Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Lý luận chung về lợi ích kinh tế với tư cách là công dân, hãy đề xuất các phương thức để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các hoạt động kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.1 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------o0o----------

by Unknown Author is licensed under

BÀI TẬP LỚN
MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Lý luận chung về lợi ích kinh tế. Với tư cách là công dân, hãy đề xuất các
phương thức để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các hoạt động kinh tế
xã hội?
Họ Tên Sinh Viên:
Mã Sinh Viên:
Khóa:
Lớp: Kinh tế chính trị

1


Hà Nội, tháng 4 năm 2022

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………3
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………………4
I, LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ ………………………………………………4
1.1 KHÁI NIỆM…………………………………………………………………...4
1.2 CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ……………………..4
1.3 VAI TRỊ CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ…………………………………………..5
1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI ÍCH KINH TẾ…………………..6
II, THỰC TIỄN CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM………………………7
2.1 MỘT SỐ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ CƠ BẢN…………………………..7
2.2 QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM……………………………..8


III, CÁC PHƯƠNG THỨC ĐỂ BẢO VỆ LỢI ÍCH HỢP PHÁP KHI THAM GIA
CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ XÃ HỘI…………….………….……………………8
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….…10
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………...………………………11

2


LỜI MỞ ĐẦU
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa để đưa nước ta thành một nước có nền kinh tế phát triển ngay trong thập
kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền cơng nghiệp hóa hiện
đại hóa thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là
tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ cơng nhân
viên chưa cao. Vì thế, cùng một lúc, chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề
cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra. Đặc biệt vấn đề về lợi ích kinh
tế là một trong những vấn đề lớn của Nhà nước mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, khi chúng ta đi ngày càng sâu vào nền kinh tế thị
trường, vấn đề lợi ích nói chung, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nói riêng lại trở nên
phức tạp, tạo ra những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết, xuất hiện những biểu hiện
của sự mất cân bằng trong quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Một số lực
lượng xã hội nhân danh lợi ích xã hội, để mưu cầu lợi ích cá nhân khơng chính đáng,
xâm phạm lợi ích xã hội. Những hiện tượng tham ô, tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế,
hàng giả, hàng kém chất lượng, lợi ích nhóm tiêu cực lũng đoạn việc quản lý, điều
hành, phân phối nói chung... Thực chất đó là việc đề cao quá mức lợi ích cá nhân, bất
chấp luật pháp, đạo đức để đạt được lợi ích cá nhân. Ngược lại, có những lợi ích cá
nhân chính đáng chưa được quan tâm đúng mức, tạo điều kiện phát triển, thành phần

kinh tế tư nhân chưa thực sự phát huy một cách hiệu quả... Cùng với đó, càng hội
nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải
làm cho cá nhân thỏa mãn lợi ích chính đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những
lợi ích xã hội để vừa bảo đảm sự phát triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa
Vì vậy, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân
tích chung về lợi ích kinh tế, thì ta có thể đưa ra phương thức để bảo vệ lợi ích hợp
pháp của mình khi tham gia hoạt động kinh tế. Do đó em xin chọn đề tài: “Lý luận
lợi ích kinh tế và phương thức bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân khi tham gia
hoạt động kinh tế” là chủ đề nghiên cứu trong bài tập lớn lần này.
Do đề tài này mang tính thời sự rất cao nên trong q trình nghiên cứu, em sẽ có thể
gặp nhiều sai sót, nên em kính mong có được ý kiến cũng như sự đánh giá của cơ để
hồn thành bài một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn!

3


PHẦN NỘI DUNG
I, LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
1.1 KHÁI NIỆM
Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích, ích lợi, có lợi được sử dụng như là cùng nghĩa
và có thể thay thế nhau. Lợi ích khơng phải là cái gì trừu tượng và có tính chất chủ
quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người. Con người có
nhiểu loại nhu cầu (vật chất, chính trị, văn hố), do đó có nhiều loại lợi ích (lợi ích
kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hố, tinh thẩn)
Cũng giống như lợi ích của con người nói chung, lợi ích kinh tế gắn liền với
nhu cầu, song đây không phải là nhu cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tế (nhu cầu
vật chất). Chỉ có những nhu cầu kinh tế mới làm phát sinh lợi ích kinh tế. Vì vậy,
lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, nó xuất hiện trong những điều
kiện tổn tại là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể

kinh tế. Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã hội
thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được quy định
một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ sản xuất,
trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Ph.Ănghen viết: “Những quan hệ
kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi
ích”. V.I.Lênin cũng cho rằng: “Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác được
xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ thống quan hệ sản
xuất, theo những hoàn cảnh và điều kiện sống của họ”. Khi đề cập tới phạm trù lợi
ích kinh tế có nghĩa hàm ý rằng, lợi ích đó được xá lập trong quan hệ nào, vai trò
của các chủ thể trong quan hệ đó thể hiện chủ thể đó biểu hiện như thế nào vậy
nên, cần khẳng định rằng ở đâu có hoạt động kinh doanh thì ở đó lao động có quan
hệ lợi ích và lợi ích kinh tế.
1.2 CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ
Thứ nhất, lợi ích kinh tế mang tính khách quan:
Phương thức và mức độ thỏa mãn trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát
triển của con người và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: số lượng, chất lương hàng hóa
và dịch vụ; thu nhập của các chủ thể…Địi hỏi lợi ích kinh tế phải được tôn trọng
và giải quyết các vấn đề đó phải xuất phát từ các điều kiện khách quan
Thứ hai, lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối:
4


Quá trình phân phối thu nhập tùy thuộc và các yếu tố như trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế thị trường. Nếu mức thu nhập
được phân phối hợp lý thì lợi ích kinh tế sẽ trở thành động lực để phát triển và
ngược lại.
Thứ ba, lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội:
Để đạt được lợi ích của mình, các chủ thể phải tương tác, hình thành các mối
quan hệ hợp tác. Một mối quan hệ công bằng hợp lý, đồng thuân sẽ thúc đẩy

nhanh hơn chủ thể đạt được lợi ích kinh tế mong muốn.
Thứ tư, lợi ích kinh tế mang tính lịch sử:
Thể hiện qua việc nó ln vận động và biến đổi theo thời gian, gắn với sự vận
động của nhu cầu con người. Đòi hỏi việc giải quyết các vấn đề phải ln đặt
trong từng hồn cảnh cụ thể và biến đổi khơng ngừng.

1.3 VAI TRỊ CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề trung tâm của sản xuất và đời sống.
Chính những lợi ích kinh tế đã ràng buộc con người với cộng đồng của họ và tạo
ra những xung động, thôi thúc, ham muốn và trạng thái say. Niềm đam mê sản
xuất kinh doanh của người lao động. Lợi ích kinh tế được ghi nhận và thực hiện
một cách chính xác, thì nó sẽ là động cơ kinh tế thúc đẩy con người hành động.
Vì vậy, tiện ích kinh tế thể hiện mình là một trong những động cơ cơ bản của
tiến bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất và doanh nghiệp nói riêng. Theo
Ph.Ăngghen, lợi ích kinh tế là động lực làm di chuyển khối lượng lớn quần chúng,
và khi chúng trở thành động cơ thúc đẩy hoạt động của con người: Chúng di
chuyển cuộc sống của con người và các thực thể kinh tế. Ngay khi con người (chủ
thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế, họ nỗ lực để đạt được mục tiêu này. Lợi
ích kinh tế tương ứng với kết quả sản xuất kinh doanh đảm bảo cho việc nâng cao
sự ổn định và phát triển của các bên liên quan. Ngược lại, nếu không báo lợi hoặc
thu lợi không đủ sẽ làm cho các mối quan hệ này (mối quan hệ giữa các chủ thể)
xấu đi và nếu tình trạng này kéo dài thì sớm muộn cũng gây hậu quả xấu cho sản
xuất và hoạt động kinh doanh.
Lợi ích kinh tế hạn hẹp của mỗi người lao động là động lực trực tiếp cho hoạt
động của mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay của đất
nước, lợi ích kinh tế, lợi ích trước mắt của cá nhân là cấp thiết nhất, do đó nó cũng
5


đóng vai trị quan trọng nhất trong việc thúc đẩy các hoạt động, tạo nên sự vận

động và phát triển của xã hội.

1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI ÍCH KINH TẾ

 Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của cơng cụ lao động, trình độ,
kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân cơng lao
động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trong khi đó, lợi ích kinh tế
lại phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa dịch vụ, do đó, trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng
tốt. Chính vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết đứng đầu của các nước là phát triển lực lượng
sản xuất.

 Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội.

Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), là một trong những biểu hiện
của quan hệ xã hội, giữ vai trò xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản
xuất là quan hệ đầu tiên, quyết định những quan hệ khác. Quan hệ sản xuất gồm ba
mặt: quan hệ giữa người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất; quan hệ giữa
người với người trong tổ chức, quản lý sản xuất; và quan hệ giữa người với người
trong phân phối sản phẩm. Trong ba mặt cấu thành quan hệ sản xuất, mặt sở hữu có
vị trí quan trọng nhất, quyết định các mặt còn lại. Tuy nhiên, các mặt cịn lại cũng
có vai trị quan trọng trong quan hệ sản xuất, tác động đến sự kết hợp giữa các yếu
tố sản xuất cũng như động lực của người lao động. Vì thế khơng thể xem nhẹ bất
kỳ mặt nào trong quan hệ sản xuất. Do đó, khơng có lợi ích kinh tế nằm ngồi
những quan hệ sản xuất mà nó là sản phẩm, là hình thức tồn tại và biểu hiện của
những quan hệ sản xuất. Tóm lại, các quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định
biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.

 Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
6


Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản
vật của sản xuất, song sự phân phối có ảnh hưởng khơng nhỏ đối với sản xuất: có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với sản xuất. Song việc phân phối và sử dụng các
nguồn lực phải nằm trong phạm vi kiểm soát của Nhà nước nhằm bảo đảm cho sự
phát triển kinh tế - xã hội ổn định và mọi thành viên xã hội phải được thụ hưởng
bình đẳng những lợi ích mà nguồn lực đó đem lại. Vì vậy, chính sách phân phối thu
nhập của nhà nước làm thay đổi tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế trong
quá trình sản xuất. Khi mức thu nhập thay đổi, phương thức và mức độ thỏa mãn
các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế
giữa các chủ thể cũng thay đổi.

 Hội nhập kinh tế quốc tế.

Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường. Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy
mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được
chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc
đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình. Do đó, nền kinh tế thị
trường bản chất là mở cửa hội nhập. Tuy nhiên, mức độ mở cửa và hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới khiến nền kinh tế trong nước có thể bị phụ thuộc và
ảnh hưởng nặng nền bởi những biến động bất lợi của kinh tế thế giới; Một số
ngành sản xuất trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng hóa nước
ngồi; Do tập trung các nguồn lực để phát triển xuất khẩu, chạy theo nhu cầu thị
trường thế giới nên nền kinh tế dễ gặp tình trạng phát triển mất cân đối. Điều đó có
nghĩa là hội nhập kinh tế quôc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều khía cạnh tới lợi

ích kinh tế của các chủ thể.

II, THỰC TIỄN CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
2.1 MỘT SỐ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ CƠ BẢN TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG.
 Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động
(NSDLĐ): NLĐ tích cực làm việc góp phần tăng thu nhập cho NSDLĐ, lợi ích
kinh tế của họ tăng thông qua lương thưởng (thống nhất) hoặc việc có một doanh
7


thu nhất định trong 1 thời điểm nhất định, tăng lợiích kinh tế của NSDLĐ sẽ làm
giảm lợi ích kinh tế của NLĐ (mâu thuẫn).
 Quan hệ lợi ích giữa những NSDLĐ: là đối tác (thống nhất) hoặc là đối thủ cạnh
tranh (mâu thuẫn).
 Quan hệ lợi ích giữa những NLĐ: cùng nhau thực hiện u sách vì lợi ích của
tập thể NLĐ (thống nhất) hoặc cạnh tranh nhau trong một cơ hội làm việc (mâu
thuẫn).
 Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, nhóm và xã hội: NLĐ và NSDLĐ thực hiện đúng
các lợi ích kinh tế của mình giúp phát triển xã hội => tạo môi trường thuận lợi để
các chủ thể thực hiện tốt lợi ích kinh tế của mình (thống nhất) hoặc khi NLĐ và
NSDLĐ xảy ra mâu thuẫn làm tổn hại lợi ích xã hội => làm giảm chất lượng cuộc
sống và ảnh hưởng xấu đến các chủ thể (mâu thuẫn)
2.2 QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
chính là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu
"Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh”.
Quan hệ lợi ích kinh tế giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội: Quan hệ lợi ích

kinh tế giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội được duy trì và đảm bảo bởi Đảng và
nhà nước, trong đó các bộ Luật và chính sách là hai cơng- cụ để quản lý trực tiếp.
Sự thống nhất quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ được tạo lập dựa trên nguyên tắc đôi
bên cùng có lợi trên cơ sở của pháp luật để đảm bảo cho sự phát triển của toàn xã
hội và nền kinh tế quốc dân. Việt Nam phát triển kinh tế thị trường chưa lâu và thị
trường lao động chưa thực sự phát triển. Lực lượng sản xuất đa phần là những
người có trình độ chun mơn hóa thấp đến trung bình như nơng dân thì tập trung
sản xuất tại nơng thơn, ngồi ra họ đi làm các ngành cơng nghiệp khác khơng địi
hỏi về trình độ để kiếm thêm lợi ích cho bản thân, tuy nhiên do khơng có nhiều
kiến thức nên họ dễ phải chịu thiệt. Với tinh thần lấy dân làm gốc, Việt Nam không
ngừng bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Các tổ chức có thể kể đến như Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam… Về phía doanh
nghiệp, doanh nghiệp trong nước chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ và tập trung
sản xuất trong nước. Do quá độ lên kinh tế thị trường nên Việt Nam cũng gặp
khơng ít khó khăn, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác tộng của
các quy luật thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư… khiến
cho lợi ích kinh tế của một bài bộ phận cịn rất khó khăn và hạn chế. Nhà nước đã
8


ban những chính sách để ngăn chặn sự chệnh lệch quá đáng về mức thu nhập, bảm
bảo lợi ích của các chủ thể.

