Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

ảnh hưởng của độ mặn lên tiêu hóa và sử dụng thức ăn của tôm sú (penaeus monodon)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.03 KB, 40 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN








VÕ THÀNH RÔ







ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN LÊN TIÊU HÓA VÀ SỬ
DỤNG THỨC ĂN CỦA TÔM SÚ (Penaeus monodon)







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN








2009

2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







VÕ THÀNH RÔ






ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ MẶN LÊN TIÊU HÓA VÀ SỬ

DỤNG THỨC ĂN CỦA TÔM SÚ (Penaeus monodon)






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN







CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGs. Ts. NGUYỄN THANH PHƯƠNG

2009

3


LỜI CẢM TẠ

Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Thanh Phương và cô Đỗ Thị
Thanh Hương đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả thầy cô trong khoa Thủy Sản đã dạy bảo, hướng

dẫn em trong suốt quá trình học tập chuyên ngành ở giảng đường đại học.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến chị Đoàn Xuân Diệp đã tận tình hỗ trợ,
hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt những kinh nghiệm quý báu trong suốt quá
trình thực hiện đề tài cũng như hoàn thành luận văn tốt nghiệp đại học này.
Cảm ơn các bạn cùng lớp Nuôi Trồng Thủy Sản K31 và các bạn cùng làm đề
tài tại bộ môn dinh dưỡng và chế biến thủy sản đã động viên và có nhiều hỗ
trợ trong thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến gia đình, những người
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cả về vật chất lẫn tinh thần để tôi được như
ngày nay.














4


TÓM TẮT

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 7 – tháng 12 năm 2008 tại Khoa

Thủy Sản - Trường Đại học Cần Thơ, nhằm tìm hiểu sự thay đổi về tiêu hóa
của tôm sú (Penaeus monodon) kích cỡ 10±2 g trong môi trường độ mặn khác
nhau. Thí nghiệm theo dõi ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu
hóa thức ăn của tôm sú (thí nghiệm 1) được tiến hành trên bể nhựa tròn, thể
tích 1m
3
, gồm 4 nghiệm thức: (1) Độ mặn thấp nhất mà tôm còn khả năng điều
hòa áp suất thẩm thấu để duy trì sự sống (3‰), (2) Độ mặn cao nhất mà áp
suất thẩm thấu của tôm lớn hơn so với áp suất thẩm thấu của môi trường
(15‰), (3) Độ mặn mà áp suất thẩm thấu của tôm tương đương với áp suất
thẩm thấu của môi trường (25‰) và (4) Độ mặn thấp nhất mà áp suất thẩm
thấu của tôm nhỏ hơn so với áp suất thẩm thấu của môi trường (35‰). Ở thí
nghiệm này, dạ dày tôm được thu sau khi cho tôm ăn với nhịp thu 20, 40 phút,
1, 2, 3, 4 và 5 giờ, mỗi nhịp thu 10 dạ dày tôm ở mỗi nghiệm thức để xác định
thời gian tôm sử dụng thức ăn và thời gian tôm tiêu hóa hết thức ăn trong dạ
dày. Thí nghiệm theo dõi ảnh hưởng của độ mặn lên độ tiêu hóa thức ăn, tiêu
hóa đạm và năng lượng của tôm sú (thí nghiệm 2) được thực hiện trên bể
composite hình chữ nhật 0,5m
3
, được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên,
gồm 4 nghiệm thức (giống thí nghiệm 1) và mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lẩn.
Việc xác định độ tiêu hóa của tôm thông qua việc sử dụng chất đánh dấu
Cromic Oxide (Cr
2
O
3
). Chất đánh dấu này không được tôm tiêu hóa và hấp
thu nên tỷ lệ nồng độ chất đánh dấu trong phân và trong thức ăn chính là sự
tiêu hóa thức ăn của tôm. Kết quả cho thấy, ở độ mặn 3‰ và 15‰ thời gian sử
dụng thức ăn của tôm ngắn hơn ở độ mặn 25‰ và 35‰. Tuy nhiên, tổng thời

gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn của tôm ở các độ mặn 15, 25 và 35‰ là
tương đương nhau (4-5 giờ sau khi cho ăn) và tổng thời gian sử dụng và tiêu
hóa thức ăn của tôm ở các độ mặn 3‰ là ngắn nhất (3-4 giờ sau khi cho ăn). Ở
độ mặn quá thấp (3‰) độ tiêu hóa thức ăn, tiêu hóa đạm và năng lượng của
tôm thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các độ mặn 15, 25 và 35‰. Nghiên
cứu đề nghị rằng, nuôi tôm ở độ mặn thấp cần tăng tần suất cho tôm ăn trong
ngày nhiều hơn ở độ mặn cao.





5


MỤC LỤC
TÓM TẮT ii
CHƯƠNG 1. ĐẶC VẤN ĐỀ 1
1.1. Giới thiệu 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Nội dung của đề tài 2
1.4. Thời gian thực hiện đề tài 2
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Đặc điểm sinh học 3
2.1.1.Đặc điểm hình thái, phân loại 3
2.1.2.Đặc điểm phân bố 4
2.1.3.Tuổi thọ, sinh sản và vòng đời 5
2.1.4.Tập tính bắt mồi và nhu cầu dinh dưỡng 6
2.1.5. Sinh trưởng 8
2.2. Sơ lược về ảnh hưởng của độ mặn lên Tôm sú 9

2.3. Sơ lược phương pháp đánh giá khả năng tiêu hóa ở một số đối
tượng thủy sản 10
CHƯƠNG 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 11
3.1. Vật liệu 11
3.1.1. Nguồn tôm thí nghiệm 11
3.1.2. Nguồn nước dùng cho thí nghiệm 11
3.1.3. Các vật liệu chính dùng cho thí nghiệm 11
3.2. Các thí nghiệm 11
3.2.1. Thí nghiệm 1 11
3.2.2. Thí nghiệm 2 13
3.3. Phương pháp xử lý số liệu 15
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ - THẢO LUẬN 16
4.1. Ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn
của tôm sú (Penaeus monodon) 16
4.1.1. Các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm 16
4.1.2. Ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu hóa
thức ăn của tôm sú (Penaeus monodon) 17
4.2. Ảnh hưởng của độ mặn lên độ tiêu hóa thức ăn, tiêu hóa đạm và
năng lượng của tôm sú (Penaeus monodon) 20
4.2.1 Các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm 20
4.2.2 Ảnh hưởng của độ mặn lên độ tiêu hóa thức ăn, tiêu hóa
đạm và năng lượng của tôm sú (Penaeus monodon) 21
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
PHỤ LỤC 27




6


DANH SÁCH HÌNH


Hình 2.1: Hình dạng ngoài của tôm sú (Penaeus monodon)
Hình 2.2: Vòng đời tôm biển (Motoh, 1981)
Hình 4.1: Sự biến động nhiệt độ trong thời gian thí nghiệm
Hình 4.2: Sự biến động pH trong thời gian thí nghiệm
Hình 4.3: Thời gian tiêu hóa của tôm thí nghiệm
Hình 4.4: Sự biến động nhiệt độ trong thời gian thí nghiệm
Hình 4.5: Sự biến động pH trong thời gian thí nghiệm
Hình 4.6: Độ tiêu hóa của tôm thí nghiệm


































