§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN, THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG, LỰA CHỌN ĐỐI
NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC 8
1. Thị trường chứng khoán 8
1.1. Khái niệm 8
1.2. Chức năng, cơ cấu và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng
khoán 9
1.2.1. Chức năng 9
1.2.2. Cơ cấu của thị trường chứng khoán 10
1.2.3. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 12
1.3. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán 13
1.3.1. Tổ chức phát hành 13
1.3.2. Nhà đầu tư 13
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 14
2. Thông tin không cân xứng 15
2.1. Khái niệm về thông tin không cân xứng
15
2.2. Cân bằng thị trường trong điều kiện không cân xứng về thông tin 19
2.2.1. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin đầy đủ 21
2.2.1.1. Cân bằng chung 21
2.2.1.2. Cân bằng riêng 23
2.2.2. Cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin không cân xứng 24
2.2.2.1. Cân bằng chung 25
2.2.2.2. Cân bằng riêng 26
3. Lựa chọn đối nghịch 29
3.1. Khái niệm 29
3.2. Sự hình thành lựa chọn đối nghịch 29
4. Rủi ro đạo đức 32
4.1. Khái niệm 32
4.2. Nguyên nhân xuất hiện rủi ro đạo đức 33
5. Tác động của thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức đối với nền kinh tế 36
5.1. Tác động của thông tin không cân xứng và lựa chọn đối nghịch 36
5.2. Tác động của rủi ro đạo đức 37
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG, LỰA
CHỌN ĐỐI NGHỊCH VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRÊN THỊ
40
1
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành
lập đến nay 40
1.1. Tổng quan tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 40
1.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong hai năm gần
đây 41
1.2.1. Thị trường chứng khoán trong năm 200 41
1.2.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam 10 tháng đầu năm 2003 44
1.2.2.1. Bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đầu năm 2003 44
1.2.2.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán 10 tháng đầu
năm 2003 44
2. Những dấu hiệu về thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và
rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Việt Nam 47
2.1. Những hạn chế trong việc công bố thông tin và quản lý công bố thông
tin là nguyên nhân xuất hiện thông tin không cân xứng 47
2.2. Chênh lệch giữa giá phát hành lần đầu (hoặc giá phát hành thêm) với
giá giao dịch thị trường của chứng khoán 51
2.3. Giá cả cổ phiếu và chỉ số VN-Index không phản ánh đúng tình hình
sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết và thực tế giao dịch trên thị
trường 53
2.4. Những dấu hiệu giao dịch nội gián – một biểu hiện của rủi ro đạo đức 55
3. Những tác động của vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức đến hoạt động của thị trường chứng khoán Việt
Nam 59
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG, LỰA CHỌN ĐỐI NGHỊCH
VÀ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM 61
1. Khuyến khích thành lập các công ty sản xuất và bán thông tin 61
2. Tăng cường sự điều hành của Chính phủ để làm tăng thông tin trên thị
trường chứng khoán 62
3. Khuyến khích thành lập các trung gian tài chính, đặc biệt là các quỹ
đầu tư chứng khoán 63
KẾT LUẬN 65
2
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
PHỤ LỤC 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
3
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
LỜI NÓI ĐẦU
Trong các giao dịch tài chính nói chung và chứng khoán nói riêng, thông
tin giữ vai trò thiết yếu. Nhân tố quan trọng quyết định quy mô, hình thức và
hiệu quả của mỗi giao dịch chính là mức độ cân xứng về thông tin giữa các bên
liên quan. Xét trên tầm vĩ mô, nếu các bên tham gia của bất kỳ giao dịch tài
chính nào trong nền kinh tế đều có đầy đủ thông tin quá khứ, hiện tại và tương
lai liên quan đến giao dịch thì đồng vốn trong nền kinh tế luôn đến được các dự
án đầu tư hiệu quả nhất. Thị trường tài chính khi đó thực hiện tốt nhất chức
năng huy động và phân bổ vốn cho nền kinh tế.
Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở Việt Nam đặt ra một yêu
cầu cấp thiết là phải phát triển thị trường vốn hiệu quả nhằm cung cấp vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế. Để có một thị trường vốn như thế, đòi hỏi
trước mắt là phải xây dựng được một thị trường chứng khoán vững mạnh. Thị
trường chứng khoán sẽ làm tăng tính thanh khoản của các công cụ huy động
vốn, từ đó thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển. Mặt khác, thị trường chứng
khoán khắc phục được đáng kể hạn chế về không gian, thời gian và quy mô
trong việc huy động vốn. Nhận thức tầm quan trọng đó, sau nhiều cố gắng thị
trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động ngày 20/7/2000,
đánh dấu bước chuyển mình của thị trường tài chính Việt Nam.
