươi cười hỉ hả. Khi ông kế nghiệp Maha
Cadiếp thì bộ kinh Phật đã được biên soạn sau. Do vậy nên các nghệ nhân thường
thể hiện một vị tổ trẻ tuổi, mặt mũi nhẵn nhụi, tỏ vẻ thoả mãn sung sướng.
Tượng Ngũ vị Tôn Quan: Được đặt trước ban thờ Tam toà Thánh Mẫu. Mỗi

vị mặt một màu áo khác nhau thể hiện cho 5 yếu tố cơ bản xây dựng lên vũ trụ.
(Ảnh minh hoạ 17)
Tượng Tam toà Thánh Mẫu: Ba pho tượng này hình dáng hoàn toàn giống
nhau. Tuy nhiên ta có thể phân biệt dựa trên màu sắc của phụ trang (hoa tai, ve áo)
với ba màu : trắng – xanh - đỏ. Hai bên ban thờ là tượng hai thị giả - là những người
trong làng lên chùa hầu Phật. Hai bên cạnh là các ban thờ Hậu và cả ban thờ Bác
Hồ. (Ảnh minh hoạ 18)
Tượng công chúa Mạc Ngọc Lâm: hình tượng công chúa được tạc trên bia đá
theo dạng phù điêu. Công chúa ngồi trên bệ sen, nghiêm trang, tay lần tràng hạt.
Đây là bức phù điêu đc tạc vào thế kỷ 16 thể hiện nghệ thuật chạm trổ thời kỳ đó đã
ở mức điêu luyện. Hai bên cũng là tượng hai thị giả. Bên cạnh có ban thờ Đệ Nhất
Vương Cô và Đệ Nhị Vương Cô. Công Chúa Mạc Ngọc Lâm còn có phần mộ được
lưu giữ ngày ở sau hậu điện. Mộ Công chúa làm kiểu Long đình bằng đất nung, 2
mộ nhỏ 2 bên để móng chân, móng tay và tóc của Công Chúa. (Ảnh minh hoạ 19)

Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
21



Sân chùa

Tháp Phổ Minh
Nhà bia

Nhà bia

Hồ
sen
Hồ

sen
Tam Quan
Vườn
cây
Vườn
cây
Bàn th


3. Sơ đồ các pho tượng thờ và chú thích


1. Đ
ức Ông

14. B
ắc Đẩu

27. Tr
ần Nhân Tông

2. Sư T
ổ Đạt Ma

15. Ph
ạm Thi
ên

28. Pháp Loa


3. Đức Hộ Pháp 16. Phật Bà Quan Âm 29. Huyền Quang
4. Đức Hộ Pháp 17. Đế Thích 30 Thích Ca
5. Thổ Địa 18. Quan Âm Toạ Sơn 31. Maha Cadiếp
6. Thánh Tăng 19. Phật Di Lặc 32. Átnanđà
7. Kim Đồng 20. Quan Âm Thị Kính 33. Bà Hậu Mắm
8. Ngọc Nữ 21. Văn Thù Bồ Tát 34. Tam Toà Thánh Mẫu
9. Mục Liên 22. Phật Thích Ca 35. Các tượng khác
10. Đ
ịa Tạng

23. Ph
ổ Hiền Bồ Tát

36. Đ
ệ Nhất V
ương Cô

11. C
ửu Long

24. Ph
ật

Adiđà

37.
Công

Chúa M
ạc


12. Nam Tào

25. Quan Âm B
ồ Tát

38. Đ
ệ Nhị V
ương Cô

13. Ngọc Hoàng 26. Đại Thế Chí 39. Linh Từ Quốc Mẫu
Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
22


PHẦN 4: THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Sách tham khảo
1. Hà Văn Tấn – ‘Chùa Việt Nam’
NXB Khoa học xã hội (năm 1992)
2. Hồ Đức Thọ (Nghiên cứu – biên soạn) – ‘Chùa Phổ Minh với Giác Hoàng Trần
Nhân Tông’
NXB Văn Hoá – Thông Tin (Quý I năm 2008)
 Bản photo trang Web (đính kèm)
 Bản vẽ mặt bằng di tích (đính kèm)







Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
23

 Phụ lục ảnh


















Ảnh 1: Cổng Tam quan






















Ảnh 2: Hồ Sen

Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
24








Ảnh 4: Mái thẳng, bít đốc




Ảnh 3: Nhà bia


Bài Thu hoạch điền dã Tín ngưỡng – Tôn giáo – Phong tục – Lễ hội
25























Ảnh 5 : Tháp Phổ Minh













Ảnh 6 : Đế tháp Phổ Minh



×