7

CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Giới thiệu
Ở Việt Nam, với việc cho sinh sản nhân tạo thành công con tôm sú vào
năm 1985 (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004) đã tạo ra sức bậc
mới cho nghề nuôi tôm biển nói chung. Từ đây, con tôm sú đã dần trở thành
đối tượng chủ yếu trong sản xuất giống và trong nghề nuôi tôm biển ở nước ta
hiện nay. Đặc biệt là ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, tôm sú đã trở thành
đối tượng nuôi chính trong nghề nuôi thủy sản của các tỉnh ven biển như: Cà
Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre,
Theo thống kê của Bộ Thủy sản (2004), năm 2003 diện tích nuôi tôm
của cả nước là 574 nghìn ha với sản lượng 237 nghìn tấn. Riêng Đồng Bằng
Sông Cửu Long đã chiếm tới 463 nghìn ha với sản lượng đạt gần 170 nghìn

tấn. Vào năm 2006, sản lượng tôm nuôi của cả nước đã lên đến 300 nghìn tấn.
(www.fistenet.gov.vn ).
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi tôm sú thì sự phát
triển của những thành tựu khoa học công nghệ và những ứng dụng của chúng
vào nuôi tôm cũng phát triển không kém. Đã có nhiều nghiên cứu về: môi
trường sống của tôm, nhu cầu dinh dưỡng, sự thành thục, sinh sản, dịch
bệnh, Những nghiên cứu này đã góp phần làm cơ sở cho việc phát triển
công nghệ sản xuất giống và nuôi tôm sú trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, có
một lĩnh vực quan trọng mà ở Việt Nam vẫn còn rất yếu là nghiên cứu về sinh
lý tôm cá. Do nghề cá còn non trẻ cho nên các nghiên cứu sinh lý cá hầu như
còn chủ yếu dựa vào nền tảng của sinh lý động vật có sửa đổi và bổ sung thích
hợp với môi trường sống của thủy sinh vật (Đỗ Thị Thanh Hươngvà Trần Thị
Thanh Hiền, 2000).
Sinh lý tôm cá nói chung thì gồm những mảng lớn như: sinh lý máu,
sinh lý hô hấp, sinh lý tiêu hóa, sinh lý sinh sản, trao đổi chất, Trong nghiên
cứu sinh lý tôm, người ta thường tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của
môi trường đến các quá trình sinh lý này. Vì thế những nghiên cứu này làm cơ
sở tốt cho việc có được những giải pháp kỹ thuật mới trong quản lý môi
trường nước trong sản xuất giống cũng như trong ương nuôi tôm sú.
Đối với con tôm sú, sự tác động của các yếu tố môi trường đến sinh lý
cơ thể phải kể đến trước tiên là ảnh hưởng của độ mặn. Gần đây cũng có một
số nghiên cứu có liên quan nhưng chỉ tập trung vào ảnh hưởng của độ mặn đến
hô hấp, áp suất thẩm thấu và sinh trưởng của tôm. Bên cạnh đó, vấn đề ảnh

8

hưởng của độ mặn lên sinh lý tiêu hóa của tôm sú cũng rất quan trọng nhưng
hiếm có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Việc cần thiết phải có
những thông tin về vấn đề này để hỗ trợ cho những giải pháp kỹ thuật trong
nghề nuôi tôm là một yêu cầu tất yếu. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó mà đề

tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của độ mặn lên tiêu hóa và sử dụng thức ăn
của Tôm sú (Penaeus monodon)” được thực hiện.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng tiêu hóa và thời gian tiêu hóa
thức ăn của tôm sú ở độ mặn khác nhau, làm cơ sở cho việc điều chỉnh lượng
thức ăn và nhịp cho ăn thích hợp, nhằm nâng cao hiệu quả trong nghề nuôi
tôm sú.
1.3. Nội dung nghiên cứu
· Nghiên cứu khả năng tiêu hóa thức ăn, tiêu hóa đạm và năng lượng của
tôm sú ở độ mặn khác nhau.
· Nghiên cứu thời gian tiêu hóa thức ăn của tôm sú ở độ mặn khác nhau.
1.4. Thời gian thực hiện đề tài
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 7/2008- 12/2008. Các thí nghiệm
và phân tích mẫu được thực hiện tại trại thực nghiệm và phòng thí nghiệm
thuộc Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.

9

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Đặc điểm sinh học
2.1.1 Đặc điểm hình thái - phân loại của tôm sú:
Tôm sú (Penaeus monodon) có vị trí phân loại như sau:
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Antennata
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Bộ phụ: Natantia
Họ chung: Penaeidea

Họ: Penaeidea
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus monodon Fabricius (1798)
Theo Nguyễn Văn Chung (1995) được trích dẫn bởi Nguyễn Văn
Thường (2004), Tôm sú ở Việt Nam có các đặc điểm như sau:
Công thức răng chủy: CR =
3
2
87
-
-

Chủy kéo dài đến rìa của cuống râu I, gờ sau chủy có 3 răng và kéo dài
đến hết bờ sau của carapace. Carapace có gai râu và gai gan nhưng không có
gai hốc mắt. Rãnh bên chủy sâu, dừng ở trước hoặc sau gai thượng vị. Sợi râu
trên và dưới của râu I dài gần bằng nhau và gần bằng cuống râu. Gờ gan thẳng,
song song với mặt lưng của carapace. Chân ngực V không có nhánh ngoài, cơ
thể màu xanh đậm, có những vân sắc tố trắng đen ở các đốt bụng. Phần còn lại
của thân biến đổi từ màu nâu
sang màu xanh hoặc đỏ,
phân nửa chân đuôi có màu
màu đỏ, xanh và màu nâu
đen. Kích thước tối đa 270
mm, thường gặp 122 – 232
mm.



Hình 2.1: Hình dạng ngoài của tôm sú (Penaeus monodon)



10

2.1.2 Đặc điểm phân bố
Trên thế giới, tôm sú phân bố khắp các thủy vực vùng nhiệt đới và á
nhiệt đới, tập trung ở vùng Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, Đông và Đông
Nam Châu Phi, Pakistan, Nhật Bản, Bắc Úc, Trung Quốc. Đặc biệt tôm bắt
gặp nhiều nhất ở vùng Đông Nam Châu Á như: Đài Loan, Philippine,
Indonesia, Thái Lan, Malaysia (Motoh, 1981).
Ở Việt Nam, tôm sú phân bố ở Vịnh Bắc bộ, ven biển Miền Trung và
Nam bộ, vùng Tây Nam bộ: Sông Ông Đốc, Khánh Hội, Kim Qui, Hòn
Chông, Hà Tiên. (Nguyễn Văn Chung, 1995)
Giai đoạn hậu ấu trùng thì tôm sú sống ở nơi có độ mặn cao như vùng
ven biển ven bờ có giá thể. Các bãi biển đáy bùn hay đáy cát, có cỏ biển là nơi
sinh sống lý tưởng của các loài này. Khi sắp trưởng thành và trưởng thành tôm
có xu hướng di chuyển ra biển sâu, có khi đến 162m. Tôm trưởng thành di cư
ra biển khơi để sinh sản (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004).
Yêu cầu môi truờng sống
Theo Boyd (1982), các yếu tố lí, hoá, sinh của nước và đất bao gồm
nhiều yếu tố, trong đó có một số yếu tố quan trọng như sau:
- pH nước: Nước có độ pH dưới 4 hay trên 10 có thể gây chết tôm.
Khoảng thích hợp cho tôm là 7 – 9.
- Độ mặn: Khả năng chịu đựng và thích nghi độ mặn có khác nhau theo
loài. Thông thường các loài tôm có khả năng chịu đựng độ mặn thấp đến 5 –
10 ‰ hay thấp hơn. Độ mặn cao có thể gây chết tôm. Hầu hết các loài tôm có
thể tăng trưởng tốt ở độ mặn 25 – 30 ‰.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ tốt nhất cho tưng truởng của tôm dao động trong
khoảng 25 – 30
0
C. Tôm sú có thể chịu được nhiệt độ thấp hơn 28

