Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Thảo luận luật dân sự buổi 5 ĐH Luật TP.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.37 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

BÀI THẢO LUẬN THỨ NĂM: QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA
KẾ
MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI
SẢN VÀ THỪA KẾ
GIẢNG VIÊN: T.S Đặng Nguyễn Phương Uyên
LỚP: QT46B1 - NHĨM 4 – BUỔI 5

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 4 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

BÀI THẢO LUẬN THỨ NĂM: QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA
KẾ
MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI
SẢN VÀ THỪA KẾ
GIẢNG VIÊN: T.S Đặng Nguyễn Phương Uyên
LỚP: QT46B1 - NHÓM 4 – BUỔI 5
STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

1

Bùi Võ Thảo Nguyên



2153801015174

2

Nguyễn Trương Quang Nhật

2153801015182

3

Nguyễn Viết Tùng

2153801015227

4

Lê Thị Thu Ngân

2153801015159

5

Trần Thị Duyên Như

2153801015200

6

Nguyễn Đại Phước


2153801015203

GHI CHÚ

Nhóm trưởng


NỘI DUNG THẢO LUẬN
I.

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ

A. TĨM TẮT:


Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tịa án Nhân dân thành phố
Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
Nguyên đơn là ông Trần Văn Hoà khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp
về thừa kế tài sản với bị đơn là anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương. Tài
sản ơng Hồ và bà Mai (vợ ơng Hồ) gồm 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao
quanh và một lán bán hàng xây dựng năm 2006 trên diện tích đất 169,5 m (trong
đó 84 mỉ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn 85,5 mỉ cịn lại thì
chưa nhưng hộ ơng Hồ đã sử dụng ổn định, ranh giới các hộ xung quanh đều rõ
ràng và khơng có tranh chấp, khơng thuộc diện phái quy hoạch di dời). Anh Nam,
chị Hương yêu cầu xác định diện tích đất 85,5 m’ là tài sản chung của gia đình
nhưng Hội đồng xét xử khơng chấp thuận. Đối với diện tích đất tăng 85,5 mỉ chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Hội đồng xét thấy đây vẫn là tài sản
của ông Hoả, bà Mai, chỉ có điều là đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với
Nhà nước. Tài sản được hình thành trong thời gian hơn nhân nên được chia đơi

cho ơng Hồ, bà Mai. Do trước khi chết bà Mai không để lại di chúc nên di sản
của bà Mai chia cho mỗi người được hưởng 1/3 di sản thừa kế của bà Mai. Diện
tích đất 38,4 mỉ và 47,1 m’ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
ơng Hoà và anh Nam sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước sẽ liên
hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận.



Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển
nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó.
Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế.
Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cụ thể
năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2
trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất cịn lại của thửa
đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn
quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông


Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến phản đối
gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc
sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà
Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu
trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ.
Tịa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần
đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là khơng đúng.” Trường hợp này, Tịa án
phải cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện

tích đất đã chuyển nhượng khơng cịn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc
quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng.
B.

CÂU HỎI THẢO LUẬN:
1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở

pháp lý khi trả lời?
Theo điều 612 BLDS 2015, di sản bao gồm "tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung của người khác".
Theo Khoản 1 Điều 615 BLDS 2015 thì “Những người hưởng thừa kế có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ
trường hợp có thoả thuận khác"
Vì căn cứ trên nên di sản không bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố.
2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một

tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản khơng? Vì sao?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là
thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tịa án tun bố một người là đã chết
thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật
này”.
Trong thực tế có những trường hợp di sản thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới
ví dụ là giả sử việc trước khi chết, người để lại thừa kế có thực hiện một giao dịch
dân sự mua bán đất, bên mua đặt cọc trước một khoản tiền hứa sau 6 tháng sẽ trao
đủ tiền và nhận đất, tức là tại thời điểm mở thừa kế phần đất ấy vẫn là tài sản của
người chết và là di sản thừa kế, đúng hạn 6 tháng người mua trao đủ tiền và nhận
đất thì đất lại bị thay thế bởi khoản tiền mua đất (sau thời điểm mở thừa kế) thì
khoản tiền đó vẫm được xem là tài sản để lại cho người thừa kế vì nó phát sinh



