TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ CẦN THIẾT
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học
TP. HỒ CHÍ MINH
MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................2
PHẦN 1: MỞ ĐẦU....................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................2
PHẦN 2: NỘI DUNG................................................................................................3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ...................3
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN..................................................................................................................3
1.1 Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa...................3
1.2 Khái quát sự hình thành và nội dung tư tưởng về Nhà nước pháp quyền....9
CHƯƠNG 2: SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................13
2.1 Nguyên nhân dẫn đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội...........13
chủ nghĩa ở Việt Nam là cần thiết....................................................................13
2.2 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..................................14
2.3 Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa..........15
Việt Nam hiện nay............................................................................................15
PHẦN 3: KẾT LUẬN..............................................................................................19
Danh mục tài liệu tham khảo....................................................................................20
1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo và xây dựng đất nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xuất phát từ truyền thống dân tộc và đặc điểm Việt Nam, vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác-Lênin về nhà nước cách mạng. Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa của nhân loại về nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm xây dựng
nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới, từng bước xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mang đậm nét dân tộc và
nhân văn, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX đã khẳng định: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Ngay từ buổi đầu được thành lập và
trong suốt quá trình xây dựng, phát triển. Nhà nước ta đã mang những yếu tố của
Nhà pháp quyền xã hội chủ nghĩa, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân,
của dân tộc. Hiến Pháp năm 1992 sửa đổi đã thể chế hóa nghị quyết Đại hội Đảng
nhấn mạnh “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, một đạo luật cơ bản
chính thức ghi nhận Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước thực hiện việc quản lí xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã
khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế khách quan mang tính quy luật của q
trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên
thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp
vào cơng việc nội bộ của nhau. Những năm gần đây, Việt Nam đã và đang nỗ lực
2
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là quá trình
tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự đồng thuận theo tư tưởng phát triển của
thời kì mới đã được Đảng cộng sản Việt Nam đề ra nhằm đạt tới mục tiêu xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ý thức được tầm quan trọng của việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với sự thành cơng của cơng cuộc
đổi mới đất nước nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự cần thiết xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Tìm hiểu về sự cần thiết xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ
thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch… Ngồi ra cịn
kết hợp với tra cứu, tìm kiếm tài liệu, tổng hợp, phân tích thơng tin và đưa ra những
nhận xét, đánh giá. Vận dụng những quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái
qt và mơ tả, phân tích, tổng hợp nhằm nắm rõ sự cần thiết xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN
1.1 Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.1.1 Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Tính tất yếu lịch sử:
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng, Cách mạng vô sản và sự ra đời của
nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu lịch sử. Tính tất yếu này được quy định bởi
những mâu thuẫn nội tại phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính trong
lịng xã hội tư bản đã chứa đựng các yếu tố làm tiền đề cho sự ra đời của nhà nước
xã hội chủ nghĩa: tiền đề về kinh tế, chính trị và xã hội.
Những tiền đề về kinh tế:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vào khủng hoảng trầm trọng, giải quyết các vấn đề
kinh tế, cứu vãn nền kinh tế. Để bảo vệ tài sản riêng của “giai cấp tư sản” và thu
được lượng lớn giá trị thặng dư, giai cấp tư sản đã làm mọi cách để duy trì quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa theo phương thức truyền thống, từ đó càng làm trầm
trọng thêm những mâu thuẫn trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sản xuất và
năng suất. Với việc tập trung tư bản, năng suất đã phát triển đến mức cao. Lực
lượng sản xuất ở trình độ cao này địi hỏi phải có sự cải tiến về quan hệ sản xuất
cho phù hợp, sự cải tiến này phải được thực hiện thông qua một cuộc cách mạng xã
hội, cuộc cách mạng này tất yếu dẫn đến sự thay thế kiểu nhà nước tư sản bằng
kiểu nhà nước mới Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tiền đề về xã hội:
Tính chất của quan hệ sản xuất là nhân tố quyết định bản chất của đất nước.