o
C, trên 30
o
C
tôm lớn nhanh hơn nhưng rất dễ nhiễm bệnh. Nuôi tôm ở nhiệt độ nước 33
o
C
tôm lớn mau nhưng ngay sau đó tôm đã bị bệnh và chết nhiều. Tôm sẽ ngạt
nếu nhiệt độ khoảng 15-22
o
C và trên 33
o
C. Theo một số nghiên cứu khác, khi
nhiệt độ cao hơn 35
o
C hay dưới 15
o
C tôm bắt đầu chết (Trần Văn Hòa, 2001).
Lúc còn nhỏ (1gr), tôm lớn nhanh hơn trong nước ấm (30
o
C), tới khi tôm lớn
hơn (12-18gr), tôm lại lớn nhanh nhất ở nhiệt độ nước 27
o
C thay vì 30
o
C như
lúc còn nhỏ. ( ytolihoasinh.htm)
- Oxy hòa tan: Oxy hòa tan thấp (0.0 -1.5 mg/l) có thể gây chết tôm tuỳ
thời gain bị tác động và các điều kiện khác. Hàm lượng Oxy hòa tan tốt nhất


11

cho tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm nên trong khoảng giữa 3.5 mg/l đến bão
hòa. Oxy hòa tan quá bão hòa cũng gây nguy hiểm cho tôm.
- CO2: Hàm lượng CO2 dưới 20 mg/l thông thường chưa ảnh hưởng
đến tôm nếu Oxy đầy đủ.
- H2S: Nồng độ gây chết chưa được xác định
- Ammonia: Ammonia dưới dạng khí NH3 rất độc với hàm lượng trên 1
mg/l có thể gây chết tôm. Hàm lượng dưới 0.1 mg/l cũng gây bất lợi. Ở pH
bằng 9 và độ mặn 20 ppt, khoảng 25 % ammonia ở dạng khí. Vì thế hàm lượn
ammonia tổng số khoảng 0.4 mg/l cũng gây bất lợi cho tôm.
- Nitrite: Thông thường hàm lượng nitrite trong ao nuôi không cao đến
mức gây chết tôm. Tuy nhiêu, nồng độ cao 4 – 5 mg/l có thể ảnh hưởng bất lợi
cho tôm.
2.1.3 Tuổi thọ, sinh sản và vòng đời
Vòng đời của tôm sú được chia ra làm các giai đoạn: Trứng → ấu trùng
→ hậu ấu trùng → tiền trưởng → trưởng thành (Motoh, 1981)
Ở giai đoạn phát triển phôi và ấu trùng, tôm sú sống trôi nổi ở vùng
khơi do các dòng chảy hải lưu và do thủy triều. Sau khi chuyển qua giai đoạn
ấu niên và tiền thưởng thành, chúng hoàn thiện dần các cơ quan chức năng để
thích nghi với đời sống ở đáy, lúc này gai chủy phát triển và hệ thống mang
phát triển hoàn chỉnh, sử dụng chân bò để đi lại và bắt mồi, chân bơi để bơi
lội, cơ quan sinh dục đực cái đã phân biệt rõ ràng và ngày càng hoàn thiện.
Suốt thời gian này tôm di cư vào những vùng cửa sông và thường cư trú ở
rừng ngập mặn, nơi có độ mặn dao động từ 5 – 20 ‰ để tìm kiếm thức ăn,
sinh trưởng và phát triển.
Trong suốt quá trình di cư tìm thức ăn theo hướng độ mặn giảm, tôm sú
không ngừng tích lũy vật chất để lột xác và lớn lên về chiều dài, khối lượng,
ngày càng hoàn thiện cơ quan sinh sản (buồng trứng, tinh trùng) để bảo đảm
chức năng duy trì nòi giống của loài khi đạt tới kích thước và khối lượng nhất

định. Tôm sú giai đoạn tiền trưởng thành thường có quá trình di cư ngược lại
(từ nơi có độ muối thấp đến nơi có độ muối cao), từ cửa sông hay rừng ngập
mặn ra vùng biển khơi, thời kỳ này đặc trưng bởi sự thành thục sinh dục, có
nghĩa là con đực có tinh trùng nằm trong túi tinh và con cái có trứng nằm
trong buồng trứng.

12

Đến giai đoạn trưởng thành, thời kỳ này tôm sú đã di cư ra ngoài biển
sâu nơi có nước trong, nồng độ muối cao và ổn định, trong quá trình di cư này
đã xảy ra quá trình bắt cặp giao vĩ, và đẻ trứng.
Chu kỳ sống của tôm biển được trình bày qua hình 2.2.

Hình 2.2: Vòng đời tôm biển (Motoh, 1981)
Tuổi thọ của tôm sú là 1-2 năm. Tôm sú đực sống đến 1,5 năm, tôm sú
cái sống đến 2 năm. Ở Indonesia có con tôm cái nặng đến 454g, đẻ 1,4-1,8
triệu trứng. Hẳn nhiên, tôm sú cái thành thục lần đầu trong đời ở thể trọng 45
+ 10g đến khi đạt thể trọng 454g như thế, tôm sú phải trải qua rất nhiều lần lột
xác. Điều đó cho phép suy luận rằng tôm sú có thể đẻ trong nhiều mùa, mỗi
mùa đẻ nhiều lần.
2.1.4 Tập tính bắt mồi và nhu cầu dinh dưỡng
2.1.4.1 Sơ lược về hệ tiêu hóa của giáp xác
Theo Đỗ Thị Thanh Hương và Trần Thị Thanh Hiền ( 2000):
Cấu trúc ruột giáp xác
Ruột thường là một ống thẳng có 3 miền chính: ruột trước, ruột giữa và
ruột sau. Ruột trước và ruột sau có một lớp kitin ở mặt trong của ruột. còn
ruột giữa thì không.
Ruột trước phân chia thành thực quản và dạ dày. Dạ dày gồm 2 miền:
Tâm vị và Môn vị. Dạ dày tâm vị lớn và dạng túi, có một lớp kitin dày ở một
số miền được canxi hóa để tạo thành những xương nhỏ. Đó là những màng


