Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

CƠ sở văn hóa VIỆT NAM văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 11 trang )

BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP. HCM
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN – BỘ MÔN KHXH

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

LỚP HP: 310001201
GVHD: NGUYỄN AN THỤY
HỌ VÀ TÊN SVTH: NGUYỄN THỊ TÚ TRINH
MSSV: 18510801832

TP.HCM, NGÀY 26, THÁNG 8, NĂM 2021
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC
TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỀ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
NĂM HỌC 2020 – 2021

Khoa: Khoa Học Cơ Bản

Mơn: Cơ sở văn hóa Việt Nam – HK III

Bộ môn: Khoa Học Xã Hội

LỚP HP:
HỌ TÊN SINH VIÊN:
MSSV:



Bộ môn / Khoa
(Ký duyệt)
Nguyễn Thị Song Thương

Chữ ký giảng viên
chấm thi thứ 1

Chữ ký
Giảng viên ra đề

Chữ ký giám thị 1

Chữ ký giám thị 2

Nguyễn An Thụy

Chữ ký giảng viên Điểm số
chấm thi thứ 2

Điểm chữ

Câu hỏi thi: Thế nào là văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên? Trình bày văn
hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên của người Việt tại vùng văn hóa mà Anh/
Chị đang sinh sống.
( SV phải kí tên vào mục Họ và tên SV)

2



MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên
2. Vùng văn hóa Tây Nam Bộ
2.1 Điều kiện tự nhiên
2.2 Vùng văn hóa Tây Nam Bộ
3. Vùng Tây Nam Bộ và cách ứng xử với môi trường tự nhiên.
3.1 Tận dụng: Ăn
3.2 Ứng phó: Mặc
3.3 Ứng phó: Đi Lại
3.4 Ứng phó: Ở
C. KẾT LUẬN

3


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khái niệm về văn hóa có nhắc đến “sự tương tác với mơi trường tự nhiên
và xã hội”. Vì vậy sự tương tác với môi trường tự nhiên là như thế nào? Và văn
hóa ứng xử của con người diễn ra như thế nào ở vùng đất Tây Nam Bộ hay còn
gọi là đồng bằng Sông Cửu Long.
2. Đối tượng nghiên cứu
Văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên.

Văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên tại vùng văn hóa Tây Nam Bộ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu về vùng văn hóa Tây Nam Bộ có những đặc trưng gì, từ đó so
sánh, hệ thống, đánh giá khái quát về cách ứng xử với môi trường tự nhiên như
thế nào ở vùng văn hóa này
4. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng cái hiểu biết về vùng đất đang sinh sống, triển khai và diễn đạt lại về
văn hóa ứng xử với môi trường. Hiểu rõ hơn những cái đã quen thuộc ở vùng
đất này.
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Mối quan hệ giữa văn hóa và mơi trường: Các hình thái văn hóa đầu tiên
của văn hóa có liên quan đến nhu cầu cơ bản nhất của con người: Đó là nhu
cầu sinh tồn: ăn, ở/đi lại và mặc.
Văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên: Con người sống trong quan hệ
chặt chẽ với tự nhiên, ứng xử với môi trường tự nhiên có 2 khả năng:
Tận dụng: Tận dụng những gì có ích cho mình từ mơi trường tự nhiên.
Việc ăn uống thuộc tận dụng mơi trường tự nhiên.
Ứng phó: Ứng phó với những bất lợi từ môi trường. Việc mặc và việc ở/ đi
lại thuộc ứng phó với mơi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, khi ứng phó với thời tiết trong việc mặc thì con người vận dụng
thiên nhiên tạo nên vải để may thành đồ mặc, hay việc dùng vật liệu tự nhiên
để xây nhà ứng phó với thời tiết.

4


2. Vùng văn hóa Tây Nam Bộ
2.1. Điều kiện tự nhiên
Vùng đồng bằng sơng Cửu Long (cịn được gọi là Vùng đồng bằng sông

Mê Kông, Vùng đồng bằng Nam Bộ, Vùng Tây Nam Bộ, Cửu
Long hoặc Miền Tây) là vùng cực nam của Việt Nam, một trong hai phần
của Nam Bộ.