Với đặc điểm của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là sở hữu tư nhân về tư
4
liệu sản xuất và bị bóc lột tối đa giá trị thặng dư.
Tiền đề tư tưởng – chính trị:
Giai cấp cơng nhân có vũ khí lý luận và tư tưởng sắc bén, đó là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, hiểu đúng các quy luật vận động
và phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
là cơ sở lý luận để giai cấp công nhân tổ chức, thực hiện các cuộc cách mạng và
xây dựng đất nước, xã hội. Trong cuộc đấu tranh này, nòng cốt lãnh đạo là Đảng
Cộng sản, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo phong
trào cách mạng của quần chúng trở thành nhân tố quyết định để Đảng Cộng sản
giành được thắng lợi của cách mạng vô sản. Bên cạnh những tiền đề kinh tế - xã
hội, tư tưởng, chính trị chung của tồn thế giới thì ở mỗi nước với những đặc điểm
riêng cũng có những nhân tố tác động trở lại cách mạng vơ sản. Vì vậy, các cuộc
cách mạng vơ sản ở các nước và các thời kỳ khác nhau không hồn tồn giống nhau
về hình thức. Cách mạng vơ sản diễn ra nhanh hay chậm là do nhiều yếu tố tác
động.
Cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước vơ sản:
Tiền đề kinh tế, chính trị, tư tưởng mới là nguyên nhân của cách mạng vô
sản. Nhưng cách mạng vơ sản nổ ra như thế nào, hay nói cách khác, giai cấp vô sản
sẽ tiến hành cách mạng vô sản như thế nào và làm cho cách mạng thành công là
một vấn đề khác.
Về vấn đề này, Lê-nin đã nhận xét: “Mọi vấn đề cách mạng đều là vấn đề
chính quyền”. Mục đích của giai cấp vơ sản là thành lập nhà nước của riêng mình,
nhà nước vơ sản, sau khi cách mạng vơ sản lật đổ chính quyền tư sản.
Về bản chất, cách mạng vô sản phải khác các cuộc cách mạng khác. Nếu các
cuộc cách mạng trước làm hoàn thiện bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị là
thiểu số trong xã hội thì cách mạng vô sản phải đập tan bộ máy nhà nước cũ, thiết
lập bộ máy nhà nước mới của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội. Nhận thức
5
về vấn đề này, Đảng ta ngay từ Hội nghị trung ương lần thứ VIII (năm 1941) đã xác
định: “Cách mạng Việt Nam muốn dành được thắng lợi thì nhất thiết phải vũ trang
khởi nghĩa dành chính quyền và sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ
thành lập một Chính phủ cách mạng của nước Việt Nam dân chủ cộng hồ, chính
phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do quốc dân đại hội cử lên”.
1.1.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có hai bản chất là tính giai cấp và tính xã
hội
Tính giai cấp:
Sản phẩm của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và nông dân tiến hành.
Luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội tiên phong giai cấp công nhân và nông
dân. Là công cụ bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị, tư tưởng của giai cấp công nhân.
+ Kinh tế: từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, xây dựng và bảo vệ chế
độ sở hữu toàn dân, bảo vệ địa vị của người lao động.
+ Chính trị: nhà nước là công cụ của nhân dân lao động trấn áp sự phản
kháng của giai cấp thống trị cũ đã bị lật đổ và các thế lực thù địch, phản động, phản
cách mạng. Trấn áp của đại đa số đối với thiểu số nhỏ có hành vi chống đối.
+ Tư tưởng: truyền bá rộng rãi và bảo vệ vững chắc những tư tưởng cách
mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tính xã hội:
Là tổ chức của quyền lực chung của xã hội, có sứ mệnh Tổ chức và quản lý
các mặt của đời sống, nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Không chỉ
quản lý, nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện hoạt động kinh tế – xã hội và quan tâm
đến vấn đề con người.
1.1.3 Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khái niệm chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
6
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương hướng hoạt động
cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước trong
các giai đoạn phát triển cụ thể.