13

nghiền của bộ nghiền dạ dày, thức ăn sẽ được nghiền thành những phần tử nhỏ
trước khi đưa vào dạ dày môn vị. Van tâm môn vị chỉ cho phép những phần tử
đã được nghiền nhỏ đi từ dạ dày tâm vị sang dạ dày môn vị.
Phía sau dạ dày môn vị là ruột giữa mà các phần nở to ở mặt bên của nó
sẽ tạo thành tuyến ruột giữa và tuyến gan tụy.Tuyến gan tụy là một khối bao
gồm các ống tận cùng.
Ruột sau thường ngắn và mở ra ngoài hậu môn.
Ruột không có lông mịn nên sự di chuyển thức ăn trong ruột là do
những cử động nhu động và phản nhu động.
Sự tiêu hóa
Miệng xé thức ăn và nhồi chúng vào thực quản. Bộ nghiền dạ dày sẽ
nghiền nhỏ thức ăn. Dưới tác dụng của các cử động nhu động và phản nhu
động, thức ăn sẽ được đẩy tới ruột giữa, ruột sau. Trong quá trình này, thức ăn
sẽ được tiêu hóa bởi các men và dịch tiêu hóa, và cuối cùng được hấp thu.
Ruột trước và ruột sau được kitin hóa, có tác động như màng bán thấm có
chức năng hấp thu nước. Phần trước ruột giữa có những tế bào hấp thu sẽ hấp
thu những phần tử mịn nhất. Ngoài ra sự hấp thu còn xảy ra ở ống gan tụy.
Phần chất thải cuối cùng được thải ra ngoài qua hậu môn.
2.1.4.2 Tập tính bắt mồi
Tôm sú ăn tạp và ưa chuộng giáp xác, thực vật, giun nhiều tơ, nhuyễn
thể, cá và côn trùng. Thức ăn của tôm sú gồm giáp xác (cua nhỏ và tôm)
nhuyễn thể, cá, giun nhiều tơ, côn trùng, tảo, mùn bã, bùn…Điều này nói tôm
sú là động vật ăn mồi sống là những động vật đáy có kích thước tương đối lớn,
vật động chậm chạp hơn là ăn vật chết hay mùn bã. Tuy nhiên, tập tính ăn của
tôm sú thay đổi theo từng giai đoạn. Ở giai đoạn tôm bột và tôm giống, chúng
ăn nhiều các loại mảnh thực vật bao gồm lab – lab, vi tảo, chất vẩn, thực vật
lớn, giun, Copepoda, Moina, ấu trùng nhuyễn thể và ấu trùng giáp xác. Khi

tôm lớn thì ăn các loài động vật có và không có xương sống. Tôm sú có hiện
tượng ăn lẫn nhau (Phương và Hải, 2004).
Tôm sú là loài động vật đáy có thể vận động nhanh khi chạy trốn
(chuyển động giật lùi) nhưng tiến lên phía trước để bắt mồi thì khá chậm. Như
vậy ngoài khả năng ăn giáp xác chết, Tôm sú không thể bắt được những con
mực sống tuy là động vật thân mềm nhưng có khả năng cơ động trốn thoát rất
cao.


14

2.1.4.3 Nhu cầu dinh dưỡng
- Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn thay đổi theo từng giai đoạn:
giao đoạn ấu trùng thì cần trên 40% đạm, giai đoạn tôm thịt từ 35-40% đạm,
giai đoạn nuôi vỗ cần 45-50% đạm.
- Nhu cầu chất đạm và axit amin (aa): Chất đạm là thành phần quan
trọng nhất trong thức ăn, có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ thể,
cung cấp, năng lượng và aa thiết yếu. Tôm sú giống có nhu cầu đạm khoảng
40%. Đối với tôm thịt, thức ăn có hàm lượng đạm thích hợp khoảng 35 – 40
%. Trong khi đó, tôm bố mẹ cần thức ăn có hàm lượng đạm cao khoảng 45 –
50 %
- Nhu cầu chất béo: Chất béo có vai trò quan trọng đối với tôm nhờ
cung cấp nhiều năng lượng, acid béo cao phân tử không no, phospholipid và
vitamin. Hàm lượng lipid trong thức ăn cần thiết cho tôm 6 - 7.5 %. Nguồn
lipid tốt nhất cho tôm sú là từ động vật biển như dầu mực, dầu cá,…
- Nhu cầu chất bột đường: Carbohydrate có vai trò quan trọng trong
khẩu phần ăn của tôm không nhưng cung cấp năng lượng mà còn có chức
năng kết dính. Hàm lượng chất bột đường trong khẩu phần thức ăn khoảng 10
– 20 %.
- Nhu cầu Vitamin và khoáng: Vitamin rất cần thiết trong việc điều hòa

các tiến trình trong cơ. Chất khoáng giúp xây dựng vỏ tôm. (Nguyễn Thanh
Phương và Trần Ngọc Hải (2004))
2.1.5. Sinh trưởng
Trong quá trình tăng trưởng, khi trọng lượng và kích thước tăng lên
mức độ nhất định, tôm phải lột bỏ lớp vỏ cũ để lớn lên. Sự lột xác thường xảy
ra vào ban đêm. Sự lột xác đi đôi với việc tăng thể trọng, cũng có trường hợp
lột xác nhưng không tăng thể trọng. Khi quan sát tôm nuôi trong bể, hiện
tượng lột xác xảy ra như sau: Lớp biểu bì giữa khớp đầu ngực và phần bụng
nứt ra, các phần phụ của đầu ngực rút ra trước, theo sau là phần bụng và các
phần phụ phía sau, rút ra khỏi lớp vỏ cứng, với động tác uốn cong mình toàn
cơ thể. Lớp vỏ mới mềm sẽ cứng lại sau 1-2 giờ với tôm nhỏ, 1-2 ngày đối với
tôm lớn. Tôm sau khi mới lột xác, vỏ còn mềm nên rất nhạy cảm với môi
trường sống thay đổi đột ngột. Trong quá trình nuôi tôm, thông qua hiện tượng
này, có thể điều chỉnh môi trường nuôi kịp thời. Hormone hạn chế sự lột xác
lột xác (MIH, molt - inhibiting hormone) được tiết ra do các tế bào trong cơ
quan của cuống mắt, truyền theo sợi trục tuyến xoang, chúng tích luỹ lại và
chuyển vào trong máu, nhằm kiểm tra chặt chẽ sự lột xác. Các yếu tố bên

15

ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn, điều này có ảnh hưởng tới tôm đang lột
xác (www.vietlinh.com.vn).
2.2 Sơ lược về ảnh hưởng của độ mặn lên tôm sú
Theo Motoh (1981) thì Tôm sú thích nghi trong giới hạn độ mặn rộng
từ 0,2 – 70 ‰. Tuy nhiên, thì ảnh hưởng của nồng độ muối lên sự tăng trưởng
của tôm vẫn chưa được hiểu rõ, song có lẽ trong quá trình điều hòa áp suất
thẩm thấu và trao đổi ion trong môi trường cần đến năng lượng, là ảnh hưởng
đến tăng trưởng của tôm.
Ảnh hưởng lên các hoạt động sống của tôm thường do sự kết hợp của
độ mặn và nhiệt độ. Mức độ ảnh hưởng của 2 yếu tố này có khác biệt theo loài

