Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tấm Giương Tự Học Của Bác Ý Nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.43 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC …………………………………………….
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----------------o0o-----------------

TIỂU LUẬN

Tên đề tài:
TẤM GƯƠNG TỰ HỌC CỦA BÁC Ý NGHĨA ĐỐI VỚI BẢN THÂN

Giáo viên giảng dạy: ……………………………
Họ và tên sinh viên: ………………………………
Lớp học phần: ……………………………………
Mã số sinh viên:

…………………………………

TP. HCM, Ngày 08 Tháng 03 Năm 2022


PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay q trình tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên cả thế giới cùng với sứ phát
triển của khoa học công nghệ bắt buộc mỗi chúng ta phải cố gắng từng ngày để không bị bỏ
lại phía sau thế giới. Ngày trước với tinh thần yêu nước nồng nàn của bác bác yêu dân tộc
muốn dân tộc thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu; giải phóng đất nước; đồng thời vươn lên trình
độ tiên tiến tiếp cận và không để bị bỏ xa với các nước hàng đầu thế giới.
Tự học và học tập suốt đời là luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trị đặc biệt quan trọng, là một trong
những nhân tố quyết định tạo nên trí tuệ. Bằng tấm gương tự học và học tập suốt đời, Bác
Hồ đã để lại nhiều bài học và những kinh nghiệm quý báu, đặc biệt cho thế hệ trẻ hôm nay,
những người chủ tương lai của đất nước, đang đứng trước những thời cơ, thách thức và vận
hội mới.


Cuộc đời của bác là cuộc đời siêng năng học tập tự học, cố gắng vươn lên giúp ích
cho bản thân và tạo nên mốc son huy hoàng cho Việt Nam. Người đã giữ vững tinh thần và ý
chí học tập khơng ngừng trong suốt cuộc đời. Tự học là hoạt động có mục đích của con
người, là điều cần thiết trong quá trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học
có vai trị đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ của
Người. Đây là di sản quý báu Người để lại cho những thế hệ người Việt hôm nay và mai sau
học tập, noi theo, tiếp tục phát huy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc.

2


PHẦN NỘI DUNG

I. TẤM GƯƠNG TỰ HỌC CỦA BÁC
1. Hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ thôi thúc sự nhiệt huyết của “người thanh niên
trẻ”
Ngày 5-6-1911được ghi nhận trong lịch sử dân tộc đó là ngày mà bác ra đi tìm đường
cứu nước. Ngày ấy nước mất nhà tan dân tộc ta bị kiềm kẹp trong hai chế độ thực dân phong kiến, một người con ưu tú của đất Việt đã rời bến Cảng Nhà Rồng để ra đi tìm đường
cứu nước để từ đó vạch ra con đường cứu nước.
Thơi thúc bởi thực tế lúc đó các phong trào yêu nước liên tiếp bị thất bại. Trần Quý Cáp
bị thực dân xử tử. Phan Châu Trinh bị đày đi Cơn Đảo. Đơng kinh Nghĩa thục bị đóng cửa
và nhiều người lãnh đạo bị bắt. Phong trào Duy Tân bị đàn áp. Quân Pháp mở cuộc tấn công
cuối cùng vào căn cứ của Hoàng Hoa Thám. Giai cấp phong kiến khơng cịn đủ sức tập hợp
lực lượng nhân dân chống lại quân thù. Cách mạng Việt Nam đang trải qua những năm tháng
khủng hoảng cả về lý luận, đường lối và phương thức.
Nhìn thấy được tấm lịng u nước đồng bào, truyền thống bất khuất của dân tộc và từ
đây khơi dậy sự thơi thúc tìm đường cứu nước. Sau này, Bác đã trả lời một nhà báo Mỹ về
quyết định của mình thuở ấy: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có ơng cụ thân sinh ra tơi, lúc
này thường tự hỏi nhau ai là người giúp mình thốt khỏi ách thống trị của Pháp. Người này

nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tơi thấy phải đi ra nước ngồi
xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Bác ra đi với chủ nghĩa yêu nước, mang một chí hướng lớn, một tấm lịng cao cả. Chờ
ngày trở về giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ. Bác đi nhiều nước, đã gặp nhiều màu da,
tiếng nói khác nhau, đó là cuộc sống tăm tối cực khổ của nhân dân các nước thuộc đia. Từ
đây nhận thức về giai cấp và tinh thần quốc tế vơ sản đã hình thành trong người. Yêu nước,
Người đã tự nguyện chấp nhận cuộc sống làm thuê cực khổ ở ngoài trời giá rét chỉ để hoạt
động chính trị. Trong suốt hành trình tìm đường cứu nước tài sản Bác có là hai bàn tay và
3


khối óc cùng với khát vọng giải phóng dân tộc. Chính khát vọng đó đã hun đúc cho người
thanh niên mảnh khảnh một sức mạnh phi thường, bền bỉ tự học, tự đào tạo để có đủ khả
năng cứu nước. Đi đến bất cứ đâu cũng học, tìm mọi cách để học, tìm hiểu phong tục tập
quán ở đất nước sở tại để nâng cao tri thức; học nghề để kiếm sống, kiếm sống để hoạt động
cách mạng. Người làm nhiều nghề khác nhau như thợ đốt lò, đầu bếp, quét tuyết, bốc thuốc,
viết báo, viết truyện, viết kịch, làm thợ chụp ảnh, thợ sửa đồng hồ…. Nếu khơng có q
trình nỗ lực tự học thì sẽ khơng làm được nhưng điều như vậy.