Tuy nhiên sau hơn ba năm hoạt động, những kết quả đạt được của thị
trường chứng khoán Việt Nam chưa đáp ứng sự mong mỏi và kỳ vọng của cả
nền kinh tế nói chung và giới đầu tư nói riêng. Khi bàn về thực trạng này, hầu
hết các cuộc hội thảo, bài báo đều đề cập đến vấn đề thông tin. Cụ thể, đó là
những hạn chế trong việc công bố thông tin thể hiện ở tính không kịp thời,
thiếu chinh xác, không đầy đủ và chưa thống nhất về cách thức công bố thông
4
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
tin. Chất lượng thông tin còn thấp là một yếu tố kìm hãm cầu chứng khoán. Đó
cũng là nguyên nhân dẫn đến lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, một hậu
quả tất yếu của sự không cân xứng về thông tin. Để thị trường chứng khoán đi
vào hoạt động vững mạnh, một điều không thể thiếu là phải hạn chế tối đa sự
bất cân xứng về thông tin của các cuộc giao dịch. Đây là vấn đề đang thu hút
nhiều sự chú ý và cần phải được giải quyết một cách tối ưu.
Mục đích nghiên cứu
Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu học thuyết thông tin không cân xứng, lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên một số phân đoạn thị trường tài chính
của các nhà kinh tế học trên thế giới, tôi nhận thức rằng giải quyết vấn đề
thông tin không cân xứng là một yêu cầu thiết thực và xuyên suốt trong quá
trình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn
tìm hiểu, phân tích và đánh giá mức độ không cân xứng về thông tin, khảo sát
thực tế vấn đề rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi hoạt
động đến nay. Do những hạn chế cả về chủ quan và khách quan nên luận văn
chỉ hướng vào mục tiêu chủ yếu là phát hiện và phân tích sơ bộ những biểu
hiện của ba nội dung trên. Dựa trên cơ sở đó, một số giải pháp được đề xuất
nhằm hoàn thiện vấn đề thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tôi
cũng hy vọng những phát hiện này xẽ giúp ích cho các nghiên cứu sâu hơn về
vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đề cập đến các khái niệm cơ bản nhất về chứng khoán và thị
trường chứng khoán, đồng thời trình bày chi tiết học thuyết thông tin không
cân xứng và các khái niệm liên quan.
Những vấn đề lý thuyết trên sẽ được vận dụng vào tình hình cụ thể trên
thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi chính thức hoạt động cho đến nay (từ
28/7/2000 đến 31/10/2003).
5
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là
những hiện tượng kinh tế được các nhà kinh tế học trên thế giới nghiên cứu từ
những năm 1960. Tuy nhiên, phải đến những năm 2000 vấn đề này mới thực
sự được quan tâm và nghiên cứu sâu sắc. Các nghiên cứu gần đây tập trung vào
việc xây dựng các mô hình toán và khảo sát thực trạng thông tin không cân
xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên một số phân đoạn của thị
trường tài chính, phổ biến nhất là thị trường bảo hiểm. Các nghiên cứu đều đã
đem lại những kết quả nhất định, đóng góp vào việc xây dựng một mô hình
tổng thể của học thuyết thông tin không cân xứng.
Thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đã có nhiều bài báo, luận văn, luận án và
cả những công trình nghiên cứu cấp bộ, cấp nhà nước tham gia đóng góp, hoàn
thiện hoạt động của thị trường. Tuy nhiên do trong giai đoạn mới hình thành
còn quá nhiều việc phải làm nên chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề
thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường
chứng khoán.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng đóng vai trò chủ đạo trong luận văn vì
những vấn đề đặt ra đều dựa trên cơ sở thực tế khách quan. Bên cạnh đó tôi đã
sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết (thông qua việc tổng hợp và phân
tích các nguồn tài liệu); phương pháp quy nạp và diễn dịch. Với hy vọng mô
hình hoá các quan hệ kinh tế, tôi đã cố gắng vận dụng phương pháp phân tích
cung-cầu thông qua các mô hình cân bằng thị trường ở thị trường có thông tin
không hoàn hảo của một số nhà kinh tế học trên thế giới.
Lợi ích của luận văn
6
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Tôi hy vọng luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cho các nhà đầu tư và
những người quan tâm đến thị trường chứng khoán, thông tin không cân xứng,
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Đây cũng có thể là tài liệu giúp ích cho
các nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề trên.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, tôi tin tưởng rằng nghiên cứu này
sẽ góp phần hoàn thiện vấn đề thông tin và công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, từ đó tạo điều kiện trước mắt và lâu dài cho việc hoạt
động và phát triển của thị trường.