Các chức năng đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chức năng kinh tế
Chức năng kinh tế là chức năng cơ bản, đặc thù của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, chức năng này xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa khơng
chỉ là một bộ máy hành chính – cưỡng chế mà còn là một tổ chức quản lý kinh tế –
xã hội của nhân dân.
Trong từng giai đoạn phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa chức năng
kinh tế có những biểu hiện cụ thể tuỳ thuộc vào nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước ở
trong giai đoạn phát triển cụ thể. Trước đây, trong nền kinh tế tập trung, để thực
hiện chức năng kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa tự biến mình thành một tổ chức
siêu kinh tế, không chỉ dừng lại ở hoạt động quản lý, nhà nước còn tham gia trực
tiếp vào hoạt động sản xuất và phân phối sản phẩm. Hiện nay trong nền kinh tế thị
trường, đa thành phần kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng kinh tế của
nhà nước xã hội chủ nghĩa hướng tới các nhiệm vụ sau:
Tạo lập, bảo đảm môi trường lành mạnh để giải phóng các tiềm năng phát
triển kinh tế, xây dựng và bảo đảm các điều kiện chính trị, pháp luật, xã hội, tổ
chức ổn định cho sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế.
Củng cố, phát triển các hình thức sở hữu trên cơ sở bảo đảm vai trị chủ đạo
của hình thức sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể.
Tạo các tiền đề cần thiết cho sự hội nhập của các thành phần kinh tế trong
nước vào thị trường kinh tế quốc tế.
Chức năng xã hội.
Nhiệm vụ quan trọng của một nước xã hội chủ nghĩa là giải quyết các yêu
cầu và nhu cầu đời sống của nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
7
minh, tất cả vì giá trị của con người. Nền kinh tế thị trường do các nước xã hội chủ
nghĩa thiết lập đã đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết như: văn hóa, giáo dục, y tế, việc làm ... Vì vậy, một trong những chức năng
quan trọng của một nước xã hội chủ nghĩa là giải quyết các nhiệm vụ được xã hội
giao phó và đạt được sự phát triển bền vững theo định hướng con người.
Chức năng giữ vững an ninh – chính trị, bảo vệ trật tự an tồn xã hội, bảo vệ
các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Đây là một trong những chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
trong tất cả các giai đoạn phát triển.
Nội dung của chức năng này thể hiện ở những mặt cơ bản sau:
Nhà nước phải tăng cường sức mạnh về mọi mặt, sử dụng các hình thức và
phương pháp để giữ vững sự ổn định chính trị, kiên quyết chống lại những ý đồ,
hành vi nhằm gây mất ổn định an ninh – chính trị của đất nước.
Bảo vệ và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Không ngừng mở
rộng việc ghi nhận các quyền con người thành các quyền công dân; xác lập cơ chế
pháp lý hữu hiệu nhằm bảo đảm cho các quyền tự do, dân chủ của công dân được
thực hiện trên thực tế; phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, nghiêm minh các
hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Bảo vệ trật tự, an tồn xã hội, khơng ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, thiết lập trật tự pháp luật. Để thực hiện điều này đòi hỏi các cơ quan nhà
nước phải tích cực chủ động trong hoạt động của mình, nâng cao hiệu quả hoạt
động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, kết hợp sức
mạnh của nhà nước với sức mạnh của xã hội để ngăn ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật đặc biệt là tội phạm.
Các chức năng đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
8
Đây là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa
nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc gia, bảo đảm sự ổn định cho quốc gia.
Để thực hiện chức năng này các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều tập trung xây dựng
một qn đội chính quy hiện đại có đủ khả năng đối phó với các mưu đồ can thiệp
bằng vũ trang từ bên ngoài vào các nhà nước.