trên nền tảng của di sản mà người chết đã thực hiện giao dịch trước khi chết để lại.
Vì vậy xem tài sản mới thay thế cho di sản thừa kế cũng là di sản thì hồn tồn
hợp lý.
Việc xem tài sản mới là di sản thừa kế sẽ tạo nên sự đảm bảo về quyền lợi cho
người thừa kế.
3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người

quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với quyền sử dụng đất của người quá cổ không cần phải đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để được coi là di sản, theo hai trường hợp:
Trường hợp 1: Quyền sử dụng đất khơng có giấy chứng nhận nhưng có di sản là
nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, . . .) gắn liền với
quyền sử dụng đất đó mà có u cầu chia di sản thừa kế thì “trong trường hợp
đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử
dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
thì Tịa án giải quyết u cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất
và quyền sử dụng đất đó. Trong thực tế, dường như Tịa án khơng u cầu phải có
“văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là
hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” và vẫn xác
định quyền sử dụng đất là di sản cùng với tài sản trên đất (không chỉ tài sản trên
đất mới là di sản).
Trường hợp 2: Quyền sử dụng đất khơng có giấy chứng nhận nhưng khơng có nhà
ở, vật kiến trúc khác trên đất: Theo đó mục 1.2 phần II của Nghị quyết số
02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10 – 8- 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao quy định: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một
trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1,2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
năm 2003, thì kể từ ngày 1-7-2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không
phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”. Như vậy, đối với trường hợp người q cố
khơng có giấy chứng nhận, quyền sử dụng đất là di sản hay khơng cịn phụ thuộc

vào việc người q cố có một loại giấy tờ quy định tại các khoản 1,2 và 5 Điều 50
của Luật Đất đai năm 2003 hay khơng. Nếu người q cố có một trong những giấy
tờ quy định tại các khoản 1,2 và 5 của Luật Đất đai 2003 (được nhắc lại tại Điều
100 Luật Đất đai 2013) như giấy tờ mua bán hay trích lục địa bộ của chính quyền
cũ, quyền sử dụng đất là di sản và, từ đó, một tác giả đã nhấn mạnh rằng “hầu hết
quyền sử dụng đất do người chết để lại đã trở thành di sản thừa kế”. Ngược lại,


nếu người q cố khơng có một trong những giấy tờ quy định tại các khoản 1,2 và
5 Điều 50 của Luật Đất đai 2003, quyền sử dụng đất không được coi là di sản.
4. Trong Bản án số 08, Tồ án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản khơng? Đoạn nào của bán án có
câu trả lời?
Trong Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020, Tịa án có coi diện tích đất tăng
85,5 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản.
Đoạn trong Bản án số 08 có câu trả lời là: "Do đó, đây vẫn là tài sản của ơng Hịa,
bà Mai, chỉ có điều là đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước,
nếu không xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên đương sự"
5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Toà án trong Bản án số 08

về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo nhóm em, hướng xử lý nêu trên của Tịa án trong Bản án số 08 về diện tích
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hoàn toàn hợp lý.
Thứ nhất, theo điểm b tiểu mục 1.3 phần II của Nghị quyết 02/2004/NQ - HĐTP
thì trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó khơng có một trong
các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng
có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với quyền sử dụng đất đó thì nếu có
văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó

khơng vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì
Tồ án giải quyết u cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Tuy
Ủy ban nhân dân phường Đống Đa chưa có văn bản cho biết rõ là việc sử dụng đất
đó có vị phạm quy hoạch hay không, nhưng theo ông Nguyễn Ngọc Thu đại diện
theo pháp luật của UBND phường Đống Đa trình bày: "Hộ ơng Hịa đang sử dụng
diện tích đất tăng ổn định, không thuộc diện quy hoạch di dời, khơng tranh chấp",
nên có xem xét để giao quyền sử dụng đất do không vi phạm quy hoạch.
Thứ hai, như ơng Thu đã đề cập thì ơng Hịa đã sử dụng diện tích đất tăng ổn định,
các hộ liền kề cũng khơng có tranh chấp về việc hộ ơng Hịa sử dụng diện tích đất
tăng này nên có thể ngầm hiểu họ cũng công nhận quyền sử dụng đất của ông. Có
ý kiến cho rằng: “về bản chất “cái” được coi là di sản có giá trị tài sản là quyền sử
dụng đất hợp pháp, chứ không phải là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy 3
Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Toà án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc, chứng nhận quyền sử dụng đất thực ra chỉ là một hình thức


pháp lý, Nhà nước cơng nhận một ai đó có quyền sử dụng đất hợp pháp, chứ nó
khơng phải là căn cứ xác lập quyền sử dụng đất. Do đó, nếu có chứng cứ chứng
minh người quá cố là người sử dụng hợp pháp đích thực quyền sử dụng đất thì nên
coi đó là di sản”. Vì đã có chứng cứ chứng minh ơng Hịa là người sử dụng đất
hợp pháp, do đó, Tịa án đã coi diện tích đất tăng 85,5 m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản nếu các đương sự thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế.
6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng

Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Ơng N mất 1984 nên thời điểm mở thừa kế là 1984 khi đó tài sản là mảnh đất có
diện tích 398m2. Mảnh đất là tài sản chung giữa vợ chồng ông N và bà G nên chia
đôi là 199m2
7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K


có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?
Phần diện tích đất 131m2 đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K khơng được
coi là di sản để chia, vì bà G đã chuyển nhượng đất cho ông K và ông K cũng đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc chuyển nhượng trên các con của bà G đều biết nhưng khơng ai có ý kiến
phản đối và số tiền có được bà G dùng để chăm lo đời sống cho các con nên phần
diện tích đất trên đã được các thừa kế chấp nhận bán đi, do đó khơng cịn nằm
trong khối di sản để chia.
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần

diện tích đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K.
Theo hướng giải quyết trong án lệ trên là thừa nhận quyền sở hữu của ông K đối
với phần diện tích đất được chuyển nhượng. Hướng giải quyết trên là thuyết phục
và đảm bảo được quyền lợi cho ông K. Phần diện tích đất trên do bà G chuyển
nhượng cho ông K và các con bà biết nhưng không có ý kiến phản đối nên đồng
nghĩa hợp đồng giao dịch giữa ông K và bà G là hợp pháp và có hiệu lực. Như vậy
việc khơng đưa phần diện tích đất đã chuyển nhượng vào khối di sản để chia là
hoàn toàn hợp lý.
Căn cứ theo Điều 223 BLDS 2015 về việc xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng
như sau: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao
đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp
luật thì có quyền sở hữu tài sản đó.”


9.

Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di
sản để chia khơng? Vì sao?

- Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con màdùng cho
tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó khơng được coi là di sản để
chia. Bởi vì:
+ Xét tài sản chung của vợ chồng bà G và ông N là 398m2 đất, sau khi ông Nmất,
không để lại di chúc thì tài sản chung này sẽ được chia đôi là 196m2 đấttheo quy
định tại Điều 66 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014. Bà G, các con chung của 2 vợ
chồng đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651
BLDS 2015 nên đều được chia thừa kế như nhau.
+ Nếu bà G tự ý bán 131m2 đất cho ông K, khơng có sự đồng ý của các convà
dùng tiền đó cho cá nhân mình chứ khơng vì lợi ích của các con thì xem như bà đã
bán một phần đất của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng. Việc mua
bán này sẽ không ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng thừa kế khác được
hưởng