Kết cấu của luận văn
Với các nội dung đã đề cập trên đây, luận văn được kết cấu như sau:
Chương I: Lý luận chung về thị trường chứng khoán, thông tin không
cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Chương II: Vấn đề thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương III: Một số nhận xét và đề xuất phương hướng giải quyết vấn đề
thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường
chứng khoán Việt Nam nhằm thúc đẩy thị trường phát triển.
Nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình từ Thạc sỹ Phạm Song
Hạnh cùng với nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, tôi đã hoàn thành
luận văn này. Tuy nhiên do hạn chế về năng lực, thời gian và nguồn tài liệu
trong khi vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ và tinh tế nên những thiếu sót và
nhầm lẫn là không thể tránh khỏi. Tôi rất cảm ơn và mong nhận được sự phê
bình, góp ý và phát triển thêm từ các Thầy Cô giáo, những nhà nghiên cứu, bạn
bè nhằm hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
7
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
8
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Chương I
Lý luận chung về thị trường chứng khoán,
thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch
và rủi ro đạo đức
1. Thị trường chứng khoán
1.1. Khái niệm
Khái niệm thị trường chứng khoán hình thành và hoàn thiện theo sự phát
triển của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thị trường chứng
khoán là một yếu tố không thể thiếu đối với việc duy trì và phát triển của nền
kinh tế. Cho đến nay, các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều có
thị trường chứng khoán nhưng định nghĩa về thị trường chứng khoán thì có
nhiều cách khác nhau:
Thị trường chứng khoán là một thị trường có tổ chức nơi các chứng
khoán được mua bán theo những nguyên tắc nhất định (theo Longman
Dictionary of Business English, 1985 – nguyên văn: ”Securities market is an
organized market where securities are bought and sold under fixed rules”)
Theo giáo trình “Thị trường chứng khoán” của trường đại học Ngoại
Thương, 1998, thị trường chứng khoán được định nghĩa là “một thị trường mà
ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục
đích kiếm lời”.
Nghị định 48/CP ngày 11/7/1998 quy định: “Thị trường giao dịch tập
trung là địa điểm hoặc hệ thống thông tin, tại đó các chứng khoán được mua,
bán hoặc là nơi tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán”.
9
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Khái niệm thị trường chứng khoán là một khái niệm có tính lịch sử nên
trong thực tế, thuật ngữ thị trường chứng khoán thường có cách hiểu sát thực
hơn và có thể có rất nhiều nội dung mới.
1.2. Chức năng, cơ cấu và nguyên tắc hoạt động của thị trường
chứng khoán.
1.2.1. Chức năng.
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ry phát hành, số tiền nhàn
rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở
rộng sản xuất xã hội. Bằng cáh hỗ trợ các hoạt đọng đàu tư củ công ty, thị
trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính
quyền địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng
và đầu tư phát triển hạ tằng kinh tế, phục vụ các nhu cầu vhung của xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu
tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị
trường rất khác nhau về thời hạn, tính chất và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu
tư có thể lựa chọn cho loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở
thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần đáng kể làm
tăng mức tiết kiệm quốc gia.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các
chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ
muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng
khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của
vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và hiệu quả thì
10
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch
trên thị trường.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản
ánh một cách tổng hợp và kịp thời, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động
của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một
môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích
thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô.
Các dấu hiệu của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền
kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho
thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng, và ngược lại giá chứng
khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị
trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công
cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông
qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ
để tạo ra nguồn thu bù đắp ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ
cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường
chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của
nền kinh tế.
1.2.2. Cơ cấu của thị trường chứng khoán
Có nhiều căn cứ phân loại thị trường chứng khoán nhưng phổ biến và
quan trọng nhất là căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, theo đó thị
trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp
11
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành do đó đây là
nơi duy nhất đem lại vốn đầu tư cho tổ chức phát hành. Việc mua bán trên thị
trường sơ cấp thường diễn ra giữa các ngân hàng, công ty phát hành, và các tập
đoàn tài chính lớn… giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát
hành ấn định và thường được in ngay trên chứng khoán. Như vậy, có thể thấy
rằng, thị trường sơ cấp đóng vai trò chứng khoán hoá các nguồn vốn cần huy
động đồng thời chu chuyển vốn từ nơi thừa vốn tới nơi cần vốn và chuyển nó
thành vốn dài hạn.
Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đóng vai trò đảm bảo tính thanh
khoản cho các chứng khoán đã phát hành và có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán
chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ
không phải nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào
những người phát hành chứng khoán mà vận chuyển giữa những người đầu tư
chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của
thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
Thứ hai, giao dịch trên thị trường thứ cấp thể hiện nguyên tắc cạnh tranh
tự do, giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do quan hệ cung cầu quyết định.
Thứ ba, thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu
tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường này.