Nhà nước Việt Nam, để thực hiện tốt chức năng bảo vệ tổ quốc, bên cạnh
việc xây dựng quân đội chính quy, từng bước hiện đại, có khả năng chiến đấu cao
cịn xây dựng một nền quốc phịng tồn dân, thực hiện chính sách giáo dục quốc
phịng và an ninh cho tồn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện chính
sách hậu phương – quân đội.
Chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo
ngun tắc bình đẳng cùng có lợi, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau.
Mục đích của chức năng này nhằm mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào việc thiết lập một thế giới dân chủ
và tiến bộ.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp hiện nay, với sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới,
hoạt động đối ngoại của nhà nước ngày càng trở nên đa dạng về hình thức, phong
phú về nội dung. Hiện nay nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa, quan hệ với
tất cả các nước, mở rộng quan hệ và hợp tác kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và
kỹ thuật theo các nguyên tắc của pháp luật quốc tế.
Hiện nay Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế. Trên các diễn
đàn quốc tế và khu vực Nhà nước ta luôn tỏ rõ thiện chí và nỗ lực nhằm góp phần
xây dựng một thế giới ổn định, hịa bình, phát triển. Do vậy, vị trí và ảnh hưởng của
Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế.
9
1.2 Khái quát sự hình thành và nội dung tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
1.2.1 Sự hình thành và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền
Từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng đã đề cập đến những nguyên tắc, những
hình thức, cũng như cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với việc
đề cao pháp luật. Những tư tưởng đề cao pháp luật trong mối quan hệ với quyền lực
nhà nước ra đời lúc bấy giờ đều có nguồn gốc sâu xa từ những ước mơ của con
người về sự chiến thắng của cơng lý, của chính nghĩa đối với bạo lực.
Sau cuộc cách mạng tư sản, các tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được
tiếp tục phát triển và dần dần đã hình thành một hệ thống lý luận trong các học
thuyết chính trị pháp lý. Trong đó nổi bật nhất là các tư tưởng về nhà nước pháp
quyền sau đây:
Pháp luật chính là một cơng cụ bảo vệ quyền tự do. Các quyền con người
(gồm tự do, bình đẳng và sở hữu) là tự nhiên và không bị tước đoạt. Nhà nước được
lập nên là để bảo vệ các quyền của con người, bảo vệ pháp luật, ở đâu không có
pháp luật thì ở đó sẽ khơng có tự do, bởi vì pháp luật chính là cơng cụ cơ bản quyết
định việc giữ gìn và mở rộng quyền tự do cá nhân, đồng thời đảm bảo cho các cá
nhân tránh khỏi sự tùy tiện và độc đoán của người khác.
Đối lập với nhà nước pháp quyền chính là nhà nước cực quyền với bộ máy
nhà nước quan liêu và hệ thống pháp luật mang tính chất mệnh lệnh, tùy tiện, duy ý
chí tạo thành.
Phải phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền đó là quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp để bảo đảm sự thực thi pháp luật. Sự tồn tại của
chế độ chuyên chế dựa vào việc làm cho con người khiếp sợ, đó chính là nhà nước
của sự độc đoán và tùy tiện. Bởi vì trong nhà nước đó khơng có pháp luật; hoặc nếu
có thì khơng được tn thủ trong thực tế. Do đó, địi hỏi phải phân chia quyền lực
nhà nước thành ba quyền là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Việc chia quyền này bắt nguồn từ lợi ích chung của nhân dân, từ việc bảo đảm cho
10
cơng dân tránh khỏi những tình trạng khơng pháp luật cũng như sự tùy tiện và việc
lạm quyền từ phía các quan chức của bộ máy nhà nước. Chỉ có sự phân chia và
điều hịa giữa ba quyền mới có khả năng ngăn ngừa chế độ chuyên chế độc tài. Các
quyền của nhân dân trên thực tế chỉ có thể thực hiện thông qua việc phân công
quyền lực nhà nước.
1.2.2 Các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ
vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà
nước.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ,
đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ
của mình thơng qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật ln giữ vai trị điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ
hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của
mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có
thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ
thống pháp luật dân chủ, cơng bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền
trong nhà nước và xã hội.
Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước.
Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền
con người, tạo mọi điều kiện cho cơng dân thực hiện quyền của mình theo đúng các
quy định của luật pháp.
11
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương
diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mơ hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân
được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì
luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm.
Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện
theo các nguyên tắc dân chủ: phân cơng quyền lực và kiểm sốt quyền lực.
Tính chất và cách thức phân cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước rất đa dạng,
tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung
là quyền lực nhà nước khơng thể tập trung vào một người, vào một cơ quan, mà
phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ
với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên
ngoài bộ máy nhà nước.
Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật phù hợp.
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật
dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là
một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn
được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có
thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao,
bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của
Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này.
Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền ln địi hỏi phải xây
dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để
duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
12
Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong
các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trị, chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mơ hình kinh
tế thị trường, theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của
thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc
phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.
Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã
hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trị và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội
(các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy
định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước
pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi
Hiến pháp và pháp luật.
13
CHƯƠNG 2: SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Nguyên nhân dẫn đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là cần thiết
Một là, nhằm duy trì và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước Việt Nam,
nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành của tất cả các khâu trong hệ thống
chính trị; đấu tranh chống quan liêu, tham những, tiêu cực, lãng phí, làm sạch bộ
máy Đảng và Nhà nước.
Chúng ta phát triển đi lên từ chế độ phong kiến ít nhiều cịn ảnh hưởng bởi tư
tưởng phong kiến, bộ máy nhà nước cũng vậy. Tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là cái
xấu của xã hội cũ để lại, nó như một cái ung nhọt cịn sót lại trên cơ thể (theo Hồ
Chủ tịch). Vì vậy xây dựng nhà nước pháp quyền với mục đích đề cao việc tuân thủ
pháp luật, ngay cả cơ quan nhà nước, để hạn chế những dư âm mà xã hội cũ để lại.
Thực tiễn đã chứng minh, từ lúc chúng ta mở cửa và xây dựng nhà nước pháp
quyền với hiến pháp 1992 thì tham ơ, lãng phí, quan liêu tuy vẫn còn phổ biến
nhưng đã ngày càng giảm so với trước rất nhiều.
Hai là, thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế – xã hội, xây dựng nền kinh tế thị
trường, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Tính tất yếu khách quan của nguyên nhân này xuất phát từ nhu cầu phát triển
kinh tế thị trường, kinh tế thị trường mà ở đó pháp luật khơng bảo vệ người làm
kinh tế hay pháp luật không công bằng thì khơng thể phát triển được. Hơn nữa, nhu
cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách Nhà nước,
cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước khơng ngừng vững mạnh, có hiệu lực để
giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững độc lập, tự
chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế. Nói rõ hơn là chỉ có pháp luật và
nhà nước pháp quyền mới tạo ra hành lang pháp lý an tồn (vừa bảo vệ mình vừa
bảo vệ đối tác) để xây dựng giao lưu kinh tế.
14
Ba là, sau nhiều năm đấu tranh chống ngoại xâm, quyền tự do, dân chủ,
quyền con người không lúc nào như hiện nay cần được đề cao. Mà muốn đảm bảo
tự do, dân chủ và nhân quyền thì khơng có con đường nào khác là phải xây dựng
nhà nước pháp quyền. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền đã chứng minh điều
này.
Tóm lại, tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây
dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì cơng cụ, phương tiện cơ
bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường và một Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh
đạo của Đảng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu
tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị tồn quốc giữa
nhiệm kỳ khố VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của
Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển
về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Thể chế hoá quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà
15
nước là thống nhất có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Xuất phát từ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp
ứng các nguyên tắc sau: (1) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng,
phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp; (2) Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể
trong xã hội đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp
là đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng; (3) Khẳng định và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình đẳng của mọi cá nhân trong thụ
hưởng và phát triển quyền, khơng có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu
trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội; (4) Đảng Cộng sản
Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; (5) Bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân được pháp luật
thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.