(Trích dẫn bởi Nguyễn Anh Tuấn và ctv., 1994). Độ mặn nước thích hợp nhất
sử dụng cho các trại giống nên từ 24 – 32 ‰ và nhiệt độ là 26 - 30 oC (Trần
Minh Anh, 1989).
Hậu ấu trùng ở thời gian cuối và tôm giống có khả năng thích nghi
nồng độ muối rộng hơn những hậu ấu trùng mới chuyển giai đoạn. Postlarvae
tôm sú có khả năng chịu đựng nồng độ muối rất thấp. Tỷ lệ sống đạt 64% ở độ
mặn 0 ‰, và cao hơn khi nồng độ muối tăng trên 0‰, đến 38‰ thì tỷ lệ chết
của tôm bắt đầu tăng. Trong điều kiện thí nghiệm, Postlarvae đạt tỷ lệ sống
cao (82%) ở độ mặn 15‰, cao hơn so với tỷ lệ sống ở nồng độ muối 20‰
(74%), và ở độ mặn 0‰ thì tỷ lệ sống của Postlarvae chỉ đạt 68%. Nghiên cứu
trên cho thấy, tôm sú có khả năng sống ở nồng độ muối rất thấp, ngay cả trong
nước ngọt nhưng chỉ trong thời gian ngắn (Motoh, 1981).
Nghiên cứu khả năng chịu mặn của các giống thuộc họ Penaeidea đưa
ra kết luận: giống Penaeus có khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu trong môi
trường nước ngọt và mặn. Mặc dù có sự khác biệt áp suất thẩm thấu của máu
tôm nuôi ở các nồng độ muối, nhưng áp suất thẩm thấu của máu tôm luôn cao
hơn áp suất thẩm thấu của môi trường. Khi giảm nồng độ muối của môi trường
thì sẽ có sự xâm nhập của nước và sự khếch tán các ion ra ngoài môi trường
ngang qua bề mặt cơ thể. Khi nghiên cứu về yếu tố độ mặn, cho rằng, nồng độ
muối ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu. Các thay
đổi nồng độ nuối của môi trường vuợt ra ngoài giới hạn thích ứng của tôm, cá
nuôi đều gây ra sốc, làm giảm khả năng kháng bệnh của tôm, cá (Nguyễn Văn
Hảo, 1995).
Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ muối khác nhau (0, 1, 3, 6 và 15‰)
lên sự thay đổi áp suất thẩm thấu và mức độ tiêu hao oxy của tôm sú giống
(postlarvae 15). Thí nghiệm cho thấy khả năng tiêu hao oxy khác biệt không

16

có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức. Nhưng áp suất thẩm thấu

của máu tôm ở nghiệm thức 0‰ khác biệt rất có ý nghĩa so với các nghiệm
thức còn lại (p<0,01). Áp suất thẩm thấu ở nghiệm thức 1‰ không có sự khác
biệt so với nghiệm thức 3‰ nhưng khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức 6
và 15‰ (p<0,01). Áp suất thẩm thấu tăng dần từ môi trường có nồng độ muối
thấp đến môi trường có nồng độ muối cao (Đỗ Thị Thanh Hương và ctv, 2004)
2.3 Sơ lược phương pháp đánh giá khả năng tiêu hóa ở một số đối tượng
thủy sản
Ở cá bống tượng, khả năng tiêu hóa của cá bống tượng giống được
đánh giá với các loại mồi khác nhau. Hai mươi cá bống tượng giống (chiều dài
40-45mm, trọng lượng trung bình 0,87g) được bố trí ngẫu nhiên trong 12 bể
kính. Cá được cho ăn thỏa mãn trong vòng 2 giờ tại 2 thời điểm là 7h sáng và
17h chiều. Loại mồi dùng trong thí nghiệm là cá bột cá mè trắng và tép bò.
Sau 2h con mồi và cá bống tượng được tách riêng. Mỗi giờ tiếp đó bắt 3 con
ngẫu nhiên từ các bể để giải phẫu thức ăn trong dạ dày. Khối lượng cá và khối
lượng thức ăn trong dạ dày được xác định theo mỗi lần thu mẵu. Trên cơ sở đó
đánh giá lượng thức ăn còn lại trong dạ dày theo thời gian (Nguyễn Phú Hòa,
Yang Yi và Lê Thanh Hùng, Tạp chí khoa học 2008, Đại học Cần Thơ).
Ở cá Tra, nghiên cứu xác định thời gian tiêu hóa thức ăn của cá giống
có khối lượng trung bình khoảng 14-15g/con. Cá được bố trí vào 9 bể 500
L/bể, mật độ 50 con/bể, dưỡng cá cho tới khi cá ăn thật khỏe thì tiến hành thí
nghiệm. Cá được cho ăn no trước khi giải phẩu để xác định lượng thức ăn
trong dạ dày cá ở các thời điểm khác nhau. Sau khoảng 30 phút (từ lúc bắt đầu
cho ăn đến khi cá no hoàn toàn hay lúc cá không còn bắt mồi nữa) tiến hành
giải phẩu cá để thu lượng thức ăn trong dạ dày. Thu ngẫu nhiên 30
con/lần/giờ/bể để giải phẩu cho tới khi kiểm tra thấy trong dạ dày cá không
còn thức ăn thì ngưng. Khối lượng cá và lượng thức ăn thu ở mỗi lần sẽ được
cân. Sau đó lượng thức ăn trong dạ dày cá thì được sấy khô ở tủ sấy 105
0
C,
sau đó cân để tính khối lượng thức ăn trong dạ dày. Thức ăn trong dạ dày của

cá được cân đo sau mỗi giờ để làm cơ sở đánh giá lượng thức ăn còn lại trong
dạ dày theo thời gian (Nguyễn Kim Thùy, 2008)







17

CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Vật liệu
3.1.1. Nguồn tôm thí nghiệm
Tôm thí nghiệm có kích cỡ dao động 10±2 g/con được thu từ các ao
ương hay các ao nuôi thịt có độ mặn từ 15-25‰. Tôm của mỗi thí nghiệm khi
thu về được nuôi dưỡng trong bể composite có độ mặn bằng với độ mặn nước
ao nuôi (ương) và có sục khí liên tục trong 7 ngày để tôm ổn định và quen với
điều kiện nuôi trong bể, sau đó mới tiến hành đưa vào thí nghiệm. Trong thời
gian dưỡng, tôm được cho ăn bằng thức ăn viên, ngày cho ăn 2 lần (sáng và
chiều) với khẩu phần ăn 3–5% khối lượng thân. Tôm bố trí thí nghiệm được
chọn kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, không có dấu hiệu bệnh lý.
3.1.2 Nguồn nước dùng cho thí nghiệm:
Nước ngọt: là nước máy sinh hoạt
Nước mặn: dùng nước ót 70-85‰ xử lý bằng bột chlorine với nồng độ
30ppm, sục khí liên tục ít nhất 24 giờ, sau đó kiểm tra và trung hòa hàm lượng
clor dư bằng thio-sulfat-natri (nếu có) trước khi bơm qua túi lọc để đưa vào sử
dụng.