Ngoài cách phân loại trên, có thể phân loại thị trường chứng khoán theo
tính chất tập trung của thị trường, theo đó thị trường chứng khoán bao gồm Sở
giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung) và thị trường OTC (thị trường phi
12
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
tập trung). Tại sở giao dịch, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm, các
lệnh được chuyển đến sàn giao dịch và tham gia vào quá trình khớp lệnh để
hình thành giá giao dịch. Trên thị trường OTC, các giao dịch (cả sơ cấp và thứ
cấp) được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán khắp
quốc gia và được nối với nhau bằng mạng máy tính. Giá cả hình thành theo
phương thức thoả thuận.
1.2.3. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
Nguyên tắc cạnh tranh
Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan
hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công
ty. Trên thị trường sơ cấp, các tổ chức phát hành cạnh tranh nhau để bán chứng
khoán của mình cho nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng
khoán theo các mục tiêu của riêng mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu
tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất và giá
cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia
thị trường. Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân
thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chi sẻ thông tin và trong
việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó.
Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là loại hàng hoá có tính trừu tượng, người đầu tư không
thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường
mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy thị trường chứng
khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thông công bố thông tin tốt. Theo luật
định, các bên tham gia phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ,
trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới
13
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng
như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiên
thông tin đại chúng, sở gia dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có
liên quan khác.
Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được
thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị
trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của tổ chức phát
hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua
các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các công ty chứng khoán mua bán chứng
khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau thông qua
việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
Nguyên tắc tập trung
Thị trường chứng khoán phải hoạt động trên nguyên tắc tập trung. Các
giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC, có
sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
Hàng hóa của thị trường chứng khoán là các sản phẩm tài chính cao cấp nên
việc giao dịch đòi hỏi thị trường phải có những cơ sở vật chất nhất định chứ
không thể diễn ra một cách tuỳ tiện.
1.3. Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được
chia thành ba nhóm chính: tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức khác
có liên quan.
1.3.1. Tổ chức phát hành
Tổ chức phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Tổ chức phát hành bao gồm Chính phủ và chính quyền
địa phương (phát hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương), các
14
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
công ty (phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty) và các tổ chức tài chính khác
đóng vai trò cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
1.3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia
mua bán chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì
lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và
ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình
thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độc chấp nhận rủi ro của
mình.
Các nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường
xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này
thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm
để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư
chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các công ty đầu tư, các
công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư
thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh
mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiên bởi các chuyên gia giàu
kinh nghiệp và có chuyên môn cao.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính.
Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng vốn
củ mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích kiếm lợi.
Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng
có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính
mình.
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
15
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán, có thể đảm nhận môt hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo
lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư, và tư vấn đầu tư.
Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm
bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
Các ngân hàng thương mại
Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để
tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên các
ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để
bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước
cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập để kinh doanh
chứng khoán và thực hiên nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Ngoài ba thành phần trên đây, thị trường chứng khoán còn có sự tham
gia không thể thiếu của các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán như:
các cơ quan quản lý nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh
doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán…
2. Thông tin không cân xứng.
Thông tin không cân xứng và những bằng chứng lý thuyết cũng như thực
nghiệm về vấn đề này hiện nay đóng vai trò là công cụ cơ bản của mọi nhà
kinh tế học tài chính trong nền kinh tế hiện đại. Thông tin không cân xứng là
một hiện tượng có ý nghĩa quan trọng đối với một số vấn đề của kinh tế học và
tài chính từ kinh tế học vĩ mô và vi mô (như vấn đề các công cụ nợ của doanh
nghiệp, các chứng chỉ đầu tư và cổ tức, mức đan sâu, rộng và lâu dài của các
chu kỳ kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế dài hạn) đến các vấn đề liên quan đến
kinh tế quốc tế và nguồn gốc của các cuộc khủng hoảng tài chính. Để tạo cơ sở
cho những phân tích tiếp theo của luận văn, trong phần này tôi xin trình bày
16
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
một cách chi tiết học thuyết Thông tin không cân xứng và các khái niệm có liên
quan.
2.1. Khái niệm về thông tin không cân xứng.
Trong mọi nền kinh tế, các giao dịch về tài chính đều hướng đến mục
tiêu cuối cùng là chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến những dự án đầu tư hiệu quả
nhất với chi phí thấp nhất có thể. Nền sản xuất hàng hoá và dịch vụ của xã hội
liên tục phát triển làm gia tăng không ngừng giá trị thặng dư. Chịu tác động bởi
chi phí cơ hội của việc giữ tiền, những chủ nhân của phần giá trị thặng dư đó
luôn tìm kiếm các cơ hội đầu tư tốt nhất. Diễn ra đồng thời với quá trình đó là
sự huy động vốn của các chủ thể kinh tế, những người muốn thành lập hoặc mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự gặp nhau của hai luồng nhu cầu trên
tạo nên các giao dịch về tài chính và tổng hợp tất cả các giao dịch tài chính đó
hình thành thị trường tài chính của một quốc gia.