Miền Tây nổi tiếng với
nhiều kênh rạch chằng chịt,
sơng ngịi dày đặc. Các con
sông này nguồn nước dẫn chủ
yếu là từ sông Cửu Long
(Cửu Long giang), là tên gọi
chung cho các phân lưu của
sông Mê Kông chảy trên lãnh
thổ của Việt Nam. Từ Phnom
Penh, sông Mê Kông chia
thành 2 nhánh: bên phải là
sông Ba-thắc (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái là
Mê Kông (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy
vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam, dài chừng
220–250 km mỗi sơng.
2.2.

Vùng văn hóa Tây Nam Bộ

Văn hóa vùng Tây Nam Bộ là bộ phận hợp thành văn hóa dân tộc. Nó là cốt
cách, tâm hồn, lý trí, tình cảm, sức mạnh và là chất keo kết nối các cộng đồng
cư dân vùng đồng bằng sông nước. Các cộng đồng cư dân này đã gắn bó, đồn
kết với nhau suốt hơn ba thế kỷ qua để cùng tồn tại và phát triển. Trong quá
trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, tuy có sự giao thoa và tiếp biến của
nhiều vùng văn hóa khác nhau, theo đó văn hóa vùng Tây Nam Bộ nói chung,
văn hóa cộng đồng, văn hóa gia đình nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng, từ đó

biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, nhưng nét đặc trưng văn hóa
sơng nước - văn hóa miệt vườn và văn hóa dung hợp của nhiều tộc người vẫn
khơng bị mất đi, trái lại, cịn được bổ sung, phát triển để ngày càng hoàn thiện
và sâu sắc.

5


Đặc trưng vùng văn hóa Tây Nam Bộ:
Đặc trưng đồng bằng sơng nước (văn hóa sơng nước, văn hóa miệt
vườn): Miền Tây Nam Bộ hay còn gọi là Đồng bằng Sơng Cửu Long, với hệ
thống sơng ngịi dày đặc, phương tiện di chuyển chủ yếu là ghe xuồng, từ đó đã
hình thành nên vùng văn hóa sơng nước nơi đây.
Sự tiếp biến các yếu tố văn hoá của người Chăm, người Khmer, người
Hoa vào văn hoá Việt trong vùng (văn hóa dung hợp hay hỗn dung văn
hóa): người dân Tây Nam Bộ phần lớn là dân di cư từ miền Bắc, Trung nước ta
và bao gồm cả người Hoa, người Chăm, người Khmer (ngồi ra cịn có các tơn
giáo khác nha, thậm chí có tộc người, tơn giáo chỉ hiện hữu ở nơi đây mà
không ở các vùng khác như tộc Khmer, đạo Cao Đài, Hòa Hảo). Do nhiều dân
tộc, tôn giáo khác nhau tạo nên một Tây Nam Bộ trở thành vùng giao thoa, tiếp
biến văn hóa rất lớn, tạo thành đặc trưng văn hóa dung hợp.
[Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ và sự giao lưu, tiếp biến trong các quan
hệ tộc người – Nguyễn Văn Chuộng]
3. Vùng Tây Nam Bộ và cách ứng xử với môi trường tự nhiên.
3.1. Tận dụng: Ăn
Quan niệm ăn uống: Ông bà xưa thường dạy con cháu “ăn coi nồi, ngồi
coi hướng” để chỉ việc trong măm cơm cần quan sát mọi người, quan sát
thức ăn, số lượng người và ngồi cho đúng chỗ trong những bữa tiệc.
Người miền Tây thường thoải mái hơn trong việc mời cơm, đặc biệt là
những bữa cơm trong gia đình chỉ cần đủ số người thì sẽ bắt đầu ăn, họ

thường khơng “mời ăn”. Ngồi ra, có những lúc thời gian khơng thích hợp
thì mỗi người sẽ tự “bới tơ” riêng cho mình ăn chứ không dọn theo măm
cơm rồi cả nhà cùng ăn, lý do của việc này là do trong lúc ngày xưa khi
khai hoang, giữ thiên nhiên hoang sơ, con người bận bịu lao động, thì ai
rảnh tay thì ăn trước, ai đói thì ăn trước, khơng chờ đợi cả nhà ăn chung.
Măm cơm thường được dọn trên bàn ăn hoặc cũng có thể dọn trên sàn nhà,
chỉ sạch sẽ là được, còn về những đám tiệc vẫn ưu tiên sử dụng bàn.
Cơ cấu bữa ăn :
Bữa ăn vẫn mang đậm truyền thống của văn hóa nơng nghiệp lúa
nước. Ngồi ra, một bữa ăn ở vùng Tây Nam Bộ còn mang đậm đặc trưng
của một vùng văn hóa sơng nước – miệt vườn.
Từ đặc điểm địa hình và lối sống sinh hoạt, người miền Tây Nam Bộ
định hình nền văn hóa sơng nước, nguồn lương thực – thực phẩm chính là
lúa, cá, rau quả, thịt, rau rừng,..Suốt hành trình khai hoang của cha ông, với
6