3.1.3 Các vật liệu chính dùng cho thí nghiệm:
- 4 bể composite tròn 1 m
3
(thí nghiệm 1)
- 12 bể composite hình chữ nhật thể tích 0,5 m
3
( thí nghiệm 2)
- Các bể phụ trợ khác: trữ, xử lý nước, pha nước,
- Máy sục khí và các thiết bị sục khí.
- Các dụng cụ và thiết bị khác: xô nhựa, vợt, giá thể, máy bơm, máy lọc,
- Dụng cụ đo: Nhiệt độ, độ mặn, pH, cân điện.
- Các thiết bị và hóa chất dùng trong phân tích mẫu, phân tích đạm và năng
lượng
3.2. Các thí nghiệm:
3.2.1. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian tiêu hóa thức ăn
của tôm sú (Penaeus monodon)



18

* Bố trí thí nghiệm:

Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức:
(i) Nghiệm thức 1: Độ mặn thấp nhất mà tôm còn khả năng điều
hòa áp suất thẩm thấu để duy trì sự sống (3‰).
(ii) Nghiệm thức 2: Độ mặn cao nhất mà áp suất thẩm thấu của tôm
lớn hơn so với áp suất thẩm thấu của môi trường (15‰).
(iii) Nghiệm thức 3: Độ mặn mà áp suất thẩm thấu của tôm tương
đương với áp suất thẩm thấu của môi trường (25‰).

(iv) Nghiệm thức 4: Độ mặn thấp nhất mà áp suất thẩm thấu của tôm
nhỏ hơn so với áp suất thẩm thấu của môi trường (35‰).
(Các ngưỡng độ mặn được xác định bởi Lê Văn Hòa, 2008)
Mỗi nghiệm thức bố trí trên 1 bể composite thể tích 1 m
3
, chiều cao cột
nước duy trì ở mức 80 cm. Các bể được bố trí giá thể bằng dây nylon để hạn
chế tôm ăn nhau và được sục khí liên tục trong suốt thời gian thí nghiệm.
Tôm từ bể nuôi dưỡng được tiến hành thuần hóa để đạt các độ mặn thí
nghiệm, sau đó chọn lựa và bố trí tôm vào các bể thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn
với các độ mặn thích hợp cho từng nghiệm thức. Mật độ bố trí là 120 tôm/bể.
* Chăm sóc:
Trong thời gian thí nghiệm, tôm được cho ăn bằng thức ăn viên, ngày 2
lần (sáng và chiều), với khẩu phần ăn từ 3–5% khối lượng thân. Hàng ngày,
trước khi cho tôm ăn, các bể được siphon để loại phân và thức ăn thừa. Tiến
hành cấp thêm nước hoặc thay nước mới khi cần thiết, mỗi lần thay không quá
1/3 thể tích nước trong bể.

* Thu mẫu:
Sau khi bố trí tôm vào bể thí nghiệm 1 tuần, tiến hành thu mẫu dạ dày
tôm: bố trí tôm ở mỗi nghiệm thức ra 5 bể 100 L, mỗi bể 20 con, sáng ngày
hôm sau siphon sạch cặn, để cho tôm ổn định khoảng 1,5 giờ, sau đó cho ăn và
thu mẫu dạ dày theo nhịp thời gian để quan sát sự hiện diện của thức ăn và cân
để xác định khối lượng thức ăn trong dạ dày. Mẫu dạ dày được thu với nhịp
thu: sau cho ăn 20, 40 phút, 1g, 2g, 3g, 4g, đến khi dạ dày hết thức ăn. Mỗi
nhịp thu 10 dạ dày tôm trên 1 nghiệm thức và đem sấy ở tủ sấy 105
o
C trong 24
giờ để xác định trọng lượng khô.
Trong thời gian thí nghiệm, các yếu tố môi trường như: nhiệt độ, pH

được theo dõi và ghi nhận.

19

3.2.2. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của độ mặn lên độ tiêu hóa thức ăn, tiêu
hóa đạm và năng lượng của tôm sú (Penaeus monodon)
* Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên, gồm 4 nghiệm
thức tương tự như thí nghiệm 1với 3 lần lặp lại
Bể thí nghiệm là bể composite thể tích 500 L, chiều cao cột nước duy
trì ở mức 60 cm. Các bể được bố trí giá thể bằng dây nylon để hạn chế tôm ăn
nhau và bố trí đá bọt để sục khí liên tục trong suốt thời gian thí nghiệm
Tôm từ bể nuôi dưỡng sẽ được tiến hành thuần hóa để đạt các độ mặn
thí nghiệm, sau đó chọn lựa và bố trí vào các bể thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn
với các độ mặn thích hợp cho từng nghiệm thức. Mật độ bố trí là 40 con/bể.
* Chăm sóc
Khi tôm được bố trí vào bể thí nghiệm sẽ được chăm sóc giống như quá
trình thuần dưỡng trong 2 tuần để tôm ổn định, sau đó tiến hành cho tôm ăn
bằng thức ăn viên có trộn chất đánh dấu (Cr
2
O
3
), mỗi ngày cho ăn 2 lần (6h30,
12h). Tôm được cho ăn theo nhu cầu thông qua việc ghi nhận và điều chỉnh
lượng thức ăn ở mỗi lần cho ăn. Sau khi tập cho tôm ăn bằng thức ăn có chất
đánh dấu 7 ngày, đến ngày thứ 8 thì tiến hành thu phân để xác định độ tiêu hóa
thức ăn, tiêu hóa đạm và năng lượng.
* Thu phân
Cách thu phân:
Xi phong sạch thức ăn và phân sau 1 giờ cho ăn. Mỗi lần thu phân,

siphon những sợi phân ở đáy bể, rửa sạch qua nước cất, cho vào lọ nhựa và
bảo quản lạnh ở nhiệt độ <4
o
C. Cuối ngày đem toàn bộ lượng phân thu trong
ngày sấy ở tủ sấy 105
o
C trong 24 giờ. Lượng phân thu cần thiết trên mỗi bể thí
nghiệm từ 10 – 15 g phân khô. Thời gian thu phân khoảng 6 tuần.







20

Lịch thu phân trong ngày như sau:
6 giờ 7 giờ 9 giờ 12 giờ 13 giờ 15 giờ 18giờ
Cho
ăn
Siphon
thức ăn
thừa và
phân bỏ
Thu phân
lần 1 và
bảo quản
Thu phân
lần 2, sau

đó cho ăn
Siphon
thức ăn
thừa và
phân bỏ
Thu phân
lần 3 và
bảo quản
Thu phân
lần 4, sau
đó cho ăn
Trong thời gian thí nghiệm, các yếu tố môi trường như: nhiệt độ, pH
được theo dõi và ghi nhận.
* Phương pháp xác định độ tiêu hóa thức ăn, độ tiêu hóa đạm và
năng lượng
- Phương pháp phân tích mẫu:
Mẫu thức ăn có trộn chất đánh dấu dùng trong thí nghiệm và mẫu phân
được phân tích các chỉ tiêu: đạm, năng lượng, Cr
2
O
3
.
+ Đạm: phân tích bằng phương pháp Kjeldahl
+ Năng lượng: xác định bằng máy đo năng lượng (Parr)
+ Cr
2
O
3
: Theo phương pháp của Furukawa và Tsukahara (1966)
- Phương pháp tính toán: hàm lượng chất đánh dấu Cr

2
O
3
trong phân
và trong thức ăn là cơ sở để tính toán:
+ Độ tiêu hóa thức ăn (ADC)
ADC = 100 – (100 * %A /%B)
Với: %A là % chất đánh dấu có trong thức ăn (tính theo trọng lượng khô)
%B là % chất đánh dấu có trong phân (tính theo trọng lượng khô)