Tuy nhiên sẽ là không đơn giản để các giao dịch về tài chính đạt đến
mục tiêu cuối cùng trên đây. Nguyên nhân là do sự tương hợp về yêu cầu giữa
người cho vay và người đi vay không phải bao giờ cũng đạt được.
Từ phía người cho vay, với vai trò là người sở hữu vốn, yêu cầu đảm bảo
an toàn cho đồng vốn luôn được đặt lên trước tiên. Họ yêu cầu người vay vốn
đưa ra những bằng chứng cho thấy tính an toàn của đồng vốn và điều đó phải
được thể hiện thực tế thông qua việc hoàn trả vốn khi thời hạn vay kết thúc.
Yêu cầu chung thứ hai của người cho vay là thu được lãi suất kỳ vọng vào
đúng thời điểm cam kết. Vì những người cho vay chấp nhận cho vay là để
chống lại chi phí cơ hội của việc giữ tiền mà biểu hiện ra chính là lãi suất huy
động vốn (i) của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, nên lãi suất kỳ
vọng không thể thấp hơn i. Ngoài hai yêu cầu trên, trong những tình huống cụ
thể người cho vay còn có những yêu cầu khác về hình thức trả lãi, cung cấp
thông tin, … nhưng tựu chung lại đó cũng chỉ là các yêu cầu phái sinh nhằm
đảm bảo hai yêu cầu trên đây.
17
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Đối với người đi vay, tìm được nguồn vốn đủ lớn về quy mô, đủ dài về
thời hạn với lãi suất và các ràng buộc hợp lý là những yêu cầu cơ bản và quan
trọng nhất. Việc xác định như thế nào là “đủ” và “hợp lý” tương ứng phụ thuộc
vào dự định sử dụng vốn và thoả thuận của hai bên trên cơ sở các điều kiện cho
vay áp dụng phổ biến trong nền kinh tế. Như vậy, người đi vay phải một mặt
thoả mãn được các yêu cầu của người cho vay và mặt khác phải đáp ứng được
các yêu cầu đi vay của chính mình. Vì vậy, khả năng một giao dịch tài chính
được thực hiện phụ thuộc chủ yếu vào người đi vay.
Tuy nhiên trong các giao dịch tài chính luôn xuất hiện một mâu thuẫn cơ
bản và cố hữu, một mâu thuẫn tạo nên cơ sở tồn tại của các điều kiện cho vay
trong các tổ chức tài chính, đó là sự không cân xứng về thông tin giữa người
cho vay và người đi vay. Người cho vay đóng vai trò cung cấp vốn trong giao
dịch tài chính và thường không có sự khác biệt lớn về đồng vốn giữa những
người cho vay (sự khác biệt chủ yếu nằm ở thời hạn cho vay và các ràng buộc
liên quan). Nói cách khác, những thông tin về phía đối tác của mình mà người
đi vay có được là tương đối đồng nhất. Người đi vay có thể huy động từ một
trong những người cung cấp vốn mà không cần quan tâm nhiều đến bên cho
vay vì chỉ cần vay được vốn là họ đã đạt được gần như hoàn toàn mục đích của
một giao dịch tài chính.
Mọi chuyện hoàn toàn khác đối với người cho vay. Họ có quyền lựa
chọn một trong số những người hỏi vay, lúc này họ có cả quyền sử dụng và
định đoạt đối vơi đồng vốn, nghĩa là họ có quyền sở hữu đầy đủ. Nhưng ngay
sau khi giao dịch tài chính diễn ra, quyền sở hữu đó bị chia đôi, quyền sử dụng
vốn đã được chuyển sang phía người vay vốn! Nếu không có vật thế chấp hoặc
bảo lãnh của một tổ chức tài chính mạnh, người cho vay chỉ còn sự thừa nhận
về mặt pháp lý đối với khoản tiền đó, họ không cầm giữ và cũng không sử
dụng nó. Điều này đồng nghĩa với việc rủi ro thu hồi vốn tăng lên và mức độ
rủi ro phụ thuộc hoàn toàn vào người vay vốn.
18
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Do vậy, những gì người cho vay phải làm để hạn chế rủi ro là phải thu
thập và phân tích các thông tin liên quan đến người vay vốn. Họ cần biết người
đi vay sử dụng đồng vốn như thế nào, mức độ rủi ro cao hay thấp, sức mạnh tài
chính, mức độ tin tưởng, nguy cơ dẫn đến việc sử dụng vốn không đúng cam
kết của người vay, … Tuy nhiên những thông tin như thế đến với người cho
vay thường không đầy đủ hoặc thiếu chính xác dẫn đến những lựa chọn của
người cho vay có thể là một “lựa chọn đối nghịch”
Tóm lại, trong các giao dịch tài chính thường có sự chênh lệch về thông
tin giữa các bên tham gia, đó chính là hiện tượng thông tin không cân xứng.