2. Tự học là hoạt động có mục đích, là điều cần thiết trong q trình nhận tri thức.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu
tố quyết định tạo nên trí tuệ của Người.Trong lý lịch tự khai tại Đảng Cộng sản Pháp cũng
như tại một số đại hội, hội nghị của Quốc tế Cộng sản, Bác thường khiêm tốn ghi ở phần
trình độ học vấn là: Tự học. Hay trong bài nói chuyện tại hội nghị chuyên đề sinh viên quốc
tế họp tại Việt Nam ngày 1 tháng 9 năm 1961, Hồ Chủ tịch đã tâm sự: “Về văn hố tơi chỉ
học hết tiểu học. Về hiểu biết phổ thông: 17 tuổi tôi mới nhìn thấy ngọn đèn điện lần đầu
tiên, 20 tuổi mới nghe rađio lần đầu”.
Người biết và sử dụng thông thạo trên mười ngoại ngữ nhờ tự học chứ không qua một
trường đào tạo chính quy nào. Người học ở sách báo,đồng nghiệp, bạn bè, nhân dân. Người
học từ thực tiễn sinh động ở các 4 nước đế quốc, nước thuộc địa, ở phong trào cách mạng

trên thế giới. Chúng ta ngạc nhiên và khâm phục trước khối lượng và kiến thức vừa phong
phú vừa uyên thâm của Bác, không chỉ trên các lĩnh vực chính trị,qn sự, kinh tế… Nếu
khơng có vốn kiến thức phong phú và sâu sắc tích luỹ bằng con đường tự học thì làm sao
Người để lại cho dân tộc và nhân loại những tác phẩm bất hủ ấy. Cuộc đời hoạt động cách
mạng của Bác cũng chính là cuộc đời tự học bền bỉ. Làm cách mạng bằng tự học và tự học
để làm cách mạng, hai việc này luôn tương hỗ cho nhau. Với những tác phẩm đồ sộ và
phong phú mà Người để lại cho chúng ta,ngoài giá trị lớn lao nhiều mặt của nó, cịn là một
bằng chứng sống vềtấm gương tự học suốt đời của một nhà yêu nước vĩ đại, nhà văn hoá tài
ba.

4


Mục đích học tập của bác theo bác nói:” học để tiến bộ mãi, càng tiến bộ càng cần
phải học”. Người đưa ra các phương pháp học tập được dán ở các trường học coi nhưng là
một lời động viên của Người đối với sinh viên học sinh nói riêng và mọi người nói chung:
“học nữa học mãi”. Học ở thầy, ở bạn, ở nhà trường, trong sách vở và học ở mọi người. Quá
trình lao động, làm việc là quá trình tự học, tĩnh lũy, bổ sung kinh nghiệm và rút kiến thức
thực tiễn.

3. Con đường tự học kiên trì khơng bỏ cuộc cố gắng vươn lên
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân
dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích đó thì phải: Cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng, vơ tư”. Quan niệm học tập của Bác tồn diện học tập đi đơi với rèn luyện đạo đức
hoàn thiện đạo đức nâng cao khả năng xử lý hồn thành nhiện vụ phụ vụ lợi ích của Đảng,
nhân dân, Tổ quốc.
Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập khai mạc ngày 65-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu: “Lê-nin khuyên chúng ta: “Học, học nữa, học mãi”. Mỗi
người phải ghi nhớ và thực hành điều đó”. Người cịn cho treo trong phòng họp lời dạy của
Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Người coi lời dạy của Lê-nin và
Khổng Tử là phương châm sống và hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của

mình. Người nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”. Người cịn xác định:
“Khơng phải có thầy thì học, khơng thầy đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”. Trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Nói về cách học tập, Người viết: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo
luận và chỉ đạo giúp vào”.
Về phương pháp học tập, Bác cũng đã chỉ ra “Lấy tự học làm cốt”, ngoài học ở trường, ở
lớp, phải học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân. Và người cho rằng sao nhãng việc
học là “một khuyết điểm rất to”. Chính vì Bác thấu hiểu hậu quả của “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu” nên ngày 11 tháng 6 năm 1946, trong lời kêu gọi thi đua Ái Quốc Bác đã phát
động phong trào: Diệt giặc đói; Diệt giặc dốt; Diệt giặc ngoại xâm. Bác coi giặc dốt như giặc
ngoại xâm, đều là 3 loại giặc cần phải tiêu diệt. Người viết “chống mù chữ cũng như chống
giặc ngoại xâm”.
5