+ Độ tiêu hóa dưỡng chất (đạm/năng lượng)

ADC
dưỡng chất
= 100 – (100 * (%A /%B) * (%B’/%A’))

Với %A: % chất đánh dấu có trong thức ăn (tính theo trọng lượng khô)
%B: % chất đánh dấu có trong phân (tính theo trọng lượng khô)
%A’: % chất dinh duỡng có trong thức ăn (tính theo trọng lượng khô)
%B’: % chất dinh duỡng có trong phân (tính theo trọng lượng khô)





21

3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và phân tích
phương sai (ANOVA) để tìm ra sự khác biệt giữa các trung bình các nghiệm

thức. Phần mềm sử dụng là Excel và SPSS































22

CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. Ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn của
tôm sú (Penaeus monodon)
4.1.1. Các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm
Các yếu tố môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến nghề nuôi thủy sản.
Bởi vì đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sinh lý, sinh
trưởng, dinh dưỡng, của các đối tượng nuôi.
a. Nhiệt độ
Trong thí nghiệm dinh dưỡng, việc kiểm sóat nhiệt độ là rất quan trọng,
vì nhiệt độ có ảnh hưởng đến khả năng bắt mồi và cường độ trao đổi chất của
tôm, cá. Theo định luật Van Hốp khi nhiệt độ tăng lên 10
o
C thì cường độ trao
đổi chất tăng 3-4 lần (trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2000). Do vậy khi nhiệt
độ nước quá lạnh hoặc quá nóng đều gây cho cá sốc, ít ăn, chậm lớn.
Trong thời gian thí nghiệm, nhiệt độ trung bình ở các nghiệm thức dao
động trong khoảng từ 27,5±0,3
o
C đến 28,1±0,3
o
C (Hình 4.1). Như vậy, sự
biến động nhiệt độ nước luôn trong nằm trong khoảng thích hợp cho tôm thí
nghiệm. Theo Trần Văn Hòa và ctv. (2001) thì nhiệt độ tối ưu cho tôm sú phát
triển là 25 - 30
o

C.
0
3
6
9
12
15
18
21
24
27
30
Tuần 1 Tuần 2
Thời gian
Nhiệt độ (oC)
35‰
25‰
15‰
3‰

Hình 4.1: Sự biến động nhiệt độ trong thời gian thí nghiệm

b. pH
Bên cạnh các yếu tố oxy hòa tan và nhiệt độ thì pH cũng là chỉ tiêu
quan trọng ảnh hưởng lên đời sống của tôm cá. Theo Boyd (1982), khi pH quá
cao hay quá thấp đều có tác động lớn đến khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu

23

của màng tế bào, làm rối loạn quá trình trao đổi muối- nước giữa cơ thể của

sinh vật với môi trường ngoài. Khi pH của môi trường nước cao tạo ra nhiều
NH
3
và ngược lại tạo ra nhiều H
2
S hoặc NO
2
-
, các yếu tố này đều ảnh hưởng
đến đời sống thủy sinh vật nói chung và ấu trùng tôm biển nói riêng. Khi pH
vượt qua giới hạn 8,3 thì hầu hết amonia được chuyển hóa thành dạng NH
3

gây độc cho tôm, nhưng khi pH nhỏ hơn 6,5 thì tính độc của H
2
S tăng lên
(Boyd, 2001). Trong quá trình thí nghiệm, giá trị pH trung bình ở các nghiệm
thức trong khỏang từ 7,4±0,0 đến 7,9±0,1. Sự biến động pH trong ngày luôn
nhỏ hơn 0,5 (Hình 4.2). Trần Minh Anh (1989) nhận xét rằng, pH trong phạm
vi từ 6-9 được xem là an toàn cho tôm sú. Theo Trần Ngọc Hải và ctv. (1999)
thì tôm sú thích hợp với điều kiện pH 6,5- 8,5. Với sự biến động pH của thí
nghiệm thì không làm ảnh hưởng đến hoạt động sống của tôm.
0.0
1.0
2.0
3.0
4.0
5.0
6.0
7.0

8.0
9.0
Tuần 1 Tuần 2
Thời gian
Giá trị pH
35‰
25‰
15‰
3‰
`

Hình 4.2: Sự biến động pH trong thời gian thí nghiệm

4.1.2. Ảnh hưởng của độ mặn lên thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn
của tôm sú (Penaeus monodon)
Ở độ mặn 3‰, sau khi cho ăn 20 phút thì khối lượng thức ăn trong dạ
dày tôm đạt giá trị lớn nhất (0,028±0,006

g). Thức ăn được tiêu hóa nhanh
chóng trong khoảng thời gian từ 40 phút đến 1 giờ. Tại thời điểm 1 giờ khối
lượng thức ăn trong dạ dày tôm đã giảm mạnh (còn 0,015±0,005 g) và đã khác
biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với khối lượng thức ăn trong dạ dày ở thời điểm
40 phút. Thời gian tiếp theo thức ăn tiếp tục tiêu hóa nhanh. Có sự khác biệt
có ý nghĩa khối lượng thức ăn trong dạ dày tôm ở các thời điểm thu mẫu sau
khi cho ăn 1, 2 và 3 giờ (p<0,05). Sau 4 giờ cho ăn thì quan sát thấy dạ dày
tôm đã hoàn toàn hết thức ăn (Bảng 1).
Giống như ở độ mặn 3‰, tại độ mặn 15‰, khối lượng thức ăn trong dạ
dày tôm cũng đạt giá trị lớn nhất tại thời điểm thu mẫu sau 20 phút cho ăn

24


(0,023±0,010

g). Tuy nhiên, ở độ mặn này quá trình tiêu hóa không xảy ra
nhanh ở thời gian đầu sau khi cho ăn như tôm ở độ mặn 3‰. Các lần thu mẫu
tiếp theo khối lượng thức ăn trong dạ dày tôm giảm dần dần, không có sự sai
khác có ý nghĩa giữa các lần thu mẫu trong khoảng thời gian từ 40 phút đến 2
giờ sau khi cho ăn khi (p>0,05). Đến thời điểm 3 giờ sau khi cho ăn thì khối
lượng thức ăn trong dạ dày tôm mới giảm có ý nghĩa (p<0,05) so với thời
điểm lấy mẫu sau 40 phút cho tôm ăn. Sau 5 giờ cho ăn thì dạ dày tôm hoàn
toàn hết thức ăn (Bảng 1).