Cho đến nay, qua nhiều nghiên cứu, các nhà kinh tế học có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về thông tin không cân xứng:
Theo nhà kinh tế học Markusk K.Brunnermeier, Đại học Boston:
“Thông tin không cân xứng là hiện tượng người đi vay có thông tin tốt hơn
người cho vay”
1
.
Theo hai nhà kinh tế học Udo Schmidt Mohr (University des Saarlandes)
và J.Miguel Villas-Boas (University of California at Berkeley) trong cuốn
“Assymetric Information and the Market Structure of the Banking Industry”
(tạm dịch: Thông tin không cân xứng và cấu trúc thị trường của ngành ngân
hàng): Thông tin không cân xứng là tình trạng trong đó người mua và người
bán có thông tin khác nhau về cùng một giao dịch.
Theo nhà kinh tế học Fredic S.Miskin Đại học Columbia, Hoa Kỳ:
“Thông tin không cân xứng là sự không ngang bằng về một thông tin mà mỗi
bên tham gia vào một giao dịch biết được”
2
.
Có thể định nghĩa khái niệm thông tin không cân xứng theo nhiều cách
khác nhau. Tuy nhiên mọi trường hợp không cân xứng về thông tin đều có ba
đặc điểm cơ bản sau:
1
“Asset pricing under Assymetric Information: Bubbles, Crashes, Technical Analysis and Herding”, NXB Đại
học Boston, 1999, trang 27, dòng 18.
2
“Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”, NXB Khoa học Kỹ thuật, 1999, trang 907.
19
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
Thứ nhất, có sự khác biệt về thông tin giữa các bên tham gia giao dịch.
Thứ hai, có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa hai bên.
Thứ ba, trong hai bên có một bên có thông tin chính xác hơn.
Mỗi thị trường đều đạt đến một trạng thái cân bằng sau sự tương tác qua
lại giữa người mua và người bán dưới sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật.
Trên cơ sở sự cân bằng đó, các quan hệ kinh tế được phân tích chi tiết hơn. Tuy
nhiên, vị trí cân bằng trên các thị trường có thông tin không cân xứng có nhiều
thay đổi. Để phân tích chi tiết hơn sự tác động của thông tin không cân xứng
đến hoạt động của thị trường, ta cần nghiên cứu cách đạt đến cân bằng thị
trường và các yếu tố quyết định đến sự cân bằng đó.
Trên mỗi thị trường, đặc điểm của sự không cân xứng về thông tin và
tính chất tác động đến cân bằng thị trường không giống nhau. Vai trò của thông
tin trên thị trường càng cao thì vấn đề thông tin không cân xứng trên các thị
trường đó càng rõ rệt và thu hút nhiều sự quan tâm của những người tham gia.
Thông tin không cân xứng xuất hiện phổ biến trên các thị trường tài chính, đặc
biệt là thị trường tín dụng và bảo hiểm. Trong phần dưới đây, tôi xin trình bày
sự cân bằng trên các thị trường bảo hiểm xuất hiện thông tin không cân xứng
dựa trên một nghiên cứu về thị trường bảo hiểm thu hoạch nông sản của Mỹ do
hai nhà kinh tế học Shiva S.Makki và Agapi Somwaru thuộc Vụ Kinh tế học
Thị trường và Thương mại, Viện Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
thực hiện tháng 4, 2001. Việc lựa chọn thị trường bảo hiểm là xuất phát từ
nhiều nguyên nhân: thứ nhất, bảo hiểm là lĩnh vực mà thông tin đóng vai trò
đặc biệt quan trọng và thể hiện rõ ràng nhất những đặc điểm của thông tin
không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức; thứ hai, rủi ro đạo đức
trên thị trường này thường xuyên xảy ra vì sau khi được bảo hiểm, người được
bảo hiểm có ít nỗ lực hơn trong việc bảo vệ đối tượng bảo hiểm; thứ ba, đã có
nhiều nghiên cứu được thực hiện trên nhiều loại thị trường bảo hiểm nên các
mô phân tích đều đã được khẳng định tính đúng đắn. Dựa trên các phân tích đó,
20
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
việc vận dụng nghiên cứu trên thị trường này sang các lĩnh vực khác có nhiều
điểm tương đồng và do đó sẽ đóng góp rất lớn trong những phần tiếp theo của
luận văn.