Bác phê phán nhưng người giấu dốt, lười biếng học tập, tự cho mình là giỏi bác có câu
“Cái gì biết thì nói biết, khơng biết thì nói khơng biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số
một của học tập”; “Hiện nay, chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho
mình là cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, khơng muốn học hỏi quần chúng và chỉ
muốn làm thầy quần chúng”.
Gia đình có truyền thống học từ lâu thân phụ của Người, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy
là thầy dạy chữ Hán cho Người. Nhờ chăm học và học rất giỏi, sau này, Người sử dụng
thành thạo chữ Hán trong sáng tác thơ Đường. Khi theo thân phụ vào Huế, Người học ở
Trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, rồi Trường Quốc hội Huế, Người rất yêu thích học
tiếng Pháp. Trong cuộc biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, Người đã từng làm
phiên dịch giúp cho những người biểu tình đề đạt nguyện vọng, đấu tranh với viên Khâm sứ
Pháp.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước Bác đã học lớp trung đẳng tại Trường Quốc học Huế
và lớp cao đẳng ở Trường Tiểu học Quy Nhơn với thầy Phạm Ngọc Thọ. Trong thời gian
hoạt động ở nước ngồi, Người có học ở Trường Đại học Phương Đông (1923), Đại học
Quốc tế Lênin (1934), nghiên cứu sinh Viện nghiên cứu các vấn đề thuộc địa (1937) với luận

án về cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Châu Á. Nhưng Bác chỉ nhận mình tự học và trên
thực tế cả cuộc đời Bác vẫn tự học là chính. Năm 1935, dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ
VII, Người ghi vào phiếu lý lịch của mình như sau: Trình độ học vấn: tự học; ngoại ngữ:
Pháp, Anh, Nga, Đức, Ý, Trung Quốc.
Tự học và học tập suốt đời là luận điểm quan trọng trong tư tưởng bác về giáo dục, tự
học có vai trị đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định tạo nên tri thức
cho mỗi con người. Muốn sống có ích cho bản thân cho xã hội, cho đất nước thì mỗi con
người chúng ta phải có tri thức. Tinh thần tự học có thể thấy từ việc Bác ln tranh thủ thời
gian học tập và có thể học với bất kỳ người nào bất kể nơi đâu. Cần học chữ nào Bác viết lên
cánh tay, vừa đi vừa xem, vừa làm vừa học, đến cuối ngày chữ mờ dần cũng là lúc Bác nhớ
được hết. Mặc dù công việc nặng nhọc, kéo dài suốt ngày, Bác vẫn tranh thủ tới thư viện đọc
sách hoặc nghe những buổi nói chuyện để trau dồi kiến thức. Tối đến, Bác đi dự những cuộc
mít tinh, làm quen với các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, nghệ thuật để nâng cao trình độ
6


hiểu biết của mình. Có thể nói, cuộc sống lao động vất vả ấy đã rèn cho Bác ý chí quyết tâm
tự học một cách bền bỉ. Mỗi ngày, đến 9 giờ tối công việc mới xong dù mệt lử nhưng trong
khi mọi người nghỉ hay đánh bài người thanh niên Nguyễn Tất Thành vẫn đọc hay viết đến
mười một giờ hoặc nửa đêm. Khi gặp những từ mới, người thanh niên Nguyễn Tất Thành
viết vào một tờ giấy dán vào chỗ dễ thấy, có khi viết vào cánh tay để trong lúc làm việc vẫn
học được. Bác đã đặt quyết tâm “Nhất định phải học nói, học viết cho kỳ được”. Ngay khi
còn lênh đênh trên con tàu sang Pháp mỗi lúc rảnh rỗi, Bác thường tìm đến hai người lính trẻ
đi cùng chuyến tàu nhờ hướng dẫn đọc và viết tiếng Pháp. Ban đầu, Bác tập ghép một vài từ,
sau ghép thành đoạn, dần dần tập viết thành từng bài. Sau một thời gian thu xếp ổn định chỗ
ở và cơng việc trên đất Pháp, Bác tìm đến các tờ báo của Pháp xin được tham gia viết bài
đăng báo. Bác tập viết đi viết lại, khi viết diễn giải ra cho dài, cụ thể và chi tiết, lúc lại là
những đoạn văn ngắn và súc tích. Bác cố gắng đọc thật nhiều, quan sát thật nhiều để trau dồi
kiến thức học thêm cách viết của các nhà văn. Thức dây rất sớm vào mỗi buổi sáng để làm
việc. Dù trời nóng hay rét, Bác cũng khơng nản chí. Thời gian cứ thấm thoắt trơi đi, đến năm