những điều kiện thấp kém nhất nhưng với tính chịu khó, tìm tịi mà đã tạo
nên một nét đặc trưng trong lối ăn uống của người dân vùng này.
Người miền Tây có câu: “Khơng có gì ngon bằng cơm với cá. Khơng
có tình nào bằng má với con”.
Với hệ thống sơng ngịi cũng như là vùng trơng lúa nước lớn nhất nước
ta, không thể không kể đến nguồn thủy sản mà sông và ruộng đồng mang
lại. Người miền Tây ăn cơm với cá, các loài thủy sản nước ngọt. Các món
ăn được chế biến từ thủy sản cũng rất phong phú
- Chế biến trục tiếp: nấu canh, kho, chiên, nướng, luột, hấp,…
- Thông qua việc làm khô, ủ mắm để dự trữ, sử dụng lâu dài.
Trong bữa cơm ngoài các món ăn từ cá thịt thì các món từ rau củ là
khơng thể thiếu. Như đã nói, miền Tây là vùng đất sơng nước – miệt vườn,
vì vậy rất phong phú các loại thực vật trên cạn lẫn dưới nước, rau rừng rau

vườn rất dễ tìm thấy.
- Các cách chế biến thơng thường: nấu canh (canh rau có thể nấu
chung nhiều loại với nhau, có thể nấu cùng với mướp, bầu,..), xào,
luột, ăn sống,..
- Làm dưa, làm gỏi, ủ mắm (mắm tép dùng đu đủ sống bào sợi để ủ
cùng)
Có một món ăn có rất nhiều phiên bản ở miền Tây, đó là
canh chua:
Canh chua nấu với cá (cá lóc, cá điêu hồng, cá basa,…), nấu
với tôm tép, nấu với lươn, nấu với khơ (khơ cá lóc, khơ cá dứa,…).
Ngồi ra cịn có thể kết hợp được nhiều loại rau khác nhau:
rau

muống, dọc mùng, giá, khóm, cà chua, rau om, rau ngò om, ngò gai,
quế, rau nhút, đậu bắp, lá giang, bắp chuối (bơng chuối), bơng súng,
bơng điên điển,…

Có một điều đặc biệt ở miền Tây là người dân ăn cơm với trái
cây, thường thì là 3 loại: dưa hấu, chuối, xoài. Đây được coi là một
7


đặc điểm riêng khác biệt nhất của vùng này ở miền Nam nói riêng
và cả nước nói chung.
3.2. Ứng phó: Mặc
“Ăn chắc mặc bền”, sau ăn thì là mặc là quan trọng với con người. Mặc
giúp ứng phó lại thời tiết. Khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ là khí hậu nhiệt đới
gió mùa, một năm có hai mùa: mùa mưa và mùa khơ.
Ngồi ý nghĩa ứng phó thời tiết, thì mặc cũng là nhu cầu thẫm mỹ của
con người, việc ăn mặc của người dân Việt Nam nói chung, miền Tây nói

riêng mang đậm dấu ấn nơng nghiệp.
Nói trang phục mang đậm dấu ấn nơng nghiệp, là vì người miền Tây
làm nông, nên khi mặc trang phục đi làm nơng sẽ mặc đồ màu tối như đen,
nâu, xám,…đội nón lá và họ lựa chọn những trang phục gọn gàng để dễ làm
việc hơn.
Có một phụ kiện đặc biệt hay gắn với hình ảnh người nơng dân ở miền Tây đó
là chiếc khăn rằn.
Chiếc khăn rằn có nguồn gốc từ người Khmer và trong quá trình cộng cư
của các dân tộc trên vùng đất đồng bằng sơng Cửu Long, nó đã được chuyển
thành thứ trang phục đặc trưng của nhiều dân tộc khác. Chiếc khăn rằn
thường có hai màu đen và trắng hoặc nâu và trắng. Hai màu này đan chéo
nhau, tạo thành ô vuông nhỏ, trải dài khắp mặt khăn và có lẽ các lằn ngang
dọc ấy là gốc gác của tên gọi khăn rằn. Chiếc khăn rằn có chiều dài khoảng
1,2m, rộng chừng 40–50 cm, không cầu kỳ, sặc sỡ mà bình dị, đơn giản.