2.3 Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay
2.3.1 Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bởi lẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước, cần xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và
phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức,
trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân chủ.
Chỉ khi nào người dân biết sử dụng và phát huy các quyền dân chủ thì các lợi
ích của Nhà nước, cộng đồng, các quyền và lợi ích của mỗi người dân mới được
16
bảo đảm. Đây cũng là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả của thực hiện
dân chủ ở cơ sở.
Cán bộ, công chức, đảng viên là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá trình
thực thi dân chủ tại cơ sở, do vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơng chức, cấp ủy và chính quyền có ý nghĩa to lớn,
góp phần quyết định thực thi dân chủ ở cơ sở.
Trước hết cần bồi dưỡng phong cách quần chúng, thực hành dân chủ theo tư
tưởng, phong cách dân chủ Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái
niệm về dân chủ bằng những diễn đạt ngắn gọn: “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”,
“Dân là gốc”, “Nước ta là nước dân chủ”, “Quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”, và vai trò “Dân chủ là cái chìa khóa vạn năng”. Thực hiện tư tưởng của
Người, chính quyền phải giúp cho nhân dân có năng lực làm chủ, biết hưởng quyền
làm chủ, biết dùng quyền làm chủ và tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, pháp luật
có để người dân thể hiện quyền làm chủ.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện những cơ chế bảo đảm dân chủ trong đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng phải là tấm gương về dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của mình.
Cần tiếp tục nghiên cứu về lý luận và thực tiễn để làm rõ trong điều kiện một
Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền vẫn phát huy được dân chủ thực sự, vẫn giữ
vững được sự lãnh đạo của Đảng, Đảng trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên
khơng rơi vào suy thối, xa rời quần chúng. Phải dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng, “dựa vào dân để sửa chính sách”, “sửa cán bộ” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải được thảo luận trong Đảng và đưa ra
toàn dân thảo luận rộng rãi trước khi Đảng quyết định.
Để có dân chủ rộng rãi trong Đảng, điều cốt yếu là nhận thức đúng đắn và
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ. Mọi đảng viên được quyền bàn
bạc, thảo luận và quyết định mọi công việc của Đảng - từ những công việc cụ thể
17
của tổ chức đảng cơ sở đến những vấn đề lớn như xây dựng đường lối. Đảng viên
có quyền tranh luận, nêu ý kiến của riêng mình và có quyền bảo lưu ý kiến lên cấp
lãnh đạo cao nhất. Đảng phải khuyến khích thảo luận, tranh luận với những ý kiến
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau để đi đến thống nhất về quan điểm nhưng khi
đã thành nghị quyết của tập thể thì mọi đảng viên phải tơn trọng, nói và làm theo
nghị quyết. Bên cạnh đó, mọi cấp ủy đảng phải thực sự lắng nghe ý kiến của cấp
dưới và đảng viên, biết tổng hợp trí tuệ và sáng kiến, kinh nghiệm công tác phong
phú của đảng viên.
2.3.2 Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
Một là, tiếp tục ngăn chặn tiến tới đẩy lùi quan liêu, tham nhũng.
Nếu để nạn quan liêu, tham nhũng kéo dài, diễn biến phức tạp khó kiểm sốt
thì đây chính là một nguy cơ lớn đe dọa đến sự xây dựng thành công của nhà nước
pháp quyền. Cho nên, bên cạnh việc kiên trì, quyết liệt xử lý tham nhũng cần học
hỏi, tham khảo thêm kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên
thế giới, như: Xin-ga-po, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… Phải làm
thật nghiêm để cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện công vụ, luôn quán triệt:
“không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”.
Hai là, chủ động đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thối về
chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy cần làm tốt công tác nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng
viên trong đơn vị để có giải pháp phù hợp, kịp thời. Cần thường xuyên tổ chức diễn
đàn trao đổi, đối thoại những vấn đề cịn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên
quan đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có
biện pháp xử lý nghiêm minh với những hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền gây
rối trật tự cơng cộng, chống phá đất nước.