1922, Bác đã trở thành chủ bút của tờ báo “Người cùng khổ” viết bằng 3 thứ tiếng. Tên báo
bằng tiếng Pháp đặt ở giữa, tiếng Ả Rập bên trái và bên phải là chữ Hán, tất cả đều do Bác
viết. Do tịa soạn báo khơng có Ban biên tập cố định nên nhiều khi Bác phải mọi việc từ
khâu sửa chữa, biên tập, đọc morat tới bán báo.
Cuộc đời của Bác là một quá trình: vừa học tập vừa hoạt động cách mạng; học tập để
hoạt động cách mạng, đạt được mục đích, lý tưởng của mình; qua hoạt động cách mạng,
khơng ngừng học tập, hồn thiện tri thức và nhân cách của bản thân. Người là nơi hội tụ với
tầm cao nhất tinh hoa văn hóa nhân loại, xứng đáng với sự tơn vinh của tổ chức UNESCO:
Hồ Chí Minh, một thầy giáo mẫu mực, một nhà giáo dục vĩ đại. Người đã để lại tấm gương
cao đẹp về tinh thần tự học và học tập suốt đời để chúng ta noi theo.
Quan điểm về người nào có thể tự học và tự học như thế nào của bác. Về đối tượng phải
học theo bác thì ai cũng phải học không phân biệt giai cấp, không phân biệt nghề nghiệp,
giới tính, tơn giáo, dân tộc, tuổi tác... Ham muốn của Bác, tư tưởng của Bác đã trở thành
mục tiêu của của cách mạng Việt Nam, thành các chỉ tiêu phấn đấu về trình độ và năng lực
học tập của mọi lứa tuổi, đặc biệt là học sinh, sinh viên, cán bộ công chức qua các thời kỳ và
7


Bác đã chỉ ra: “Thế giới tiến bộ không ngừng, ai không học là lùi”, “Chúng ta phải học và
hoạt động cách mạng suốt đời, cịn sống thì cịn phải học”. Người dạy “Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ, để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” và Bác
đã thấy rõ “Không học thì khơng theo kịp, cơng việc nó gạt mình lại phía sau”. Bác đã chỉ
ra: Học khơng chỉ dành cho trẻ em, không chỉ dành cho cho người trẻ tuổi, mà dành cho tất
cả mọi lứa tuổi, dành cho cả người lớn tuổi. Từ đó tạo nên một Xã hội học tập là một xã hội
mà mọi người đều được học, cần phải học và tự giác học thường xuyên, học suốt đời. con
người được tiếp cận cơ hội học tập thuận lợi và lấy tự học cùng với ý chí, nghị lực phấn đấu
kiên trì của mình để đem lại tương laic ho bản than phụ giúp gia đình và cao hơn nữa là cống
hiến ra xã hội. Nhu cầu tự học xuất phát bất kể nơi đâu bất kể lúc nào vì chỉ có học và tự học
mới đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Bác luôn nhắc nhở mọi người rằng, làm nghề gì cũng phải học và phải ham học, học

trong công việc hằng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ, việc cao cũng như việc thấp.
Học cốt để áp dụng vào công việc thực tế, nếu lý thuyết mà không áp dụng vào thực tế là lý
thuyết sng; chỉ học thuộc lịng lý thuyết thì lý thuyết ấy cũng vơ ích, mà phải vừa học, vừa
làm... Bác cũng nhấn mạnh, muốn giỏi đòi hỏi phải gắn học với thực hành, học để vận dụng
sáng tạo vào trong thực tế công tác, trong cuộc sống, học để ứng xử với bản thân, với mọi
người, với thực tế cuộc sống, để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Bản chất của tự học là một q trình học tập khơng trực tiếp có giảng viên. Tự học là lao
động khoa học, tự tìm hiểu, phân tích những kiến thức trong sách vở, tài liệu để tiến tới làm
chủ tri thức. Phải kiên trì,quyết tâm và sự nghiêm túc của người học. Hiện nay với sự phát
triển của khoa học công nghệ các phương tiện phục vụ việc tự học rất phong phú. Mọi người
dân dễ dàng tiếp cận với các thông tin khoa học qua các kênh truyền thơng chính thống,
quan Mạng xã hội nếu biết lựa chọn các thơng tin bổ ích.
Một khi đã xác định việc học là thiết yếu thì tính tự giác được hình thành ai cũng phải
học. Người cho rằng, điều quan trọng nhất sau khi học là phải áp dụng việc mình hiểu việt
mình biết vào thực tế để nâng cao chất lượng công việc “học phải đi đối với hành”. Học mà
không làm được, học mấy cũng vơ ích. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý mỗi người phải học tập
với thái độ nghiêm túc, hết sức khiêm tốn, thật thà, biết đến đâu nói đến đó, không được tự
8


cho mình là đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Bác nghiêm khắc phê phán tệ giấu dốt, lười biếng học
tập, tự cao, tự đại.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: việc tự học sẽ giúp mỗi người nhớ lâu và vận dụng những
kiến thức đã học một cách hữu ích vào cuộc sống. Và, tự học còn giúp cho mỗi người trở
nên năng động, sáng tạo, không phụ thuộc vào người khác, từ đó hạn chế những khuyết điểm
và hồn thiện bản thân. Tự học trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi. Phương pháp tự học
của Bác là: Muốn nâng cao kiến thức trong quá trình tự học, mỗi người cần phải biết cách
tận dụng thời gian và những điều kiện, phương tiện có sẵn trong xã hội, như thư viện, câu
lạc bộ, sách báo, viện bảo tàng, các buổi nói chuyện, hội thảo….


