Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

bài thu hoạch đảng viên mới năm 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.5 KB, 46 trang )

Câu 1: Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện ở những nội
dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác- Lênin là một hệ thống lý luận gồm ba bộ phận:Chủ nghĩa MácLênin là hệ thống các quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng,
V.I.Lênin bảo vệ và phát triển, được hình thành và phát triển trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa
những giá trị tư tưởng của nhân loại; là thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng
nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.Chủ nghĩa MácLênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản có mối quan hệ mật thiết với nhau đó là: triết học
Mác- Lênin, kinh tế học chính trị Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học.Triết học Mác- Lênin
nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng
thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.Trên
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học, kinh tế học chính trị Mác- Lênin nghiên cứu những
quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới,
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận
dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế học chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên
cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước chuyển
biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.Ba bộ phận lý
luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong
một hệ thống lý luận khoa học thống nhất, đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản,
giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.Thứ hai,
tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin
Bản chất cách mạng, khoa học thể hiện từ sự ra đời của chủ nghĩa Mác- Lênin. Trước hết là ba
tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác: Tiền đề kinh tế; Tiền đề chính trị - xã hội; Tiền đề khoa học
và lý luận. Mác và Ănghen đã phân tích các sự kiện trên, kế thừa và phát triển những nhân tố khoa
học, tiến bộ để sáng lập nên học thuyết cách mạng, khoa học cho giai cấp vơ sản. Trong đó, chứng
minh về sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội; làm rõ vai trò và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; chỉ ra cho giai cấp công nhân con đường đấu tranh để giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân loại ra khỏi áp bức, bóc lột, xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp.
Lênin đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề cách mạng vô sản
trong điều kiện mới: Phân tích mâu thuẫn trong xã hội tư bản; về vai trò cách mạng của các nước; về
phong trào cách mạng vơ sản; về chính quyền xơ viết; về khoa học và kỹ thuật; về phát triển lực


lượng sản xuất; về giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp... Sau khi Lênin mất, chủ nghĩa Mác Lênin tiếp tục được phát triển và trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của các
đảng cộng sản và phong trào cách mạng quốc tế với các nội dung cốt lõi:Phép biện chứng duy vật và
chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn bó, là phương pháp đúng đắn khi xem xét và giải quyết những vấn
đề thực tiễn trên cơ sở toàn diện, cụ thể và phát triển. Thể hiện trong xã hội là bước phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội. Sự chuyển biến đó diễn ra trong q trình đấu tranh giai cấp (Qui luật đấu
tranh giai cấp làm cho xã hội phát triển). Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra bản chất con người, lịch sử;
về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về lý luận hình thái kinh tế - xã hội; từ
đó khẳng định tính tất yếu của sự phủ định và phát triển của các chế độ xã hội.Học thuyết về giá trị
thặng dư chỉ ra qui luật vận động kinh tế của xã hội tư bản, vạch ra bản chất bóc lột của giai cấp tư
sản; đồng thời cũng làm rõ vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong tiến trình phát triển xã hội. Học
thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã chỉ rõ giai cấp công nhân là người lãnh đạo cuộc
đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản, xây dựng CNXH.


 Thứ ba, Chủ nghĩa Mac- Lênin chỉ ra mục tiêu và con đường giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân loại
Chủ nghĩa Mác - Lênin xuất phát từ con người hiện thực và cũng nhằm mục đích giải phóng con
người. Chủ nghĩa Mác - Lênin khơng có mục tiêu nào khác là giải phóng con người khỏi mọi hình
thức nơ dịch, áp bức, bóc lột. Nhưng để giải phóng con người, trước hết phải giải phóng giai cấp cơng
nhân rồi tiến tới giải phóng nhân loại, giải phóng xã hội. Con đường giải phóng này là con đường đấu
tranh cách mạng đập tan nhà nước tư sản bóc lột, xây dựng một nhà nước mới - nhà nước xã hội chủ
nghĩa và sau này là cộng sản chủ nghĩa - mà ở đó khơng cịn bất kỳ sự nơ dịch, áp bức, bóc lột con
người nào. Muốn vậy, giai cấp cơng nhân phải đồn kết, tập hợp giai cấp nơng dân và những người
lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện cuộc đấu tranh cách mạng này.
Luận giải vai trò của triết học trong đấu tranh giai cấp: Mác đã chỉ ra những thiếu sót căn bản của
các nhà triết học trước đó, hình thành lý luận triết học khoa học về cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân. Theo Mác, nhiệm vụ của triết học là cải tạo thế giới, thực tiễn xã hội có vai trị quyết
định đối với lý luận trong việc nhận thức và cải tạo thế giới (tính chất duy vật). Cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân là một thực tiễn sinh động đề hình thành lý luận về đấu tranh giai cấp,
tiến bộ xã hội.Nhấn mạnh vai trò của hoạt động tinh thần trong sự phát triển của xã hội: vừa là mục

đích, vừa là động lực. Vũ khí của sự phê phán khơng thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí. Lực lượng
vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận chúng sẽ trở thành lực lượng vật
chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng.
Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng tỏ ý nghĩa nhân văn to lớn của mục tiêu giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cả về phương
diện lý luận, cả về phương diện thực tiễn đều chứng tỏ, chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa nhân đạo
nhất.
Thứ tư, Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp luận
Sự thống nhất giữa thế giới quan khoa học và phương pháp biện chứng làm cho con người hiểu rõ
bản chất của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy vận động, biến đổi theo những qui luật khách quan:
Thông qua thực tiễn, con người có thể nhận thức, giải thích và cải tạo thế giới (khơng huyền bí). Sự
thống nhất đó đã đưa chủ nghĩa Mác- Lênin trở thành một hệ thống lý luận mang tính cách mạng và
tính khoa học sâu sắc.
 Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở
Mang bản chất khoa học, nên chủ nghĩa Mác- Lênin không phải là một hệ thống các nguyên lý
giáo điều, bất biến mà gắn với quá trình phát triển của tri thức nhân loại và phong trào cách mạng trên
thế giới.Chính C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông
không phải là cái đã xong xi hẳn, cịn nhiều điều các ơng chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội
nghiên cứu. Phát triển lý luận Mác-Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người
mácxít chân chính. Ngay bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin trong quá trình nghiên
cứu và hoạt động trong phong trào công nhân cũng đã điều chỉnh một số luận điểm của mình.Chủ
nghĩa Mác- Lênin là một học thuyết mở. Vì vậy, nó khơng bao giờ là một học thuyết lý luận cứng
nhắc và giáo điều. Thế hệ này nối tiếp thế hệ khác tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo các quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin ngày càng
được bổ sung và hoàn thiện.