10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích

đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là 133,5m2 (1/2 tài sản) cộng với 1/7 của 133,5 m2 Tài sản của ông N là
152,57m2 bởi vì xét thấy:
Phần diện tích thuộc tài sản chung của vợ chồng bà G và ông N là 398m vuông,
sau khi ông N mất bà G bán cho ông K 131m vng, lúc này phần đất cịn lại là
267,4m vng
Do bà G sử dụng số tiền bán đất trang trải cho các con nên không đưa vào khối tài
sản để chia. Vì vậy lúc này tài sản chung của ơng N bà G cịn lại là 267,4m vng
Theo khoản 2 Điều 66 Luật hơn nhân và gia đình 2014:
“Điều 66. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị
Tòa án tuyên bố là đã chết
2. Khi có u cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng

chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về
thừa kế”


=> Vì vậy bà G có quyền sử dụng ½ diện tích đất trên là 133,5m vng
Do ơng N chết không để lại di chúc nên tài sản chia theo pháp luật => căn cứ vào
điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì hàng thừa kế thứ nhất của ông N là bà G
và sáu người con chung, tổng là bảy người. Lấy 133,5 mét vuông chia bảy là ra
phần bà này được hưởng thừa kế theo pháp luật => Ở thời điểm bà Phùng Thị G
chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất trên là 133,5m2 cộng 19,07m²
là 152,57m2.
11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2

có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng? Vì
sao?
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 khơng
có thuyết phục bởi:
Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con của bà
Phùng Thị G đều biết nhưng không phản đối, các con của bà G có lời khai bà G
bán đất là để lo cho các con. Vì vậy có cơ sở để xác định các con của bà G đồng ý
cho bà G chuyển nhượng diện tích 131m vng nếu trên cho ơng Phùng Văn K.
Và Tịa khơng đưa phần đất trên vào khối tài sản chia là có căn cứ
Như câu 10 thì tài sản của bà G khi chết là 152,57m2, bà G còn lập di chúc để lại
cho chị Phùng Thị H1 diện tích 90m vng đất trong phần di sản của bà vì vậy
phần cịn lại di sản của bà G là 152,57m2 trừ cho 90m2 là 62,57m
Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16 vì:
Án lệ này nói về việc di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng
thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc
chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống
của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất. Trường hợp này, Tịa án phải cơng nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng khơng
cịn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận
chuyển nhượng.
Án lệ chỉ trích phần [2] Quyết định giám đốc thẩm 573/2013/DS-GĐT ngày 1612-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao
Nội dung án lệ


[2] Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích
131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất cịn lại của
thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng
Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất
cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến
phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo
cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con
bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu
trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ.
Tịa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần
đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là khơng đúng.
12. Việc Tịa án quyết định “cịn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại”

có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng? Vì
sao?
Việc Tịa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần cịn lại” là
khơng thuyết phục bởi:
Di sản của bà G là ½ khối tài sản và 1/7 của tài sản ông N và trừ đi 90m2 bà G để
lại cho chị H1 là 62,57m2, bà có viết di chúc để lại cho chị H1 90m2 như vậy chị

H1 sẽ được nhận 90m2 theo như di chúc, phần còn lại chia theo quy định pháp luật
thì bà G có 6 người con thì tài sản vẫn phải chia cho 6 đồng thừa kế thuộc hàng
thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651.
Đây không phải nội dung của Án lệ số 16 bởi vì Án lệ này có nội dung về việc
cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một
trong các đồng thừa kế chuyển nhượng
Án lệ chỉ trích phần [2] Quyết định giám đốc thẩm 573/2013/DS-GĐT ngày 1612-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao
Nội dung án lệ
[2] Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích
131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất cịn lại của
thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng


Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất
cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến
phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo
cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con
bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu
trên cho ơng Phùng Văn K. Tịa án cấp phúc thẩm khơng đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ơng Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ.
Tịa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần
đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.
II. VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN
A. TĨM TẮT:


Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tịa án nhân dân tỉnh Sơn La
Anh Phạm Tiến H và anh Phạm Tiến T, cháu Phạm Tiến N có họ hàng với nhau,

anh T là anh trai ruột của anh H và cháu N là con trai của anh Phạm Tiến T. Bố mẹ
của Nguyên đơn Phạm Tiến H bị đơn anh Phạm Tiến N ơng Phạm Tiến Đ, bà
Đồn Thị T sinh được 07 người con, khi cịn sống có tạo dựng được một khối tài
sản gồm diện tích 311m2 đất và 01 ngôi nhà gỗ 4 gian. Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên bà Đoàn Thị T. Năm 1994, ông Đ chết, đến năm 2012 bà T
chết; cả hai ông bà đều không để lại di chúc. Các thành viên trong gia đình thay
nhau trơng coi, quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Nay anh H tu sửa lại ngôi nhà
và quản lý đất đai của bố mẹ để lại để làm nơi thờ cúng bố mẹ chứ không phân
chia, tuy nhiên khi anh có ý định sửa thì cháu N cản trở. Anh H đề nghị Tòa án
giải quyết buộc cháu N và anh T không được cản trở việc anh tu sửa ngôi nhà,
cháu N không được xâm phạm đến tài sản của bố, mẹ anh. Tòa án đã Chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H. Giao cho anh Phạm Tiến H được quyền
quản lý di sản thừa kế của ơng Phạm Tiến Đ và bà Đồn Thị T. Anh H có các
quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản theo quy định tại các Điều 617, Điều
618 của Bộ luật Dân sự 2015.



Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Ngun đơn: ơng Trà Văn Đạm, sinh năm 1962
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Văn Công, sinh năm 1965
Bị đơn: ông Phạm Văn Sơn Nhỏ, sinh năm 1971


Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ơng Nhỏ: Luật sư Nguyễn Văn Giáp
Nội dung: Thửa đất số 528 do ơng Đạm đại diện hộ gia đình đứng tên nằm phía
trên thửa đất số 525 của ơng Phạm Văn Ngót do ơng Phạm Văn Sơn Nhỏ quản lý
sử dụng. Ơng Đạm và ơng Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở một lối đi từ đất
ông Đạm qua đất ơng Ngót đến đường cơng cộng rộng 2m dài 21m. Ơng Đạm