4. Học cả đời vì khơng muốn tụt lại phía sau.
Trong bản khai lý lịch tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva vào
tháng 7 và tháng 8 năm 1935, Bác Hồ với bí danh là Lin đã khai: Biết tiếng Pháp, tiếng Anh,
tiếng Quảng Đông, tiếng Ý, tiếng Đức. Nhưng trên thực tế, dựa vào những lần Bác đi thăm
nước ngồi cũng như những lần đón tiếp các phái đồn ngoại giao tới Việt Nam, chúng ta
được biết Người còn có thể sử dụng thơng thạo khá nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Thái,
tiếng Nga... Chính sự khổ cơng luyện tập đã đem đến cho Người vốn ngoại ngữ đặc biệt giàu
có. Sự đa dạng về ngơn ngữ đã đem đến nhiều tiện lợi trong suốt hành trình cứu nước và
lãnh đạo đất nước của Hồ Chí Minh. Khi sống ở nước ngồi, việc hiểu ngơn ngữ bản xứ như
một "phương tiện” để nắm bắt nhanh tình hình, hịa nhập vào xã hội.
Có một tờ báo ở Hồng Kơng viết: "Sau thắng lợi lừng lẫy ở Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh tổ chức một buổi chiêu đãi có khá nhiều khách quốc tế đến dự. Nỗi khổ tâm của
khách là sự bất đồng ngơn ngữ... Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân phiên
dịch nhiều thứ tiếng. Và cũng chính vì thế, người ta mới có dịp được biết Cụ thơng thạo
nhiều ngơn ngữ đến thế. Mọi người có mặt hết sức ngạc nhiên vì đây là một nhà chính trị,
nhà quân sự miệt mài nơi núi rừng Việt Bắc lại nói lưu lốt các thứ tiếng Trung, Anh, Pháp,
Nga... như vậy. Người nói trơi chảy tự nhiên và rất chuẩn. Tài ngoại giao của Người khôn
khéo và linh hoạt. Trong số các vị lãnh tụ trên thế giới, đây là hiện tượng hiếm có. Chính
cuộc đời hoạt động sơi nổi ở nhiều nước đã tạo điều kiện để lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp xúc
9


với nhiều ngoại ngữ. Phải thừa nhận rằng Cụ Hồ Chí Minh là một thiên tài về ngoại ngữ”.
Bài báo kết luận: "Quả thật, có thể xếp Hồ Chí Minh vào hàng cự phách trong lĩnh vực ngôn
ngữ một cách xứng đáng, đầy tự hào”.
Trong buổi nói chuyện với sinh viên tại Trường Đại học Pátgiagiaran năm 1959, Bác kể:
“Khi cịn trẻ, tơi khơng có dịp đến trường đại học. Tơi đi du lịch và làm việc, đó là trường
đại học của tôi. Trường học ấy đã dạy cho tôi khoa học xã hội. Nó dạy cho tơi cách u, cách
ghét, u nước, u lồi người, u dân chủ, hịa bình và căm ghét áp bức, ích kỷ… Trường
học ấy đã dạy tôi khoa học quân sự, lịch sử và chính trị…”. Năm 1961, nói chuyện với các

cán bộ hoạt động lâu năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh tâm sự: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào
cũng phải học…không học thì khơng theo kịp, cơng việc nó sẽ gạt mình lại phía sau. Chúng
ta là đảng viên già, hiểu biết của chúng ta hồi 30 tuổi so với sự hiểu biết của lớp trẻ bây giờ,
kể cả ở Liên Xô, Trung Quốc thì chúng mình dốt lắm. Tơi cũng dốt lắm… Nếu thế hệ già
khơn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Người ta thường nói:
“Con hơn cha là nhà có phúc”.
Thời gian dần trơi nhưng những quan điểm của Bác vẫn sống còn với thời đại, tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn đang lan tỏa, trở thành kim chỉ nam và triết lý cách
mạng cao cả, đúng đắn cho các thế hệ tiếp nối. Người đã góp phần tạo nên mốc son và dấu
ấn lịch sử huy hoàng của dân tộc trong thế kỷ XX, mở ra thời đại mang tên Hồ Chí Minh,
góp phần làm rạng rỡ non sông và là niềm cảm hứng về con đường tự học, tinh thần tự học
cho đến tận hôm nay.
Người là tấm gương về tinh thần tự học, lấy tự học làm cốt lõi, là cách chủ yếu để nâng
cao trình độ bản thân. Tự học đã trở thành một triết lý nhân văn sâu sắc với một kế hoạch cụ
thể, chặt chẽ, khoa học; một ý chí và quyết tâm bền bỉ, dẻo dai, tinh thần sáng tạo, tranh thủ
mọi lúc, mọi nơi để học. Tấm gương ham học, ham tìm hiểu của Người là nguồn cổ vũ,
nguồn cảm hứng vô tận cho mỗi người dân Việt Nam xây dựng xã hội học tập hiện nay.