[Wikipedia]

8


Người miền Tây hiện đại đa phần mặc áo bà ba, đồ đồng bộ đặt may, giới
trẻ thì trang phục thường thấy là áo thun, âu phục,…Những trang phục thoải
mái và sử dụng chất liệu thống mát để ứng phó với khí hậu nóng ở vùng này.
Tuy có sự du nhập của các trang phục phương Tây nhưng hình ảnh chiếc áo bà
ba và chiếc khăn rằn đã in sâu vào tâm trí người dân miền Tây Nam Bộ khơng
thể phai mờ.
3.3. Ứng phó: Đi Lại
Là một nước nơng nghiệp, công việc chủ yếu của người dân Việt Nam là
làm nông, nên quãng đường đi lại của người dân sẽ là “từ nhà ra đồng”. Ở
vùng Tây Nam Bộ ngoài việc đi làm nơng thì do hệ thống sơng ngịi dày đặc

nên phương tiện đi lại chủ yếu thường là ghe/xuồng. Khi những con sơng lớn
chưa có cầu bắc ngang thì thường sẽ di chuyển bằng phà. Chun chở hàng
hóa cũng thường sử dùng thuyền, sà lan để chở trên những con sơng lớn. Ngồi
ra cịn có loại hình thương mại nổi tiếng ở vùng này đó là chợ nổi, lớn nhất
phải kể đến chợ nổi Cái Răng ở Cần Thơ, ở Vĩnh Long cũng có chợ nổi Trà Ơn
cịn hoạt động khi mà hệ thống giao thông đường bộ phát triển.

Ngoài ra, người dân ngày xưa sẽ
dựng “cầu khỉ” hoặc “cầu dừa” bắc
ngang những kênh rạch nhỏ để thuận
tiện đi lại. Hoặc những con sơng vừa thì
sẽ dùng ghe đị chở người qua sơng
hoặc đi một đoạn đường dài từ nơi này
đến nơi khác (cách hoạt động như xe
chở khách ngày nay), sau này vẫn cịn
hình thức dùng ghe đò chở người vào đám tiệc (đám cưới, đám hỏi) khi mà
đường bộ không tiện cho xe lưu thông.

9


3.4. Ứng phó: Ở
“An cư lạc nghiệp” nhà là nơi cư trú, che chở để ứng phó với mơi trường
tự nhiên, thời tiết khắc nghiệt, là nơi diễn ra hoạt động sinh hoạt của đời sống
con người. Là vùng sông nước, ngày trước phương tiện đi lại là ghe xuồng nên
nhà của hầu hết người miền Tây Nam Bộ thường là đối mặt ra sơng/kênh.
Ngồi kiểu nhà truyền thống, xây hồn tồn ở trên cạn (chỉ đối mặt ra
sơng), cịn có nhà sàn nửa trên cạn nửa dưới nước, hoặc nhà sàn hoàn toàn
dành cho những nơi bị ảnh hưởng của mùa lũ hằng năm, ngồi ra cịn có nhà
bè sống hồn tồn trên sơng nhưng vẫn cố định một chỗ, khơng di chuyển,

thường thì hình thức này kết hợp với việc nuôi trồng thủy sản.
Một số người dân sống bằng nghề chở hàng, nên họ lấy thuyền làm nhà
sống ngày đây mai đó.

Vật liệu chủ yếu để xây dựng nhà thường vào ngày trước là dùng lá dừa nước
bện thành tấm lá (dùng để lợp mái hoặc dựng vách điều được), gỗ, tre, nứa, nền
đất. Thời điểm hiện tại thì ngành xây dựng phát triển, nhà xây bằng bằng xi
măng, lợp tơn, lợp ngói,…là chủ yếu.
C. KẾT LUẬN.
Qua việc tìm hiểu về những cách ứng sử: tận dụng, ứng phó đối với mơi trường tự
nhiên ở vùng văn hóa Tây Nam Bộ ta thấy được sự phối hợp, thích nghi của con
người đối với tự nhiên. Tận dụng nhừng gì tự nhiên cho làm nên văn hóa, bản sắc
của một vùng đất, tạo nên những giá trị tốt đẹp. Từ những đúc kết có sẳn của cha
ơng trong q trình sinh sống, cần phải phát triển thêm các giá trị này.

10


11



×