chịu mọi chi phí là 42.205.000 đồng và có đưa cho ơng Nhỏ 1.000.000 đồng để
làm cổng rào. Nay ông Đàm khởi kiện yêu cầu ông Nhỏ và bà Chơi cùng những
người cùng hàng thừa kế với ông Nhỏ xin mở lối đi ngang 1,5m, dài 21m. Ông
Nhỏ trình bày thửa đất 525 là một trong số các thửa đất hương hỏa do ơng Ngót để
lại khi ơng chết năm 2001, không để lại di chúc và do ông Nhỏ trực tiếp canh tác
quản lý sử dụng. Ông ngót và vợ trước có 2 người con riêng là Lê Thị Cẩm Hồng
và Phạm Văn Hiền. Ông Nhỏ và người thân chỉ biết ông Hiền đang ở thành phố
Hồ Chí Minh. Ơng Đạm trước đây có mở lối đi qua nhà ông Ba Sách và bà Hai
Mây nhưng do có mâu thuẫn nên theo ý kiến riêng cá nhân của ơng Nhỏ cho gia
đình bà É đi nhờ lối qua thửa đất 525 vào tháng 04/2016 và sử dụng lối này hết đời
chứ không đồng ý việc ông Đạm xin mở lối đi này mãi mãi. Tại bản án sơ thẩm số
120/2017/DS-ST ngày 06/9/2017 Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Đạm buộc ông Nhỏ mở lối đi và bản án phúc thẩm số 22/2018/DS-PT ngày
11/01/2018 không chấp nhận kháng cáo của ông Nhỏ. Ngày 13/08/2018 và ngày
24/5/2019, bà Chơi ông Nhỏ và bà Quý đề nghị xem xét bản dân sự phúc thẩm.
Tại quyết định số 51/QĐ-VKS-DS ngày 10/02/2020 Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã yêu cầu giám đốc thẩm, hủy toàn
bộ bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm nêu trên. Tòa nhận định Tòa án sơ thẩm và
Tịa án phúc thẩm đã có thiếu sót trong việc xem xét giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho ơng Ngót. Ơng Nhỏ chỉ là người quản lý di sản ơng Ngót, chứ
khơng có quyền định đoạt cho nên việc ông Nhỏ tự ý thỏa thuận cho ông Đạm mở
lối đi qua thửa đất 525 là vi phạm Luật đất đai 2013 và việc Tòa nhận định ơng
Nhỏ có quyền thỏa thuận với ơng Đạm là khơng hợp lý. Ngồi ra, chứng cứ trong
hồ sơ có thể hiện lối đi của nhà ông Đạm qua thửa đất 525 là thuận tiện nhất và
ngồi lối đi đó khơng cịn lối đi nào khác cho nên việc buộc gia đình ơng Nhỏ mở
lối cho ơng Đạm là hợp lý nhưng lại nhận định ông Đạm đầu tư mở lối mà khơng
có bất kỳ sự bồi thường nào cho gia đình ơng Nhỏ là khơng đúng, gây thiệt hại đến
lợi ích hợp pháp của bà Chơi và các đồng kế thừa thứ nhất của ơng Ngót. Tịa án
cấp phúc thẩm phải định giá quyền sử dụng đất là lối đi đang cạnh tranh để căn cứ
buộc nguyên đơn thanh tốn giá trị sử dụng đất. Và khi nào có yêu cầu chia di sản

thừa kế thì sẽ giải quyết trong một vụ án khác.


B.

CÂU HỎI THẢO LUẬN:
1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của

ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục khơng, vì sao?
Trong bản án số 11 Tòa án xác định anh Phạm Tiến H có quyền quản lí di sản của
ơng Đ và bà T việc xác định như vậy của tòa án là thuyết phục bởi lẽ Theo hồ sơ
vụ án và tại phiên tòa, các Đ sự đều thừa nhận anh Phạm Tiến H thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của ông Đ, bà T; ông Đ chết năm 1994, bà T chết năm 2012 khơng để
lại di chúc; anh Hiệu có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy
định tại Điều 636 của Bộ luật Dân sự 2005, trong đó có quyền quản lý di sản thừa
kế theo quy định tại các Điều 638, 640 của Bộ luật Dân sự 2005(nay được quy
định tại các Điều 614 và các Điều 616, 618 Bộ luật dân sự năm 2015).
2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý

di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong bản án số 11 ông Thiện trước khi chấp hành án là người quản lý tài sản bởi
lẽ Năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại
nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T. Mà theo khoản 2 điều 616
BLDS 2015 Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử
dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử
được người quản lý di sản.
3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di

sản có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản là hồn tồn thuyết phục
vì theo khoản 1 điều 616 BLDS 2015 thì Người quản lý di sản là người được chỉ
định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Ở đây ông Đ và
bà T khơng để lại di chúc và trong q trình giải quyết vụ án, ngồi ơng Thiện;
những người cịn lại ở hàng thừa kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến
H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi,
Nhường, Hồi, Hài đều có đủ năng lực hành vi dân sự; quyết định dựa trên cơ sở
hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của pháp
luật và không trái với đạo đức xã hội. Nên anh Hiếu có quyền quản lý di sản.
4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tơn tạo, tu sửa lại

di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.