Cần làm gì để vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam chỉ đạo mọi hoạt động của toàn Đảng. Đảng và Nhà nước ta vận
dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin trong Chính sách kinh tế mới, đề ra nhiều chủ trương, đường lối
đúng đắn trong việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tạo ra các địn bẩy kinh tế thúc đẩy kinh tế đất
nước phát triển. Cho đến nay, các chủ trương, đường lối lớn có ý nghĩa chiến lược của Đảng đã được
thực hiện đạt kết quả tốt.
Điều kiện hiện nay, kinh tế nước ta đang gặp khó khăn tạm thời do tác động của suy giảm kinh tế
toàn cầu, Đảng và Nhà nước ta vẫn xác định phát triển kinh tế thị trường định hướng CNXH, thực
hiện cho bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng là
mục tiêu xuyên suốt, trung tâm của những giải pháp điều hành nền kinh tế như kiềm chế lạm phát, ổn
định nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội. Nhà nước ta luôn gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, như thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, xóa đói,
giảm nghèo,…
Trong q trình nghiên cứu về quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
với tư cách là một đảng viên mới thì câu hỏi được đặt ra là: cần làm gì để vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” Đó là một điều làm cho tơi
phải suy nghĩ, tìm tịi và vận dụng những kiến thức mình lĩnh hội được để tìm ra câu trả lời cho bản
thân.
Để thực hiện được điều đó, thứ nhất, bản thân cần phải nắm chắc bản chất cách mạng và khoa
học, năm chắc những nguyên lý, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để
vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực tiễn nước ta, và cần thực hiện các yêu cầu sau:

* Một là, cần nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin. Khi vận dụng một quan
điểm tư tưởng nào đó của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra
đời, phạm vi nhiệm vụ mà tư tưởng, ngun lý đó phải giải quyết. Khơng thể dựa vào một câu nói,
một luận điểm tư tưởng của C.Mac, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh mà khơng rõ bối
cảnh ra đời của nó như thế nào đã bê nguyên xi vận dụng vào tình hình thực tiễn, bởi vì có những luận
điểm tư tưởng mà các nhà kinh điển đưa ra chỉ mang tính chất dự báo, hoặc có những luận điểm, tư
tưởng do có người đọc khơng kỹ nên có thể dẫn đến hiểu nhầm và vận dụng máy móc.
* Hai là, khi vận dụng, phải nắm chắc đặc điểm nước ta, xuất phát đầy đủ từ tình hình thực tiễn
đất nước, xác định rõ những yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn cần giải quyết, đồng thời cân nhắc kỹ

lưỡng bối cảnh quốc tế.
* Ba là, phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đất nước, tham khảo
kinh nghiệm đất nước, từ đó khái quát thành những bài học cho cách mạng nước ta trong từng giai
đoạn, từng thời kỳ.


Việc vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn nước ta
hiện nay đang là vấn đề mà Đảng và toàn dân chúng ta quan tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ
hàng đầu. Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ sung và phát
triển dựa trên những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để tìm ra
cái mới của lý luận, bổ sung cho khi tàng lý luận Mácxít, dùng nó như 1 kim chỉ nam dẫn đường, chứ
không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều.
* Bốn là, muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng ta cần phải vững các hệ thống quan điểm tư tưởng của Người, nắm chắc mục tiêu, yêu cầu từng
giai đoạn, gắng chặc với tổng kết thực tiễn để hiểu sâu sắc quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin
vào thực tiễn Việt Nam, để hình thành hệ thống quan điểm tư tưởng của Người về cách mạng Việt
Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân
tộc gắng liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của
nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà
nước thực sự của nhân dân, do dân và vì dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển
kinh tế và văn hố, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, về đạo đức
cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí cơng vô tư, về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau,
về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ trung thành của nhân dân... Chỉ thơng qua q trình đó chúng ta mới có thể góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, bản thân cần phải kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đã kích, phủ
nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh:

Bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ nguyên tắc lý luận của nó. Những
nguyên tắc lý luận có giá trị bền vững nằm trong tồn bộ các bộ phận cấu thành của nó, trước hết thể

hiện trong các học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh đã nêu ở trên.
Để đấu tranh có hiệu quả, bản thân cần phải nắm có hệ thống từng luận điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắng liền với hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu cụ thể cần giải quyết. Đồng
thời phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đưa
những tư tưởng , quan điểm đó vào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm hiện thực hoá
thắng lợi những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, hiện thực hoá thắng lợi mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh". Đó là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bản thân cần phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo điều. Cả
hai loại đó đều rất nguy hiểm, nhất là khi các thế lực thù địch lồng ghép vào chiến lược "diễn biến hịa
bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá.


Bên cạnh những luận điệu không mới, đã từng tồn tại từ khi chủ nghĩa Mac-Lênin ra đời đến nay,
chúng tập trung khai thác các khía cạnh mới, sự sụp đổ của chế độ XH XHCN ở Liên Xô và các nước
Đơng Âu, chủ nghĩa tư bản cịn sức phát triển cùng với sự phát triển như vũ bảo của khoa học công
nghệ, xuyên tạc, bôi đen những thành quả của chủ nghĩa xã hội, cho chủ nghĩa Mác-Lênin là ảo
tưởng, đã lỗi thời, không thể vận dụng được trong xã hội hiện nay, đồng thời đề cao hệ tư tưởng tư
sản, xã hội tư sản.
Mặc khác, chúng còn sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "tôn giáo" để ra sức chống phá ta. Lợi
dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và nhà nước ta, các thế lực thù địch ở bên trong
đã đội lốt tôn giáo để hoạt động nhằm giành giật quần chúng, xây dựng lực lượng nhằm chống phá
chế độ ta, các thế lực phản động ở ngoài nước đang ra sức lợi dụng danh nghĩa dân chủ, nhân quyền
để can thiệp vào nội bộ nước ta.
Trong cuộc đấu tranh vô cùng gay go và quyết liệt này, hơn ai hết, Đảng phải là người đi đầu kiên
quyết đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ cương lĩnh, đường lối, ...Muốn vậy, trước hết và
chủ yếu là người đảng viên, chúng ta phải có lập trường tư tưởng, vững vàng, khơng mơ hồ, dao
động, phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng cương lĩnh, điều lệ Đảng và pháp luật của nhà
nước, kiên định những vấn đề về quan điểm có tính ngun tắc của Đảng: "Độc lập dân tộc gắng liền
với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và dân tộc ta, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, Đảng Cộng Sản Việt

Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, không chấp nhận "đa nguyên, đa Đảng". Nhà nước
Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện khối đại đồn kết tồn dân trên nền tảng
liên minh của giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, tập trung dân chủ là
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, kết hợp chủ nghĩa chân chính yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân".
Sự nghiệp đổi mới theo định hường XH XHCN do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm xây
dựng nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đây là một cuộc
cải biến cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, đòi hỏi phải phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng,
sức mạnh đồn kết và tài trí sáng tạo của tồn dân tộc, đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu, xây dựng đất nước thành một quốc gia giàu mạnh, có nền kinh tế phồn vinh, khoa học kỹ thuật
hiện đại, có chế độ chính trị ổn định và vững mạnh, đồng thời có một nền văn hố tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, xây dựng con người và lối sống Việt Nam thể hiện được những đặc trưng của CNXH.
Một sự nghiệp vĩ đại như vậy địi hỏi phải có sự dẫn dắt của hệ tư tưởng tiên tiến. Đó là chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính ngun tắc cơ bản nhất
đối với Đảng và nhân dân ta, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là
nắm vững bản chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp vào
điều kiện thực tiễn nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh một
cách sáng tạo, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh từ phía những thế lực thù địch.


Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, vận dụng sáng tạo và bảo vệ chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cán bộ,
đảng viên và tồn dân ta.
Tóm lại, muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, bản thân cần phải học tập nghiên cứu nghiêm túc, có hệ thống, tìm
hiểu đúng đắn, nắm vững những nội dung cốt lõi và phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.Vì vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở chúng ta phải nâng cao
tư tưởng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa MácLênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn đặc điểm của nước
ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được qui luật phát triển của cách mạng Việt Nam,

định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng chủ nghĩa xã hội thích
hợp với tình hình của đất nước.

Câu 2: Phân tích những căn cứ lý luận và thực tiễn để khẳng định: “ Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sự lựa chọn họp quy luật, hợp lòng dân”
Về lý luận: khi cách mạng dân tộc giành được thắng lợi, chúng ta đứng trước sự lựa chọn giữa hai
con đường: tư bản chủ nghĩa (TBCN) hay xã hội chủ nghĩa.
Đi theo con đường TBCN là trao quyền lực nhà nước cho một lực lượng thiểu số (giai cấp tư sản),
tiếp tục duy trì chế độ xã hội áp bức, bóc lột của họ đối với đại đa số nhân dân lao động (giai cấp công
nhân và nông dân); là phản bội lại giai cấp công nhân và nông dân, lực lượng chủ lực của cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ; trái với xu hướng “cách mạng không ngừng”, xu hướng tất yếu của thời đại.
Đi lên CNXH là phù hợp với xu hướng tích cực của thời đại, tiếp tục phát huy thành quả của cách
mạng, trao quyền lực nhà nước cho nhân dân lao động, xây dựng nhà nước dân chủ thực sự của dân,
do dân, vì dân; xóa bỏ áp bức, bóc lột và bất cơng - khát vọng chính đáng cháy bỏng của nhân dân lao
động. Mục tiêu của cách mạng XHCN là giải phóng con người, giải phóng xã hội, giành lấy chính
quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động (lực lượng đa số trong xã hội); xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức bóc lột trở
thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, sẽ tạo ra động lực to lớn của cách mạng. Hơn nữa
cách mạng XHCN do giai cấp cơng nhân, một giai cấp mà “lợi ích thống nhất với lợi ích của tồn dân
tộc trong mục tiêu chung” (Văn kiện Đại hội Đảng khóa IX), một giai cấp có đội quân tiên phong là
Đảng Cộng sản được trang bị bởi học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin lãnh đạo là những
đảm bảo cho cách mạng thắng lợi.
Về thực tiễn:
Thực tiễn ở Việt Nam: ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, phong trào Cần Vương do các sĩ phu
yêu nước lãnh đạo nhằm giành lại độc lập cho dân tộc, khôi phục chế độ phong kiến dù rất dũng cảm
và kiên cường nhưng đã bị thất bại.


Với ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây mà trực tiếp là cuộc cách mạng Tân Hợi ở
Trung Quốc, nhiều nhà cách mạng Việt Nam như: Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học

muốn giành độc lập cho dân tộc, đưa đất nước theo con đường TBCN, noi gương các nước phương
Tây nhưng cuối cùng cũng đều bị thất bại.
Tuy nhiên, sự áp bức vô cùng tàn bạo của thực dân, đế quốc, phong kiến đối với nhân dân lao
động, sự thất bại của những phong trào đấu tranh theo xu hướng phong kiến và tư sản lại là mảnh đất
tốt để tuyên truyền tư tưởng cách mạng XHCN cho nhân dân như Bác Hồ đã khẳng định: “Sự tàn bạo
của CNTB đã chuẩn bị đất rồi, CNXH chỉ còn làm cái việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải
phóng nữa thơi”.
Trên con đường tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã nhận thức được tính tất yếu lịch sử là: “Chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức”, do vậy, Người đã tích cực tuyên
truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1930.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã thể hiện tính tất yếu là độc
lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng
đã khẳng định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, thực dân Pháp lại trở lại xâm lược nước ta. Để huy động đầy đủ sức
mạnh cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, chúng ta đã xây dựng chính quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền hành, lực lượng đều ở nhân dân, làm cho nhân dân thực sự
là chủ của đất nước. Nhà nước dân chủ nhân dân của ta đã từng bước xóa bỏ sở hữu địa chủ phong
kiến, trao ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện cho công nhân làm chủ xí nghiêp. Do đó, ngọn cờ
chủ nghĩa xã hội đã quy tụ được sức mạnh của nhân dân lao động, giúp chúng ta kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu. Miền Bắc
được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên nửa nước còn lại.
Bằng thực tiễn xây dựng CNXH, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên nửa nước, miền Bắc
đã có điều kiện huy động cao nhất sức người, sức của cùng với nhân dân miền Nam thực hiện thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bằng chiến thắng cuối cùng: chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta vẫn kiên định với lập trường: độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội bởi lẽ,
hiện nay, chủ nghĩa tư bản tuy có thay đổi hình thức áp bức, bóc lột nhưng vẫn khơng thay đổi bản
chất, vẫn là nguyên nhân gây ra nghèo đói cho các nước chậm phát triển, vẫn là nguồn gốc gây ra

những cuộc chiến tranh và tạo nên bao tai họa về văn hóa, xã hội, mơi sinh… trên thế giới. Ngay
trong các nước tư bản phát triển, tình trạng phân hóa giàu nghèo vẫn diễn ra rất gay gắt.
Thực tiễn trên thế giới: Nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo con đường
TBCN đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung đột sắc tộc, tơn giáo, phe phái.
Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho các nước đó khơng thể có độc lập thật sự.


Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc cải tổ, cải cách đã mắc sai lầm cơ bản
về đường lối cách mạng, thậm chí phản bội lại chủ nghĩa xã hội, muốn đưa đất nước đi theo con
đường TBCN hay CNXH dân chủ với ảo tưởng mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới tư bản nhưng
hiện nay đang rơi vào vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, về con đường phát
triển của đất nước; nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái
gia tăng; đời sống của người lao động ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng
gia tăng làm cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm sút.
Việt Nam do giữ vững định hướng XHCN, thực hiện đổi mới đúng đắn “đổi mới nhưng không
phải thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy
bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp” (Văn kiện Đại hội Đảng khóa VIII), nên đã thu
được những thắng lợi to lớn. Đất nước ta đã bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân
dân ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị được giữ vững, vị thế quốc tế ngày càng tăng.
Ngày nay, Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định đường lối cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Chỉ có đi theo con đường này chúng ta mới có nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mới
đảm bảo được độc lập dân tộc thực sự, giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, khai thác được tiềm
năng, thế mạnh của đất nước để hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả.
Bác Hồ đã dạy: “xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ
và lâu dài”, “không thể làm mau được mà phải làm dần dần”; “Việt Nam ta là một nước nông nghiệp
lạc hậu, công cuộc đổi mới xã hội cũ thành xã hội mới gian nan phức tạp hơn việc đánh giặc”. Tuy
nhiên, với một Đảng Mác-Lênin chân chính, giàu kinh nghiệm trong đấu tranh cách mạng và đã tích
lũy được kinh nghiệm bước đầu trong quá trình xây dựng CNXH; với một nhà nước của dân, do dân,
vì dân; với một nhân dân giàu lịng yêu nước, cần cù sáng tạo trong lao động, kiên cường trong đấu
tranh và với nhiều tiềm năng của đất nước chưa được khai thác, chúng ta càng tin tưởng chắc chắn

rằng con đường mà Đảng, dân tộc ta đã lựa chọn là con đường đúng và dân tộc Việt Nam có đủ những
điều kiện để tiếp tục vững bước trên con đường này đến đích cuối cùng.
Câu 3: Phân tích những đặc trưng cơ bản và bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ vị trí, vai trị của pháp luật trong điều hành
và quản lý xã hội. Trong bản yêu sách của nhân dân An Nam, Người đã nêu 4 điều liên quan đến pháp
quyền. Tư tưởng pháp quyền này đã xuyên suốt tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam độc
lập, tự do, dân chủ. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế tất yếu,
khách quan, mang tính quy luật của q trình đi lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên
thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Bản chất này của nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh, các
văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hoá rõ trong Hiến pháp 2013. Những đặc
trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của một chế độ dân chủ, đó là:


Một là , Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là bản chất
của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước.
Tập trung dân chủ hay dân chủ tập trung đều bao hàm hai thành tố tập trung và dân chủ. Hai
thành tố đó khơng hề đối lập nhau mà có mối quan hệ biện chứng với nhau và cùng phát triển theo tỷ
lệ thuận. Tập trung càng cao thì dân chủ càng được mở rộng, và ngược lại. Tập trung ở đây không
phải là tập trung quan liêu, tập trung độc đoán. Dân chủ ở đây là dân chủ thực sự, chứ không phải dân
chủ mang tính hình thức, hay dân chủ “khơng giới hạn”, dân chủ cực đoan, muốn làm gì thì làm. Tập
trung trên cơ sở dân chủ thì tập trung sẽ thúc đẩy dân chủ rộng rãi và có chất lượng cao hơn. Tập
trung là địi hỏi của chính bản thân dân chủ. Ngược lại, dân chủ trên cơ sở tập trung sẽ dễ dàng đạt tới
sự thống nhất cao. Lúc đó, dân chủ trở thành địi hỏi của chính bản thân tập trung. Dân chủ mà không
tập trung, về thực chất, là xóa bỏ dân chủ. Tập trung mà khơng dân chủ, về thực chất, cũng là xóa bỏ
tập trung.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực

chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thơng qua dân chủ trực tiếp;
dân chủ đại diện.
Hai là , Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản đối với toàn bộ hoạt
động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều
có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật
dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
Ba là , Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh vực
hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của
Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho cơng
dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp.

Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang
tính bình đẳng. Mơ hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với
cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với cơng dân được làm tất cả trừ những
điều luật cấm.
Bốn là , Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo các
nguyên tắc dân chủ: phân cơng quyền lực và kiểm sốt quyền lực. Tính chất và cách thức phân cơng,
kiểm sốt quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau,
nhưng đều có điểm chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ


quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được
kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên
ngoài bộ máy nhà nước.


Năm là , Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp.
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ và công
bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết
nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác
nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại
bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi
này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền ln địi hỏi phải xây dựng và thực thi
một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi
lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Sáu là, Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các mối quan
hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
được xác định bởi tính chất, trình độ của các mơ hình kinh tế thị trường, theo hướng Nhà nước tơn
trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ
kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.

Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã hội, tơn trọng đề cao
vị trí, vai trị và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã
hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy định và chi phối lẫn
nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã
hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật Việt Nam thể hiện những tư
tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với cơng lý,
tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện những tư tưởng
quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do,
bình đẳng trong một xã hội cịn giai cấp.
Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân , vì nhân dân
trong giai đoạn hiện nay cần phải làm gì?



Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
ln vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân
loại về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước. Chủ trương xây dựng Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã được khẳng định trong Hiến pháp năm
1946, tiếp đến là trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Mỗi bản hiến
pháp là một dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước ta. Trải
qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sự ủng
hộ, giúp đỡ của nhân dân, Nhà nước ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt, đã làm tròn
sứ mệnh vẻ vang của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, nhất là sau khi thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) về “Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, cơng
cuộc xây dựng và hồn thiện Nhà nước ta đã có những tiến bộ to lớn. Nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã có bước đổi mới vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước. Bản chất giai cấp cơng
nhân, tính dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước được giữ vững và củng cố. Hệ thống quan điểm,
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân từng bước được hoàn chỉnh. Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp năm 2013 cùng nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà
nước quản lý mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước,
trước hết là các cơ quan hành chính nhà nước đã được đổi mới và hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu
quả. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước
được phân định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến tích cực. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực, tác động mạnh mẽ đến việc giải phóng sức sản xuất,
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ về
chính trị có bước tiến quan trọng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý nhà nước, điều hành

vĩ mô và giải quyết những vấn đề chiến lược liên quan đến quốc kế dân sinh. Cải cách hành chính tiếp
tục được chú trọng, tháo gỡ được nhiều khó khăn, vướng mắc cho người dân và doanh nghiệp. Nhiều
chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật và
được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt những kết quả bước đầu quan trọng. Tổ chức bộ máy của
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, tổ chức luật sư, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được
kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng cao, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, hạn chế được tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân đặt ra rất cấp bách. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh “Tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị... Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng


bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo
hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Để Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, quản lý, điều hành đất nước hiệu lực, hiệu quả,
trước hết cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước:
“Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền.
Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định tồn bộ nội dung của Hiến
pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo”[1]. Gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính
nhân dân, thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công
nhân, của dân tộc và của nhân dân là thống nhất. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
và con đường xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, như Nghị quyết Trung ương 4
(Khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đề ra. Xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững
mạnh, gần dân, sâu sát dân, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức nhiều

hình thức phù hợp để nhân dân tích cực tham gia hoạch định chính sách, pháp luật và giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước, coi đây là vấn đề có ý nghĩa sống cịn đối
với chế độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin u, ủng hộ thì mới vững mạnh, giữ vững
được quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, tạo động lực to lớn để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên
trường quốc tế.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân là phương hướng cơ bản để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mở rộng
dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, siết chặt kỷ luật; quyền đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ; dân
chủ được thể chế hóa thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật. Tăng cường tổ chức và
hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là cơng cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý
nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ
quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của các cấp chính
quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn, lãnh thổ. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính
trị và tồn dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, khắc phục tình trạng vơ
kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối an ninh, trật tự; làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” để chống phá
chế độ ta.
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà
nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) để các cơ quan này thực sự