5. Ý chí học cao hiểu rộng khao khát vực dậy dân tộc
Tự học của Bác Hồ có mục đích cuối cùng là làm cách mạng, giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước. Người đã đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi bằng sự vận dụng sáng tạo
10


chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Vận dụng sáng tạo chính là q
trình tự thích nghi, tự tìm tịi thâm nhập thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, phát huy yếu tố chủ
quan, yếu tố nội lực để vận dụng vào điều kiện của mình; sâu xa hơn đó là q trình tự học,
tự giáo dục để làm cho nhân cách và năng lực của mình phù hợp với mục tiêu, lý tưởng,
công việc.
Cuộc đời của Bác dành hết cho cách mạng nỗi đau đáu giải phóng dân tộc thống nhất đất

nước, nỗi khát khao mãnh liệt làm cho nước mạnh, dân giàu. Người luôn lấy mình làm
gương mẫu mực về thái độ học tập nghiêm túc, ý thức tự học thường trực, cầu tiến trong học
hỏi là căn bản để nâng cao trình độ bản thân và để cho người khác thấy phải cố gắng nhiều
hơn nữa. Tấm gương tự học của Người không chỉ ở tinh thần, thái độ cầu tiến trong học tập
mà còn thể hiện ở tư duy học tập nghiêm túc, có nền tảng, có tính khoa học; có mục tiêu, kế
hoạch cụ thể, có phương thức hành động rõ ràng, có sự kiên trì, bền bỉ, có nỗ lực sáng tạo
đổi mới, được nâng tầm thành một triết lý nhân sinh và nghệ thuật rèn luyện.
Tiếp nối những khao khát ấy của cha ông, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành được thôi
thúc để làm những điều khác người khác, những điều chưa ai từng làm. Đó là chọn cách đi
đúng, đích đến đúng: Đến nước Pháp - nơi sản sinh cả giá trị đẹp đẽ nhất của thời đại lẫn
những chiêu thức bóc lột tàn bạo nhất của chủ nghĩa thực dân. Động lực, khát vọng và sức
mạnh dẫn đến những quyết định ấy của Người không nằm ở bên ngoài mà ẩn chứa từ bên
trong, từ những nung nấu, ấp ủ thuở nhỏ. Cũng chính vì khát vọng ấy đã biến người thanh
niên mới 20 tuổi dũng cảm rời nước ra đi với hai bàn tay trắng, sẵn sàng làm đủ mọi nghề, từ
bồi tàu, thủy thủ, đốt lò, đến quét tuyết, bán diêm, bán báo… miễn là để sống, sống để đi, đi
để quan sát, học hỏi nhằm “tìm ra con đường đúng đắn có thể đem lại độc lập cho Tổ quốc,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân”.
Những năm sống và hoạt động ở nước ngoài, Bác Hồ đã luôn nêu cao tinh thần tự học
tập, rèn luyện trong thực tiễn. Chính từ những hoạt động trải nghiệm thực tế tại các nước
thuộc địa, các nước thực dân, đế quốc, trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân các dân tộc bị áp bức, Bác đã tìm thấy lý luận Mác-Lênin, cẩm nang thần kỳ để
cứu dân, cứu nước. Và trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên cơ sở kế thừa chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
11


Vấn đề độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là xuất phát điểm, là nguồn
gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, được nuôi dưỡng bởi những giá trị văn hố truyền thống của dân tộc, có sự
tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại. Người chọn hướng đi sang các nước tư bản phương