2.3.3 Xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật
18
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có vai trị vơ cùng quan
trọng trong việc bảo vệ, bảo đảm quyền công dân.
Đối với Quốc hội, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện chức năng lập
pháp, bảo đảm các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành cụ thể hóa đúng, kịp
thời các quy định của Hiến pháp về quyền công dân. Đặc biệt chú ý đến việc nâng
cao chất lượng, số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy hơn nữa hiệu
quả giám sát tối cao của Quốc hội trong thời gian tới.
Đối với Chính phủ, nâng cao hơn nữa chất lượng lập quy nhằm tránh tình
trạng luật, pháp lệnh đã ra đời nhưng phải chờ nghị định, thông tư hướng dẫn.
Đối với Tòa án nhân dân tối cao, cần làm tốt nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm
xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ.
Bên cạnh đó, trong xây dựng luật, cần thiết phải có những quy định làm rõ
trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân và nghĩa vụ của công dân đối với Nhà
nước. Nhà nước tạo mọi điều kiện để nhân dân được tham gia quản lý nhà nước, có
cơ hội phản biện một cách tích cực, cơng khai, nhằm hướng tới ổn định và phát
triển xã hội – con người. Phản biện là biểu thị cho tính dân chủ, sự văn minh của xã
hội.
Vì vậy, cần thiết nỗ lực, cố gắng hơn, nghiên cứu ban hành Luật về Hội…
nhằm tạo ra cơ sở pháp lý giúp người dân thực hiện các quyền của mình, mặt khác,
giúp các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ bảo vệ giữ gìn trật tự xã hội được tốt
hơn, khơng cho các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng quyền biểu tình gây
mất ổn định chính trị – xã hội. Trong q trình hồn thiện luật, cần lưu ý sao cho
các quy định vừa bảo đảm phù hợp với pháp luật quốc tế, vừa bảo đảm phù hợp yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và giữ vững ổn định chính trị
của đất nước.
19
Ngồi ra, việc rà sốt, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật khác
cần được đẩy mạnh tiến tới đáp ứng tốt hơn quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, chính quyền là vấn đề phức tạp và
khó khăn nhất, nhưng lại là vấn đề cơ bản không thể không giải quyết trong cuộc
đấu tranh cách mạng. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và các giá trị nhân loại về xây dựng nhà nước, trong q trình tìm đường
cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm tịi, giải quyết nhiều vấn đề về đường lối,
chiến lược, đấu tranh để giành chính quyền và xây dựng một nhà nước kiểu mới Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Có thể khẳng định, sự cần thiết của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với Việt Nam. Cơng việc này
địi hỏi phải có những đổi mới sâu sắc về nhận thức và thực hiện nhiều giải pháp
trên nhiều lĩnh vực, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội và mọi cán bộ, nhân dân. Thực hiện đồng bộ một số giải pháp nêu trên sẽ
góp phần nâng cao dân trí pháp lý, xây dựng ý thức tôn trọng thực hiện pháp luật,
đảm bảo cho vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước. Đó cũng chính là
mục tiêu, là nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
20
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ giáo dục và đào tạo, (2021), Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội Khoa học, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021.
2. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lí luận chung về Nhà nước và Pháp
luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017
3. Lê Văn Lực, Trần Văn Phòng (đồng chủ biên), Một số chuyên đề về Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lenin (tập 1), NXB Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2008.
4. Thu Huyền (2017) “Chuyên đề Nhà nước pháp quyền” truy cập
/>yen.pdf
5. GS.TS. Trần Văn Phịng (2020), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
“Xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa” truy cập
/>6. PGS.TS Đỗ Thị Thạch (2014) “Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH” truy cập
/>7. Lưu Hà Chi (2021), “Khái niệm và đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN”,
Luận Văn Việt, truy cập />