2.2. Cân bằng thị trường trong trường hợp không cân xứng về
thông tin
Trên các thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng,
hiện tượng thông tin không cân xứng luôn đi kèm và có mối quan hệ mật thiết
với vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Trên thị trường bảo hiểm, lựa
chọn đối nghịch phát sinh do các công ty bảo hiểm không thể phân loại một
cách triệt để mức độ rủi ro của những người tham gia bảo hiểm. Sau khi mua
bảo hiểm, người được bảo hiểm không có động lực để hạn chế rủi ro. Những
rủi ro như vậy gọi là rủi ro đạo đức và người chịu rủi ro này không ai khác
chính là công ty bảo hiểm. Nghiên cứu sắp trình bày dưới đây giả thiết rằng các
cá nhân tham gia bảo hiểm không có khả năng phân phối rủi ro.
Những nghiên cứu trên thị trường bảo hiểm thân thể và xe hơi của một
số nhà kinh tế học trên thế giới đã đi đến đến kết luận rằng lựa chọn đối nghịch
khiến những người có rủi ro thấp không muốn tham gia bảo hiểm đồng thời tạo
ra hiện tượng chuyển thu nhập từ những người có mức rủi ro thấp sang những
người có mức rủi ro cao.
Để xác định cân bằng thị trường trong điều kiện thông tin không cân
xứng trên thị trường bảo hiểm, trước tiên cần xem xét quá trình đạt đến cân
bằng trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo bằng cách sử dụng lý thuyết cung-cầu
thị trường.
Giả sử một cá nhân X muốn mua một hợp đồng bảo hiểm để ổn định thu
nhập trước các rủi ro. Để đơn giản ta giả thiết có hai khả năng xảy ra: có tổn
thất và không có tổn thất. Giả sử tiếp rằng X muốn tối đa hoá thu nhập. Nếu
không có hợp đồng bảo hiểm, anh ta sẽ có tổng thu nhập kỳ vọng là:
21
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
V(m,p) = (1 - p)U(m) + pU(m – d) (1)
Trong đó:
m: thu nhập
p: xác suất xảy ra tổn thất
U(x): hàm thu nhập
V: tổng trị giá thu nhập kỳ vọng.
Nếu mua bảo hiểm với mức phí bảo hiểm a và mức bồi thường i, tổng
thu nhập kỳ vọng của X là:
V(a,i,p) = (1 – p)U(m – a) + pU(m – d – a + i) (2)
Giả sử rằng X là người không thích mạo hiểm, khi đó U luôn giảm (tức
là U’(x) < 0) đồng thời đồ thị của U là một đường cong lõm (do đó V cũng là
một đường cong lõm). Trong các hợp đồng bảo hiểm, X sẽ chọn hợp đồng có
V cực đại.
Giả sử tiếp rằng thu nhập từ các hợp đồng bảo hiểm của công ty bảo
hiểm phụ thuộc vào các biến ngẫu nhiên. Do vậy, khi bán được hợp đồng bảo
hiểm, công ty xẽ thu được (1 - p)a và phải trả p(i - a) khi tổn thất xảy ra. Lợi
nhuận của công ty là:
π (a,i,p) = (1 - p)a - p(i - a) (3)
Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận của công ty bằng 0 nên:
(1 - p)a - p(i - a) = 0 (4)
Mỗi hợp đồng bảo hiểm được đặc trưng bởi mức phí bảo hiểm a và mức
bồi thường i. Do đó, phương trình (4) thể hiện tất cả các hợp đồng bảo hiểm
của công ty. Tại một xác suất xảy ra rủi ro nhất định p, công ty sẽ định giá a và
i sao cho phương trình (4) được thoả mãn.
Tức là: (1 - p)a -p(i - a) = 0
22
Đỗ Hoài Giang, Lớp A4 K38B - KTNT
hay a - pi = 0
Phng trỡnh (2) v phng trỡnh (4) th hin ng cu v cung bo
him. S tng tỏc gia cung v cu bo him c th hin trờn trc m
1
0m
2
,
trong ú m
1
v m
2
th hin thu nhp trong hai trng hp tng ng: khụng cú
tn tht v cú tn tht.
2.2.1. Cõn bng th trng trong iu kin thụng tin y .
Trờn th trng bo him cnh tranh hon ho, cú hai kiu cõn bng l
cõn bng chung v cõn bng riờng. Cõn bng chung xy ra khi th trng cú
mt loi khỏch hng ng nht v mc ri ro, cụng ty bo him ch cn nh
giỏ mt loi hp ng bo him. Trong trng hp cõn bng riờng, th trng
cú nhiu nhúm khỏch hng khỏc nhau v mc ri ro. Khi ú, cụng ty bo
him bỏn cỏc hp ng bo him cỏc mc giỏ khỏc nhau cho tng i tng
khỏch hng cú ri ro phự hp. Th trng t n cõn bng ti nhiu im
ng vi tng loi khỏch hng.