là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương. Hồn thiện và phân định rõ mơ hình tổ chức
chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh

tế đặc biệt theo luật định. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra,
giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và sự giám sát của nhân
dân. Các cơ quan hành chính nhà nước phải nghiêm túc chấp hành các quyết định của cơ quan dân cử
trong trách nhiệm, quyền hạn được pháp luật quy định và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan
dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của nhân dân. Rà sốt, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán
bộ, cơng chức theo hướng khuyến khích cán bộ, cơng chức nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ,
đạo đức cơng vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; chú trọng tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, lối sống, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt
động của doanh nghiệp và đời sống nhân dân; xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên
nghiệp, quản lý nhà nước có hiệu quả, giảm mạnh, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, đáp
ứng tốt nhất yêu cầu chính đáng của người dân, doanh nghiệp. Phân định rõ hơn vai trị và hồn thiện
cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Quy định rõ trách nhiệm và cơ chế
giải trình của các cơ quan nhà nước, đề cao đạo đức công vụ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo
và thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh
tế nhà nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện công bằng, tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền và các tầng lớp
dân cư. Kiểm soát việc phân bổ, quản lý và sử dụng vốn, tài sản cơng, khắc phục tình trạng vơ chủ,
đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Xác định rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền, thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Xử lý nghiêm minh các hành vi trì hỗn, làm sai lệch, can thiệp
trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Xây dựng, hoàn
thiện những quy định để người dân trình bày nguyện vọng, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, tạo sự
đồng thuận trong xã hội; đồng thời ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối an ninh, trật tự.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp
luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính
cơng khai, minh bạch cao, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu
hội nhập quốc tế sâu rộng. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật, bảo đảm

quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập
pháp tiên tiến của nước ngồi; tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, ý kiến đóng góp
của nhân dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Các bộ luật, luật ban
hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm tình trạng phải chờ đợi văn bản
hướng dẫn mới thi hành được. Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để
nhân dân hiểu và tự giác chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu
tranh chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ cương, phép nước.


Cùng với tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, đề cao tinh thần “thượng tôn pháp luật”, cần
coi trọng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp sức mạnh của pháp luật với
sức mạnh đạo đức, văn hóa và dư luận xã hội. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các thành viên trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân, thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, đấu
tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà
nước cũng như trong đời sống xã hội.
Chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền tư pháp
trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về
chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ
quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan điều tra. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp đối với từng lĩnh vực hoạt động tư pháp; thường xuyên cập nhật thông tin hợp tác quốc tế về
tư pháp và các lĩnh vực liên quan. Tích cực chuẩn bị đội ngũ luật sư, cán bộ các cơ quan tư pháp, bổ
trợ tư pháp có đủ khả năng tham gia tố tụng trong các vụ, việc có yếu tố nước ngồi và giải quyết các
tranh chấp quốc tế, bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung và hoàn thiện lý luận, rút ra những bài học kinh nghiệm
về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trên cơ sở đó, cung cấp những luận
cứ khoa học để tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội; Nhà nước hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả; nhân dân ngày càng tham gia nhiều hơn vào

các công việc của Nhà nước.
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt lên
mọi khó khăn, thách thức, nhất định cơng cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân sẽ giành được những thành tựu to lớn hơn nữa,
đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 4: Phân tích vai trị, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng và trách nhiệm của Đảng viên trong
công tác xây dựng Đảng ở cơ sở
Điều 21 điểm 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, khóa X, khóa XI ghi rõ: “Tổ chức cơ
sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Từ những
quan điểm nêu trên, có thể khái qt vị trí, tầm quan trọng của TCCSĐ trên 3 điểm lớn sau:
Thứ nhất, TCCSĐ là cấp tổ chức trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào
quần chúng và tổ chức cho quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách ấy. Vì
suy cho cùng thì việc tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương, chích sách của Đảng thành hành động
cách mạng của quần chúng là công việc trước hết của chi bộ, đảng bộ cơ sở. TCCSĐ chịu trách nhiệm
trước Đảng về đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân ở cơ sở.


Thứ hai, TCCSĐ là tổ chức nối liền các cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng với quần chúng, vì
TCCSĐ khơng những lãnh đạo quần chúng phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối, chính sách của
Đảng, mà còn làm nhiệm vụ nắm bắt tâm tư nguyện vọng, phản ánh đúng và đầy đủ tâm tư nguyện
vọng ấy của quần chúng lên Đảng.
Thứ ba, TCCSĐ là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán bộ cho
Đảng, nơi đảm bảo tính tiên phong của đảng viên. Vì TCCSĐ là nơi trực tiếp quản lý đảng viên.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh, dù ở giai đoạn nào của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh
đạo, các TCCSĐ luôn là gốc rễ, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở, bảo đảm
cho đường lối của Đảng đi vào cuộc sống, đồng thời là cấp trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng
nội bộ Đảng. Do vậy, có thể khẳng định TCCSĐ là nền tảng có vai trị quan trọng quyết định năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Trong những năm gần đây, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp củng cố các TCCSĐ, phát

huy vai trò của cơ sở. Từ năm 2004 đến nay, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, khóa X, khóa XI,
đã xây dựng và ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các loại hình TCCSĐ, những quy
định đó đã quy định rất rõ chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình TCCSĐ và mối quan hệ trong cơng
tác lãnh đạo, chỉ đạo.
Có thể khẳng định các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có
được thực hiện tốt hay khơng, có đi vào và trở thành hiện thực trong cuộc sống hay không là nhờ vai
trò lãnh đạo của các TCCSĐ. Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, các chủ trương chính sách của
Đảng có đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, có đem lại nguồn cổ vũ, động viên cho nhân dân hay
khơng, đều phụ thuộc vào vào vai trị lãnh đạo của Đảng nói chung và của các TCCSĐ nói riêng. Vì
vậy, xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định trực tiếp đến việc thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhâp quốc tế hiện nay.


Câu 5: Nêu các đột phá chiến lươc và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2021-2030 của Đảng ta
3 đột phá chiến lược đó là:
. 1)Tiếp tục hồn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trưởng định hướng xã hội chủ
nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị
trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ
chế thị trường. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã
hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy
mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các cấp, các ngành.
2. Tiếp tục phát triển tồn diện nguồn nhân lực, khoa học, cơng nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn
hóa, con người Việt Nam.
3. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là ưu
tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đơ thị lớn, hạ tầng
ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ

liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội
số.
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp
1. Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội
Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập,
ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm
chấp hành pháp luật nghiêm minh. Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là
các thị trưởng quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong
hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường.
Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình
chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mơ hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ
công, quản lý và bảo vệ môi trường... Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực
hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị
trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của
người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Sử dụng thể chế, các nguồn lực, cơng cụ điều
tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội, bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường.


Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và cộng
đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà
nước. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mặt trận và các đoàn thể nhân dân để thi
đua phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh và xây dựng chính quyền các cấp.
Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế
quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được
xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu6.
Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có tính
chun nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người

dân, doanh nghiệp; thực hiện phương thức, công cụ quản lý nhà nước chủ yếu bằng điều tiết gián tiếp,
tăng cường hậu kiểm; giảm tối đa rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân và doanh
nghiệp. Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ
tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và
đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thơng các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân
cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển
kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát
triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030, hồn thành xây dựng chính phủ số,
đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ
điện tử, kinh tế số.
Đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hồn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ
trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế địa
phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, địa
phương. Đổi mới phân cấp ngân sách nhà nước, phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp
ngân sách theo hướng tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, đồng thời bảo đảm tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, khuyến khích và thúc đẩy sáng tạo của chính quyền địa phương.
2. Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
Tập trung hồn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ
quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam; phát triển mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy phát triển mơ hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội
số. Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát
triển và đổi mới công nghệ. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy triển
khai và ứng dụng cơng nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mơ hình kinh doanh mới. Xác định rõ các chỉ
tiêu, chương trình hành động để ứng dụng và phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
trong mọi mặt hoạt động ở các cấp, các ngành, địa phương.


Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học xã hội và nhân văn để có cơ sở khoa học phục vụ tốt nhất

sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế, xã hội. Khơi dậy sức sáng tạo, nâng cao trách nhiệm và tôn
trọng sự khác biệt trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Gắn kết chặt chẽ khoa học
xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên và cơng nghệ trong q trình triển khai các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính của
tăng trưởng kinh tế. Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, sản xuất, kinh
doanh, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia. Đẩy nhanh chuyển đổi số đối với một số ngành,
lĩnh vực đã có điều kiện, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, ứng dụng và phát triển công
nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 4G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (blockchain), in
3D, internet kết nối vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch, công nghệ môi trường để chuyển đổi,
nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.

Đổi mới mạnh mẽ cơ chế hoạt động nghiên cứu, quản lý khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo,
tạo thuận lợi cho nghiên cứu, chuyển giao phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao tính tự chủ của các
đơn vị nghiên cứu khoa học, công nghệ công lập. Quan tâm đầu tư đúng mức nghiên cứu khoa học cơ
bản; tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ số. Cơ cấu lại, nâng cao năng lực, hiệu
quả các cơ sở nghiên cứu; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ trong các doanh nghiệp, trường
đại học, cơ sở đào tạo gắn với nhu cầu thị trường. Tăng cường, liên kết doanh nghiệp với các viện
nghiên cứu, trường đại học, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực của doanh nghiệp về tiếp thu,
làm chủ và từng bước tham gia tạo ra cơng nghệ mới. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nước ngồi
hình thành các trung tâm nghiên cứu và triển khai, đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Đổi mới căn bản cơ
chế quản lý ngân sách nhà nước chi cho khoa học, công nghệ; thực hiện cơ chế Nhà nước đặt hàng
nghiên cứu các đề tài khoa học, công nghệ. Cơ cấu lại các chương trình, nhiệm vụ khoa học, cơng
nghệ, gắn với nhu cầu xã hội, chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng.
Lấy việc nâng cao trình độ cơng nghệ của nền kinh tế là tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của
khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, triển khai, trong đó chú trọng nghiên cứu
ứng dụng và thương mại hóa kết quả. Lựa chọn và tập trung hỗ trợ triển khai nghiên cứu ứng dụng
phát triển công nghệ cho một số ngành và lĩnh vực then chốt.

Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Phát triển doanh nghiệp khoa học,
công nghệ, doanh nghiệp công nghệ cao. Nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ sở nghiên cứu, các
phịng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các khu công nghệ cao. Phát huy vai trò của các quỹ về phát
triển khoa học và đổi mới công nghệ trong thúc đẩy nghiên cứu, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, ứng
dụng và chuyển giao công nghệ. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới
sáng tạo đạt 40%.


Nâng cao tiềm lực và trình độ khoa học, cơng nghệ trong nước để có thể triển khai các hướng
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới, tập trung phát triển cơng nghệ ưu tiên có khả năng
ứng dụng cao, nhất là công nghệ số, thông tin, sinh học, trí tuệ nhân tạo, cơ điện tử, tự động hóa, điện
tử y sinh, năng lượng, mơi trường.
Phát triển mạnh thị trường khoa học, công nghệ gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa
học, công nghệ. Kết nối có hiệu quả các sàn giao dịch cơng nghệ quốc gia với các trung tâm ứng dụng
và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ ở các địa phương. Phát triển mạnh mạng lưới các tổ
chức dịch vụ trung gian môi giới, đánh giá chuyển giao công nghệ. Khuyến khích nhập khẩu, chuyển
giao cơng nghệ tiên tiến của thế giới. Tập trung nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công
nghệ của doanh nghiệp. Tạo áp lực cạnh tranh trong môi trường kinh doanh để thúc đẩy doanh nghiệp
sử dụng công nghệ, tăng năng suất lao động. Tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí
tuệ. Mở rộng và nâng cao hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.

Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về khoa học, cơng nghệ, đa dạng hóa đối tác, lựa chọn đối
tác chiến lược là các quốc gia có nền khoa học, cơng nghệ tiên tiến; gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác
quốc tế về khoa học, công nghệ với hợp tác kinh tế quốc tế. Phát triển mạng lưới kết nối nhân tài
người Việt Nam, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở
nước ngoài.
3. Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế
Xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức,
trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực,

nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội
nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ
thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực
quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng
dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống
nhất với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thơn; giảm tỷ lệ lao động khu vực
phi chính thức. Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động. Hình thành đội ngũ
lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và
sử dụng lao động.
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu để
hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học. Chú trọng đào tạo, đào
tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Chuyển mạnh


quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực
tuyến, qua internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức,
kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại
ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu).
Thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào chương trình giáo
dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu, chú trọng xây dựng nền tảng kỹ năng nhận
thức và hành vi cho học sinh phổ thông. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề
nghiệp ở trung học phổ thông. Giảm tỷ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.
Sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hịa giữa giáo dục cơng lập và ngồi cơng lập, giữa
các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải
đảo và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hồn thiện chính sách phát triển

các cơ sở đào tạo ngồi cơng lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu
thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mơ hình hợp tác cơng tư. Quy hoạch, sắp xếp lại các trường đại học, cao đẳng; có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại
học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới.

Thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị lớn, các nơi có điều kiện; thí điểm
cơ chế cho th một số cơ sở giáo dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến
trường. Xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; thực hiện đào
tạo theo nhu cầu của thị trường lao động. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân
tài cho phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy,
học và sử dụng tiếng Anh. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực.
4. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình
tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng
nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mơ
Tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước
nhằm nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Đẩy mạnh phát
triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động
lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế
giới.