Tây tìm hiểu sự thật đằng sau khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, xem người ta làm thế
nào rồi trở về giúp đồng bào mình.
Vì “Lấy tự học làm cốt” mà Hồ Chí Minh đã khơng quản khó khăn gian khổ, đã khổ
cơng rèn luyện để có được kho tàng tri thức ở tất cả các lĩnh vực. Để đạt được mục tiêu của
mình, Người đã vừa học tập, vừa hoạt động cách mạng nhằm hoàn thiện tri thức và nhân
cách bản thân. Từ tình yêu nước, từ học tập và tự học, Hồ Chí Minh đã hồn thành mục tiêu
cao cả: giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân... Những
vấn đề cốt lõi trong tinh thần tự học của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu của tự học là để làm cách mạng: giải phóng
dân tộc, xây dựng đất nước; học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Từ mục tiêu lớn
lao đó, Người đã xác định học là một nhu cầu; học tập và tự học tập là việc phải làm suốt
đời: “Cịn sống thì cịn phải học, cịn phải hoạt động cách mạng”.
Thứ hai, hành trang khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước là chủ nghĩa yêu nước với tài
sản duy nhất và quý báu nhất là hai bàn tay, đơi mắt, trái tim và khối óc. Tài sản đó ai cũng
có, nó vốn tồn tại như một tài sản vô giá của mỗi con người. Song khác nhau là cách ứng xử
của mỗi người. Với Bác Hồ thì “thơng minh do rèn luyện mà có…”; thái độ học tập của
Người là say mê, luôn khiêm tốn, cầu thị, không kiêu ngạo, không dấu dốt. Người cho rằng:
“Không ai có thể tự cho mình là đã biết hết rồi” và “Người nào tự cho mình là đã biết đủ rồi,
thì người đó là dốt nhất”, “Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập”.
Thứ ba, phương pháp học tập của Hồ Chí Minh là: có động cơ học tập trong sáng (học để
làm cách mạng, học để phụng sự Tổ quôc, phục vụ nhân dân); thiết lập được một kế hoạch
cụ thể, khoa học và học một cách sáng tạo, không dập khuôn theo người khác; học ở mọi
người; học ở mọi nơi (học ở trường, học trong sách vở, học ở dân và học lẫn nhau).

12


Có thể khẳng định, chính nhờ tự học và tự học suốt đời đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh có
một tầm hiểu biết rộng lớn, có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, có trí tuệ thiên tài. Đúng như
nhà nghiên cứu Nga Vasiliep đã nhận xét: “Hiếm có chính khách nào của thế kỷ XX có thể

sánh được với Hồ Chí Minh về trình độ học vấn, tầm hiểu biết rộng lớn và sự thông minh
trong cuộc đời”

II. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI BẢN THÂN
Tấm giương tự học của bác luôn thôi thúc hằng ngày phải cố gắng hơn nữa. Có một
người từng nói hơm nay tơi làm những điều người khác không làm để ngày mai tôi có những
thứ người khác khơng có. Khơng muốn bị bỏ rơi lại phía sau nên càng phải cố gắng hơn. Tự
học những điều mà thầy cơ trên lớp khơng có thời gian nhắc tới, cố gắng từng này tiến về
phía trước. Tấm giương của bác mang nhiều ý nghĩa đối với em. Trong đầu luôn xuất hiện, ý
thức “hướng học” và “hiếu học”. Phải luôn thường trực sự học hỏi, học tập ở mọi nơi mọi
lúc, nghiên cứu nhiều hơn, quan sát nhiều hơn, xem xét các mặt của vấn đề.
Tự học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong q trình học: chủ động suy nghĩ,
tìm tịi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học giúp ta tiếp thu
được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình tivi, từ bạn bè hoặc
từ những người xung quanh, những kinh nghiệm sống của nhân dân. Tự học giúp ta có thể
chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp, tiết kiệm được thời gian, có thể tiếp thu một lượng
kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Và qua tự học, từ lí thuyết, chúng ta biết chủ
động luyện tập thực hành, giúp ta có thể nhanh chóng hình thành kĩ năng,củng cố và nâng
cao kiến thức đã học. Vì vậy, chủ động tự học sẽ giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt
nhất mang lại hiệu quả cao cho chính bản thân mình.
Ln có tinh thần, ý chí và nghị lực học tập. Tinh thần học tập có thể rèn luyện ln cố
gắng nói với bản than mình sẽ làm được, khơng được bỏ cuộc. Nghị lực học tập phải được
thể hiện qua sự quyết tâm, bền bỉ từng ngày chứ không thể học dồn một lúc. Sự phát triển
như vũ bão của khoa học kỹ thuật làm cho cái mới đến nhanh và cũng sẽ đi nhanh, chỉ cần
buông xuôi không cập nhật là trở nên lạc hậu ngay lập tức. Hiện nay công nghệ phát triễn
khả năng tiếp cận cảu mọi người đến tri thức dễ dàng hơn hồi trước đó là tài nguyên mà ai
13


cũng có thể khai thác nhưng muốn làm chủ được chúng thì khơng thể thơng qua mua bán,