2.2.1.1. Cõn bng chung
E
K
F
U
T
m
1
m
2
m - a - d + i
m - d
m a
m
Hình 1.1: Cân bằng thị trường trong
điều kiện thông tin đầy đủ và
một mức rủi ro
ì
nh 1.1
O
Hỡnh 1.1 biu din im cõn bng chung ca th trng bo him cnh
tranh hon ho vi mt loi khỏch hng ng nht v 1 t l xỏc sut xy ra
23
§ç Hoµi Giang, Líp A4 K38B - KTNT–
rủi ro, trong điều kiện thông tin đầy đủ. Trục hoành m
1
và trục tung m
2
biểu
diễn thu nhập trong hai trường hợp tương ứng: không có tổn thất và có tổn
thất. Đường cong U thể hiện tập hợp các điểm kết hợp thu nhập của người mua
bảo hiểm trong hai trường hợp trên, phụ thuộc vào a, i và d, chính là đường cầu
bảo hiểm. Đường thẳng OT biểu diễn các tập hợp điểm có kết hợp thu nhập
bằng nhau dù tổn thất có xảy ra hay không. Đường thẳng EF là đồ thị của
phương trình (4) biểu diễn các kết hợp thu nhập của công ty bảo hiểm và chính
là đường cung bảo hiểm. Độ dốc của đường EF được xác định bằng tỷ lệ
p
p
−
1
. Độ dốc của đường U được xác định bằng tỷ lệ thay thế cận biên của thu nhập
trong hai trường hợp m
1
và m
2
, tức là bằng
)(
)(
2
1
'
'
mU
mU
.
Thị trường đạt tới trạng thái cân bằng khi độ dốc của đường cầu U bằng
độ dốc của đường cung EF. Giả X có điểm kết hợp thu nhập ban đầu tại E. Tại
điểm này X sẽ có thu nhập m nếu tổn thất không xảy ra và m - d nếu tổn thất
xảy ra. Để hạn chế rủi ro, X mua một hợp đồng bảo hiểm dọc theo đường EF.
Trong số các hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng tại điểm K tối đa hoá thu nhập kỳ
vọng của anh ta. Hợp đồng tại K là một hợp đồng bảo hiểm toàn bộ rủi ro và
cân bằng thu nhập của X trong cả hai trường hợp có hay không có tổn thất. Tại
điểm cân bằng, hợp đồng được mua bán trong điều kiện cả hai bên đều biết rõ
về nhau. Vì vậy K chính là điểm cân bằng trong điều kiện thông tin đầy đủ, lúc
này người bảo hiểm không có lãi (π = 0).
2.2.1.2. Cân bằng riêng
Hình 1.2 dưới đây biểu diễn điểm cân bằng của thị trường bảo hiểm cạnh
tranh hoàn hảo, đầy đủ thông tin nhưng những người tham gia bảo hiểm có
mức rủi ro khác nhau. Để đơn giản, ta giả sử chỉ có hai nhóm khách hàng: LR
và HR với xác suất xảy ra rủi ro tương ứng là p
H
và p
L
(p
H
> p
L
).
24
Đỗ Hoài Giang, Lớp A4 K38B - KTNT
E
O
m
1
m
2
U
L
U
H
A
B
H
F
Hình 1.2: Cân bằng thị trường trong
điều kiện thông tin đầy đủ
và nhiều mức rủi ro
T
Vn vi cỏc gi thit nh phn trờn ta thy:
Cỏc hp ng bo him cú ri ro thp c th hin trờn ng EF, cú
dc l (1 p
L
)/p
L
. Cỏc hp ng bo him cú ri ro cao c tp hp trờn
ng EH, cú dc bng (1 p
H
)/p
H
.
Trong trng hp ny, dc v lừm ca ng cu ng vi mi
nhúm khỏch hng ph thuc vo mc tn tht khi ri ro xy ra (d) v c im
ri ro (tu theo tng c im ri ro m cụng ty bo him a ra mc phớ a v
mc bi thng i phự hp). Gi hai ng ny tng ng l U
L
v U
H
.
Vỡ cụng ty bo him bit rừ xỏc sut xy ra ri ro ca hai nhúm khỏch
hng nờn h s a ra hai loi hp ng bo him tng ng vi hai mc ri
ro. Ti im cõn bng, c hai nhúm khỏch hng u c bo him ton b ri
ro v mt mc giỏ c cụng bng.
2.2.2. Cõn bng th trng trong iu kin thụng tin khụng cõn
xng.
Nh kinh t hc Akerlof, trong nghiờn cu v thụng tin khụng cõn xng
nm 1970 ó a ra nhng vn phỏt sinh trờn th trng bo him thõn th
khi ngi c bo him bit rừ tỡnh trng sc kho ca mỡnh cũn cụng ty bo
25