III, CÁC PHƯƠNG THỨC ĐỂ BẢO VỆ LỢI ÍCH HỢP PHÁP KHI THAM
GIA CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ XÃ HỘI
 Điều hịa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật
thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh
tế của một bộ phận dân cư được thực hiện rât khó khăn, hạn chế. Vì vậy, nhà nước
cần có các chính sách, trước hết là chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm

hài hịa các lợi ích kinh tế.
 Kiểm sốt, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát
triển xã hội.
Trong cơ chế thị trường, thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu,
làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo; tham nhũng... tồn tại khá phổ biến. Các hoạt
động này càng gia tăng, càng làm tồn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn
chân chính. Để chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hịa các
lợi ích kinh tế. Trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Bộ
máy nhà nước phải tuyển dụng, sử dụng được những người có tài, có tâm; sảng lọc
được những người không đủ tiêu chuẩn. Cán bộ, công chức nhà nước phải được
đãi ngộ xứng đáng và chịu trách nhiệm đến cùng mọi quyết định trong phạm vi,
chức trách của họ. Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ, cơng chức nhà nước
phải thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật.
Thực hiện cơng khai, minh bạch mọi cơ chế, chính sách và quy định của nhà
nước... Nhờ đó, người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ
được quyền lợi, trách nhiệm của mình. Đồng thời, các cơ quan công quyền, cán bộ,
công chức nhà nước được giám sát, tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách
nhiệm, tham nhũng…

9


KẾT LUẬN
Động lực của sự phát triển xã hội suy cho cùng là kết quả hoạt động có ý thức của
con người nhằm theo đuổi những lợi ích nhất định. Lợi ích là một trong những động
lực cơ bản của sự phát triển xã hội cũng như động lực thúc đẩy hành động của mỗi cá
nhân. Chính vì vậy, quan tâm thực hiện nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội, giải
quyết các quan hệ lợi ích trong xã hội đó chính là tạo ra động lực phát triển xã hội
nhằm đạt được những mục tiêu cao hơn. Động lực lợi ích ln được Đảng ta quan
tâm giải quyết (đặc biệt từ khi đổi mới đến nay), đặt ra vấn đề lớn đó là phải bảo đảm

lợi ích, sự kết hợp hài hịa các lợi ích và đảm bảo phương thức thực hiện lợi ích cơng
bằng, hợp lý cho mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế. Trong đó, quan
hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội là quan hệ lợi ích cơ bản của xã hội, việc
giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là một vấn đề quan
trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu của đất nước.
Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước xuất hiện nhiều mâu thuẫn
lợi ích, địi hỏi phải giải quyết, trong đó mâu thuẫn căn bản hiện nay đó là mâu thuẫn
lợi ích kinh tế giữa cá nhân và xã hội, nhất là trên lĩnh vực sở hữu, phân phối. Những
mâu thuẫn vốn có của các quan hệ lợi ích dưới những tác động từ những mặt trái của
kinh tế thị trường nó trở nên ngày càng phức tạp, đặc biệt là mâu thuẫn giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội, từ đó đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội ln chứa đựng những mâu thuẫn, việc giải quyết quan
hệ lợi ích này không phải theo nghĩa triệt tiêu mâu thuẫn, mà đó là tạo ra một trạng
thái hài hịa, cân bằng năng động, tránh những thái cực cực đoan trong nhận thức và
hành động thực tiễn. Việc giải quyết các mâu thuẫn này một cách hài hòa cần ác định
các quan điểm rõ ràng, có tính định hướng cho sự phát triển, đặc biệt cần kết hợp các
lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”,
phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ. Trên cơ sở đó thực hiện đồng bộ các giải
10


pháp thơng qua các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về sở hữu,
phân phối nhằm hướng tới sự hài hịa lợi ích giữa các chủ thể, nhằm mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin
2, Wikipedia
3, Báo Dân Kinh Tế: />4, Đảng Cộng sản Việt Nam: />5, />

11


12



×