vay mượn mà chỉ có con đường duy nhất là học tập, tự học hỏi để tích lũy cho bản thân và
ứng dụng vào cơng việc, cuộc sống một cách có ý nghĩa nhất. Tự học một cách chủ động
chứ khơng mang tính đối phó hay chạy theo thành tích, việc trau dồi kiến thức không chỉ
xoay quanh điểm số, giấy khen, bằng cấp mà cịn hướng về tương lai. Tự học có chọn lọc
bởi ngày này kiến thức quá nhiều thông tin tràn lan, bởi tri thức là vô tận nhưng thời gian,
khả năng tiếp nhận của mỗi người là hữu hạn. Kiến thức là nguồn tài nguyên mở nhưng việc
tự khám phá, tiếp thu ra sao là sự lựa chọn của riêng mỗi người. Ngồi tự học các kiến thức
chun mơn, chuyên ngành thì cần trang bị cho bản thân các nền tảng xã hội. Cần trang bị
vững chắc các kỹ năng sống, kỹ năng sinh tồn, kiến thức tự chăm sóc bản thân và gia đình...
Cần quan tâm các cơng việc xã hội - thiện nguyện để mang những hiểu biết cá nhân có được
nhờ q trình học tập, tự học vào các hoạt động ích nước lợi nhà và đóng góp cho cộng
đồng. Học phải đi đơi với hành phải vận dụng lý thuyết, cọ sát thực tế, va chạm nhiều hơn
tạo cho bản than cứng cáp hơn. Không nên dục tốc bất đạt, không nên tạo quá nhiều áp lực
với bản thân. Áp lực vừa phải tạo thành động lực nhưng áp lực nhiều quá sẽ kiến bản than
bng xi và gây ra thất vọng với chính bản thân mình. Sử dụng nền tảng xã hội vào những
việc nên là khơng nên để nó “dẫn dắt” mình mà mình phải làm chủ được nó. Cần học hỏi,
hồn thiện bản thân về ngôn ngữ, phong cách giao tiếp, kỹ năng ứng xử với xung quanh,
tránh việc quá lạm dụng giao tiếp trên mạng, giao tiếp trong môi trường ảo, sử dụng từ tắt,
tiếng lóng mà bỏ qua hệ thống từ ngữ chuẩn mực, bỏ qua việc giao lưu xã hội thực tế, tương
tác với người thật việc thật. Có phương pháp, công cụ học tập đúng đắn. Đã qua thời học tập
theo mơ hình một thầy giảng và nhiều người nghe trong một lớp học tập trung, mà kiến thức
đang được tiếp thu liên tục thơng qua q trình tự học hỏi, tự tìm tịi, tự tiếp nhận. Q trình
chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay đã giúp người học có thêm nhiều cơng cụ học tập như học
điện tử, học trên di động, học cộng tác xã hội, …. rất nhanh chóng, mọi lúc mọi nơi và trên
nhiều phương tiện, công cụ khác nhau. Học tập với mục đích cuối cùng là lo cho bản thân,
giúp được gia đình và nếu nhiều hơn nữa là cống hiến ra ngoài xã hội.

14



PHẦN KẾT LUẬN
Câu chuyện “Bác Hồ với tinh thần tự học” nhắc nhở chúng ta cần dành thời gian học
tập theo tinh thần tự học của Bác, góp phần hồn thiện bản thân, nâng cao trình độ mọi mặt,
xử lý và hồn thành một cách tốt nhất cơng việc được giao.
Cịn sống thì cịn phải học. Và chính cuộc đời của Người là tấm gương sáng ngời về
tự học. Dù Người đã đi xa, song tấm gương học, học không biết mệt mỏi của Người thì vẫn
cịn sống mãi với muôn đời các thế hệ con cháu mai sau. Tinh thần học hỏi, ý chí tự học, tự
phấn đấu, rèn luyện đã hun đúc nên một Nguyễn Tất Thành, một Nguyễn Ái Quốc, một Hồ
Chí Minh, một vĩ nhân Việt Nam, danh nhân thế giới. Một con người với tư duy minh triết,
khối óc thơng tuệ và một trái tim yêu nước thương dân nồng nàn cùng nhiệt huyết cháy bỏng
đã quyết ra đi tự tìm đường cứu nước từ khi mới 21 tuổi. Tinh thần tự học, tự hoàn thiện, ý
chí tự vươn lên khơng chịu khuất phục áp bức, cường quyền của một con người đã biến
thành công cuộc giải phóng vĩ đại của một dân tộc. Độc lập tự do của Tổ quốc hôm nay bắt
nguồn từ những ngày tháng “Người đi tìm hình của nước”.
Người ln có thái độ học tập nghiêm túc, ý thức tự học thường trực, coi đó là nguồn
gốc căn bản để nâng cao trình độ bản thân. Tấm gương tự học của Người không chỉ ở tinh
thần, thái độ cầu tiến trong học tập mà còn thể hiện ở tư duy học tập nghiêm túc, có nền
tảng, có tính khoa học; có mục tiêu, kế hoạch cụ thể, có phương thức hành động rõ ràng, có
sự kiên trì, bền bỉ, có nỗ lực sáng tạo đổi mới, được nâng tầm thành một triết lý nhân sinh và
nghệ thuật rèn luyện.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> /> /> />
16


MỤC LỤC


17



×