Xây dựng và thực hiện các giải pháp chính sách khắc phục tác động của dịch bệnh Covid-19,
nhanh chóng phục hồi nền kinh tế, tận dụng hiệu quả các cơ hội mới cho phát triển đất nước. Tổ chức
thực hiện hiệu quả và thực chất các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế để đổi mới mơ hình tăng trưởng,
tăng năng suất lao động nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh. Thúc đẩy phát triển
kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh, các mơ hình sản xuất kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ,
thương mại điện tử. Thực hiện chuyển đổi số trong tất cả các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả các

chính sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư, thị trường, giá cả, thương mại và các chính sách khác để kiểm sốt
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh
tế, xã hội. Tiếp tục cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư cơng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đổi
mới tồn diện thể chế quản lý đầu tư công, thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư công. Công
khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát đối với đầu tư cơng. Hồn thiện thể chế, đẩy mạnh
hợp tác công - tư nhằm huy động nguồn lực xã hội vào phát triển kết cấu hạ tầng và cung ứng dịch vụ
cơng.
Xây dựng và hồn thiện nền tài chính quốc gia; cơ cấu lại, tăng cường giám sát và điều tiết thị
trường tài chính. Nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh, tính minh bạch và áp
dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt trong quản trị và hoạt động của các tổ chức tín dụng, bảo
đảm phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm
nền tài chính quốc gia an tồn, bền vững, góp phần ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, bội chi ngân
sách nhà nước đến năm 2030 khoảng 3% GDP; đồng thời phải đặt trong tổng thể cơ cấu lại nền kinh
tế, gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài
chính thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước, tăng tỷ lệ
thu nội địa, tăng tích lũy từ ngân sách nhà nước cho chi đầu tư phát triển; tăng sức chống chịu, bảo
đảm an tồn, an ninh tài chính quốc gia. Cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ cơng, hạn chế tối
đa cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay mới; đến năm 2030, nợ chính phủ khơng q 50% GDP,
nợ nước ngồi của quốc gia khơng q 45% GDP. Tiếp tục rà sốt, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt
động các thị trường tài chính, chứng khốn, cổ phiếu, trái phiếu; quản lý chặt chẽ các tổ chức tham
gia thị trường; bảo đảm tính thanh khoản cao và an toàn hệ thống. Nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt
động của thị trường chứng khoán để thực sự trở thành một kênh huy động vốn chủ yếu của nền kinh
tế. Có chính sách khuyến khích phát triển các quỹ hưu trí, bảo hiểm thiên tai, nơng nghiệp.
Sửa đổi hệ thống luật và chính sách thuế, phí, lệ phí theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với
thông lệ quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư. Mở rộng cơ sở thu, bảo đảm tính
cơng bằng, trung lập của chính sách thuế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ
tục hành chính, giảm chi phí tn thủ các thủ tục nộp thuế, phí của người dân và doanh nghiệp. Cải
cách thể chế về quyền tài sản, tập trung vào các khâu đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản, xử lý tài sản
thế chấp ngân hàng, thủ tục phá sản. Hoàn thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả
đất đai, tài nguyên, bảo đảm cơng khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện,

tham nhũng, lãng phí. Đổi mới các chính sách quản lý đất đai để khuyến khích và tạo điều kiện tích tụ
đất nơng nghiệp, phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất. Đổi mới và thực hiện chế độ quản lý
mục đích sử dụng đất nông nghiệp một cách linh hoạt hơn; bãi bỏ các giới hạn về đối tượng được


nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp, tăng thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp. Công khai,
minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu qua
sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước.
Thực hiện chế độ kiểm toán, kế toán, thống kê phù hợp với chuẩn mực quốc tế và nâng cao chất
lượng cơng tác phân tích, dự báo phục vụ quản lý, điều hành.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh ứng dụng khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng
vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh cơ cấu lại, cổ phần hóa, thối vốn; nâng cao hiệu
quả hoạt động, sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới cách thức thực hiện cổ phần
hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nhất là các biện pháp liên quan đến xác định giá
trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu và giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần
hóa. Hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước. Tiền thu được từ cổ phần hóa, thối vốn
nhà nước tập trung đầu tư các cơng trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, địa phương,
bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt quốc gia. Hình thành đội ngũ quản lý doanh
nghiệp nhà nước chun nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt. Củng cố, phát triển một số
tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mơ lớn, thực hiện quyền tự chủ, nâng cao hiệu quả hoạt động, có
năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đổi
mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã gắn với phát huy vai trị
làm chủ, tăng cường lợi ích của các thành viên, nâng cao khả năng huy động nguồn lực.
Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu
quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào
cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi
mới sáng tạo, hiện đại hóa cơng nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.
Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đồn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng
cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng

đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60 - 65%.
Chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, có
giá trị gia tăng cao, lấy hiệu quả và công nghệ sử dụng làm thước đo chủ yếu, quan trọng nhất đi cùng
với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngồi có trọng
tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên thu hút các dự án có cơng nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công
nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối chuỗi cung ứng tồn cầu, có tác động
lan tỏa, kết nối chặt chẽ, hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước.
Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, khai thác và phát huy lợi thể nền nông nghiệp nhiệt đới, phát
triển nơng nghiệp hàng hóa tập trung quy mơ lớn theo hướng hiện đại, vùng chuyên canh hàng hóa
chất lượng cao. Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông
nghiệp sinh thái, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an tồn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử
dụng đất trồng lúa, hằng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia; thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường; nâng
cao khả năng chống chịu, thích ứng của nơng nghiệp, nơng dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền;


hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công
nghiệp chế biến, thị trường, xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.
Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn ni
trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cả trên biển
và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến, sinh thái; nâng cao hiệu quả khai
thác hải sản xa bờ, phát triển đánh bắt đại dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản.
Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh
quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng,
rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao
hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước và làm nguyên liệu chế
biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.
Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả; đẩy mạnh hợp tác, liên
kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh

nghiệp nơng nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các
tổ hợp tác. Nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ, phát
triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng và quản trị ngành;
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành nông nghiệp. Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế; hỗ
trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro
trong hội nhập quốc tế.
Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Phát triển công nghiệp kết hợp hài hòa cả chiều
rộng và chiều sâu, trong đó chú trọng phát triển theo chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng
suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp. Phấn đấu nâng tỷ trọng công nghiệp trong
GDP vào năm 2030 đạt trên 40%; giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân đầu người
đạt trên 2.000 USD7. Tập trung cơ cấu lại cơng nghiệp theo hướng nâng cao trình độ công nghệ, đổi
mới sáng tạo và chuyển đổi số, khai thác triệt để cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
và lợi thế thương mại. Đẩy mạnh chuyển đổi số, phương thức sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
công nghiệp, tăng khả năng kết nối, tiếp cận thông tin, dữ liệu để tăng cơ hội kinh doanh mới và tăng
khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp theo hướng tăng các ngành công nghiệp có
cơng nghệ, giá trị gia tăng cao và dịch chuyển lên các cơng đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi
giá trị của từng ngành công nghiệp. Ban hành các tiêu chuẩn công nghệ, kỹ thuật sản xuất theo hướng
hiện đại.
Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ
bản của nền kinh tế như công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật
liệu...


Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao: công
nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp điện tử - viễn thông, cơng nghiệp sản xuất rơ bốt, ơ tơ,
thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa, công nghiệp sản xuất phần mềm, sản phẩm số,
công nghiệp an tồn thơng tin, cơng nghiệp dược phẩm, sản xuất chế phẩm sinh học, công nghiệp môi
trường, công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế
biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng,

nguyên liệu. Tiếp tục phát triển công nghiệp dệt may, da giày, tập trung vào các khâu tạo giá trị gia
tăng cao dựa trên quy trình sản xuất thơng minh, tự động hóa.
Phát triển cơng nghiệp quốc phịng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành một mũi
nhọn của công nghiệp quốc gia; nghiên cứu sản xuất vũ khí cơng nghệ cao; tăng cường tiềm lực tận
dụng và đẩy mạnh phát triển liên kết công nghiệp quốc phịng, an ninh và cơng nghiệp dân sinh.
Ứng dụng công nghệ cao trong tổ chức sản xuất nhằm tạo ra những thay đổi thực chất trong một
số ngành công nghiệp, tạo ra tác động lan tỏa và dẫn dắt việc cơ cấu lại tồn ngành cơng nghiệp, nâng
cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị cơng nghiệp tồn cầu.
Tập trung phát triển cơng nghiệp hỗ trợ và hình thành cụm ngành cơng nghiệp trong một số ngành
công nghiệp ưu tiên. Khơi dậy nội lực, khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân
trong nước, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, công nghiệp công nghệ
thơng tin8, hình thành các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế, bảo đảm chất lượng,
quy định về truy xuất nguồn gốc. Tăng cường liên kết giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngồi, nhất là
các tập đoàn đa quốc gia với doanh nghiệp trong nước trong phát triển chuỗi cung ứng của các ngành
công nghiệp.
Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ thông tin tập trung và đẩy mạnh phát
triển cơng nghiệp theo hình thức cụm liên kết ngành, nhóm sản phẩm chun mơn hóa và tạo thành
các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao và theo lợi thế của các địa phương tại một số vùng,
địa bàn trọng điểm.
Phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, doanh nghiệp số chủ lực thực
hiện tốt vai trị dẫn dắt về hạ tầng cơng nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số gắn với
bảo đảm an tồn, an ninh thơng tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Tập trung sản xuất
các thiết bị phục vụ hệ thống 5G.
Nâng cao năng lực ngành xây dựng, bảo đảm đủ sức thiết kế, thi cơng các cơng trình xây dựng
hiện đại, phức tạp trong các lĩnh vực với mọi quy mơ và có khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường
hoạt động ra nước ngoài.
Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát
triển các loại dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và công nghệ thông tin, logistics và vận tải, phân
phối... Áp dụng chuẩn mực quốc tế cho các hoạt động kế toán, kiểm toán, ngân hàng thương mại...

Xây dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia. Thúc đẩy phát triển thương mại trong nước theo hướng


hiện đại, tăng trưởng nhanh và bền vững, gắn với nâng cao uy tín, chất lượng hàng Việt Nam chinh
phục người tiêu dùng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm;
bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người sản xuất, phân phối và người tiêu dùng. Đẩy mạnh xuất
khẩu, khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất,
nhập khẩu, không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường, bảo đảm cân bằng cán cân xuất, nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ. Có chính sách thương mại phù hợp với hội nhập quốc tế; nghiên cứu các
biện pháp phòng vệ thích hợp để bảo vệ sản xuất và lợi ích người tiêu dùng, phù hợp với các cam kết
quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện
đại và phát triển đồng bộ, bền vững và hội nhập quốc tế; chú trọng liên kết giữa ngành du lịch với các
ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị hình thành nên các sản phẩm du lịch để du lịch thực sự trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn. Xây dựng, phát triển và định vị thương hiệu du lịch quốc gia gắn với
hình ảnh chủ đạo, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Đến năm 2030, khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam đạt 47 - 50 triệu lượt, du lịch đóng góp khoảng 14 - 15% GDP và nâng tỷ trọng khu vực
dịch vụ trong GDP lên trên 50%.
5. Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thị làm động lực phát
triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới
Phát triển kết cấu hạ tầng: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số cơng trình hiện đại. Tập trung đầu tư các dự án hạ tầng trọng điểm
quốc gia, quy mô lớn, nhất là về giao thông, năng lượng và hạ tầng số để khắc phục cơ bản những
điểm nghẽn cho phát triển, tăng cường kết nối với khu vực và thế giới. Tập trung phát triển mạng lưới
đường bộ cao tốc, đầu tư, nâng cấp các cảng hàng không, đặc biệt là cảng hàng không trọng điểm.
Đến năm 2030, phấn đấu cả nước có khoảng 5.000km đường bộ cao tốc, trong đó đến năm 2025,
hoàn thành đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đơng. Xây dựng Cảng hàng khơng quốc tế Long Thành
và mở rộng Cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống cảng biển.
Quan tâm đúng mức phát triển giao thông đường sắt, triển khai xây dựng một số đoạn đường sắt tốc
độ cao Bắc - Nam. Kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng
hàng không, cảng biển. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và Thành

phố Hồ Chí Minh, giải quyết các điểm nghẽn về hạ tầng giao thông. Ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng
giao thông cho vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền núi phía Bắc và các vùng khó khăn khác. Tăng
cường năng lực hệ thống hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là đồng bằng sơng Cửu Long và
chống ngập úng ở Thành phổ Hồ Chí Minh. Hồn thành xây dựng và nâng cấp các cơng trình thủy lợi,
hồ chứa nước trọng yếu bảo đảm an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân ở vùng
Tây Nguyên, Nam Trung Bộ. Phát triển mạnh nguồn năng lượng hợp lý, thúc đẩy phát triển năng
lượng tái tạo, năng lượng sạch đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm an ninh năng lượng. Phát triển
đồng bộ, hiện đại hạ tầng văn hóa, xã hội. Xây dựng hạ tầng số và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia,
bảo đảm hạ tầng kỹ thuật an toàn, an ninh thông tin.
Phát triển kinh tế vùng: Xây dựng quy hoạch, tổ chức không gian lãnh thổ quốc gia một cách hợp
lý, phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương và tăng cường tính liên kết nội
vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị tồn cầu, tạo khơng gian phát triển mới. Khai thác
tốt hơn các thế mạnh của các vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa chính trị, nguồn


×