Khối lượng thức ăn trong dạ dày tôm tính theo trọng lượng khô (g)
Độ
mặn

20 phút 40 phút 1 giờ 2 giờ 3 giờ 4 giờ
3‰ 0,028±0,006
a

0,026±0,006
a

0,015±0,005
b

0,010±0,002
c
0,004±0,002
d



15‰ 0,023±0,010
a

0,019±0,009
ab

0,016±0,005
b

0,014±0,006
b
0,007±0,006
c

0,005±0,002
c

25‰ 0,012±0,004
b

0,016±0,006
b

0,021±0,008
a

0,017±0,008
ab

0,013±0,005
b

0,005±0,004
c

35‰ 0,015±0,004
bc
0,017±0,005
abc
0,025±0,004
a

0,019±0,010
b
0,012±0,006
c

0,004±0,003
d


Bảng 1: Thời gian tiêu hóa của tôm thí nghiệm

Bảng 1 cho thấy, thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn của tôm ở hai độ
mặn 25‰ và 35‰ khá giống nhau. Ở cả hai độ mặn này tôm không lấy thức
ăn nhanh trong thời gian đầu sau khi cho ăn như ở đô mặn 3‰ và 15‰. Đến
thời điểm 1 giờ sau khi cho ăn thì khối lượng thức ăn trong dạ dày tôm mới
đạt được giá trị lớn nhất, tương ứng là 0,021±0,008 g và 0,025±0,004


g. Tuy
nhiên, sự tiêu hóa của tôm ở độ mặn 35‰ xảy ra nhanh ngay sau đó. Khối
lượng thức ăn trong dạ dày tôm đã có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các lần thu
mẫu sau 1, 2, 3 và 4 giờ sau khi cho ăn (p<0,05). Trong khi đó ở độ mặn 25‰
khối lượng thức ăn trong dạ dày tôm được tiêu hóa dần dần. Không có sự khác
biệt có ý nghĩa (p>0,05) về khối lượng thức ăn trong dạ dày tôm ở các lần thu
mẫu 1 giờ, 2 giờ và 3 giờ sau khi cho ăn. Sau 5 giờ cho ăn thì quan sát thấy dạ
dày của tôm ở hai độ mặn này đều hết thức ăn hoàn toàn.
Như vậy, kết quả thí nghiệm cho thấy thời gian sử dụng và tiêu hóa
thức ăn của tôm sú (10±2 g) có chịu ảnh hưởng bởi độ mặn. Ở độ mặn 3‰ và
15‰ thời gian sử dụng thức ăn của tôm ngắn hơn ở độ mặn 25‰ và 35‰.
Tuy nhiên, tổng thời gian sử dụng và tiêu hóa thức ăn của tôm ở các độ mặn
15, 25 và 35‰ là tương đương nhau (4-5 giờ sau khi cho ăn) và tổng thời gian
sử dụng và tiêu hóa thức ăn của tôm ở các độ mặn 3‰ là ngắn nhất (3-4 giờ
sau khi cho ăn).
Quá trình lấy thức ăn và tiêu hóa thức ăn nhanh của tôm ở độ mặn 3‰
có liên quan đến nhu cầu năng lượng cung cấp cho cơ thể khi tôm sống trong
môi trường có độ mặn này. Một vài nghiên cứu trước đây trên các loài tôm
khác cũng cho kết quả tương tự. VanWormhoudt (1973) nghiên cứu trên lòai

25

tôm Palaemon serratus, Lee et al. (1984) nghiên cứu trên loài tôm Penaeus
vannamei và Lovett & Felder (1990) nghiên cứu trên lòai Penaeus setiferus
có nhận định chung rằng, tìm hiểu về sinh lý tiêu hóa và nhu cầu dinh dưỡng
của các loài tôm có thể thông qua việc nghiên cứu trên các men tiêu hóa của
chúng. Li et al. (2008) nghiên cứu trên tôm Litopenaeus vannamei
(0,016±0,005 g) thấy rằng, hoạt tính của enzym tiêu hóa của tôm thay đổi theo
độ mặn. Trypsin hoạt động tại độ mặn 3‰ cao hơn có ý nghĩa so với độ mặn
17‰ và 32‰. Mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa ở các men tiêu hóa khác,

nhưng đã có sự gia tăng nhẹ trong hoạt tính của các men được tìm thấy ở tôm
nuôi tại độ mặn 3‰ và 32‰. Theo tác giả, hoạt tính của các men tiêu hóa tăng
cao tại các độ mặn khắc nghiệt đã cho thấy tôm sống ở độ mặn này có nhu cầu
sử dụng năng lượng từ thức ăn cao hơn mức bình thường, nhằm để đền bù vào
sự mất năng lượng cho quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu của cơ thể.
Kết quả thí nghiệm còn cho thấy khối lượng thức ăn tôm lấy vào dạ dày
cũng thay đổi theo độ mặn. Khi tôm sống ở độ mặn mà cơ thể phải điều hòa áp
suất thẩm thấu (3‰ và 35‰) thì lượng thức ăn tôm sử dụng nhiều hơn khi
sống ở độ mặn mà tôm ít phải điều hòa áp suất thẩm thấu (15‰ và 25‰).
Lượng thức ăn lớn nhất trong dạ dày tôm ở độ mặn 3‰ và 35‰ tương ứng là
0,028±0,006

g và 0,025±0,004

g, trong khi đó lượng thức ăn lớn nhất trong dạ
dày của tôm ở các độ mặn 15‰ và 25‰ là 0,023±0,010

g và 0,021±0,008

g
Ảnh hưởng của độ mặn lên khả năng sử dụng thức ăn của các loài tôm
biển (Penaeid) đã được một số tác giả trước đây nghiên cứu và có những nhận
định khác nhau. Wilson (2003) thực hiện thí nghiệm trên loài Farfantepenaeus
paulensis (0,2-0,4 g) ở các độ mặn 2, 4, 6, 12, 18, 24, 30, 36‰, tại nhiệt độ
25
o
C thấy rằng, sự tiêu thụ thức ăn của tôm khác biệt không có nghĩa giữa các
độ mặn thí nghiệm. Theo tác giả này thì trong khoảng cho phép của loài, ảnh
hưởng của độ mặn lên tiêu thụ thức ăn không có ý nghĩa. Nghiên cứu của
Femandes et al. (1997) trên lòai Metapenaeus dobsoni cũng nhận thấy khả

năng lấy thức ăn của tôm không bị ảnh hưởng khi độ mặn thay đổi. Tuy nhiên,
Parado-Estepa et al. (1987) đã tìm thấy sự dao động độ mặn có ảnh hưởng đến
khả năng sử dụng thức ăn của tôm Penaeus indicus. Thực hiện thí nghiệm ở
các độ mặn 5, 10, 15, 20, 25, 30 và 35‰ trên tôm sú (Penaeus monodon)
giống (1,2±0,05 g), Ye (2009) thấy rằng tỷ lệ thức ăn của tôm ở 5‰ cao hơn
có ý nghĩa (p<0,05) so với các độ mặn còn lại. Nghiên cứu của
Venkataramaiah et al. (1972) và Staples & Heales (1991) cho biết, sự tiêu thụ
thức ăn, hiệu quả chuyển hóa thức ăn, sự phát triển và tỷ lệ sống của các loài
tôm thuộc họ Penaeid nuôi chịu ảnh hưởng bởi độ mặn và/hoặc nhiệt độ. Theo
Venkataramaiah et al. (1972) thì độ mặn thấp thích hợp cho khả năng lấy thức
ăn của ấu trùng tôm penaeus aztecus. Sự tiêu thụ thức ăn của tôm nuôi tại các
độ mặn cao thì thấp hơn nhiều so với tôm nuôi tại độ mặn thấp. Kết quả của
việc tiêu thụ thức ăn cao ở các độ mặn thấp đã giúp cho sự phát triển và tỷ lệ
sống cao khi ấu trùng sống trong môi trường cửa sông tự nhiên.

×