Người quản lý di sản có quyền tơn tạo, tu sửa lại di sản vì theo quy định tại điều
617 BLDS 2015 thì người quản lý di sản có quyền bảo quản di sản mà theo từ điển
Việt Nam thì từ bảo quản có nghĩa là trơng coi, giữ gìn cho khỏi hư hỏng hoặc hao
hụt vì thế hành vi tôn tạo, tu sửa lại di sản của người quản lí di sản như trong Bản
án số 11 là đúng với pháp luật.
5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người

khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi quản lý di sản, người quản lý di sản khơng có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản vì theo khoản 1 điều 616 BLDS 2015 quy định: Người quản lý di
sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận
cử ra. Vì thế khi muốn giao lại tài sản cho người khác quản lý thì người đó phải là
người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế nhất trí thỏa thuận
cử ra bằng văn bản
6. Trong Quyết định số 147, Tịa án xác định người quản lý khơng có quyền tự


thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục khơng? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý khơng có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục bởi theo mục a khoản 2
Điều 617 của BLDS 2015 có quy định ‘Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý
di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác;”
Chính vì thế Tịa án xác định ơng Nhỏ chỉ là người quản lý di sản khơng có quyền
thực hiện thỏa thuận với ông Đàm trong việc mở lối đi qua thửa đất 525 là hoàn
toàn thuyết phục
III.

VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ
A. TĨM TẮT:


Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản
Người để lại di sản thừa kế (cụ K và cụ T) là bất động sản chết trước ngày công bố
Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/8/1990. Tại thời điểm Tòa xét xử sơ thẩm Bộ luật Dân
sự 2015 đang có hiệu lực. Trường hợp này, phải xác định thời điểm bắt đầu tính
thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là ngày công bố Pháp lệnh Thừa kế ngày


30/8/1990. Thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế được xác định theo quy định của
BLDS 2015.
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN:
1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.


Có 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế:
- Thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế hoặc phản đối quyền thừa kế của
người khác được quy định Điều 645, BLDS 2005 và Khoản 2, Điểu 623, BLDS
2015:
“2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác
bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
- Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tải sản của
người chết để lại được quy định tại Điều 645, BLDS 2005:
“Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kể."
- Thời hiệu yêu cầu chia di sản:
+ Theo Điều 645, BLDS 2005 thì
“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kể
của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kể của người khác là mười năm, kể từ thời điểm
mở thừa kế.”
+ Theo Khoản 1, Điều 623 BLDS 2015 thì:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”
2.

Pháp luật nước ngồi có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản khơng?
- Đối với pháp luật Campuchia - Quốc gia có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia
di sản, cụ thể ở khoản 1 Điều 1248 BLDS Campuchia: “Người thừa kế phải có sự
chấp nhận đơn giản hoặc chấp nhận có giới hạn hoặc từ bỏ quyền thừa kế trong
vòng 3 tháng kể từ ngày biết được việc thừa kế của mình đã phát sinh. Tuy nhiên
thời gian này có thể kéo dài thêm theo yêu cầu của người thừa kế.”
- Đối với pháp luật Pháp - Quốc gia khơng có sự áp đặt thời hiệu đối với u cầu
chia di sản, cụ thể ở Điều 815 BLDS Pháp: “Khơng ai có thể bị buộc phải chấp



nhận trong tình trạng di sản chưa chia và bất cứ lúc nào cũng có thể yêu cầu chia
di sản trừ trường hợp việc này được tạm hoãn theo bản án hoặc theo pháp luật.”
3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của

Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Theo Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015:
“Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án
tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại
khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”.
Cụ T chết năm 1972, do đó thời điểm mở thừa kế với di sản của cụ T là năm 1972.
Đoạn của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời là: “Như
vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy
định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường
hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36
Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp
này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo
quy định của pháp luật”.
4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản

của cụ T có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc Án lệ 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của
cụ T là khơng có cơ sở văn bản. Tuy nhiên quyết định này là thuyết phục vì:
+ Căn cứ vào Điểm d Khoản 1 Điều 688 BLDS 2015: “Thời hiệu được áp dụng
theo quy định của Bộ luật này”. Trước đó Khoản 1 Điều 688 của bộ luật đã nêu rõ
quy định tại các Khoản a, b, c được áp dụng đối với giao dịch dân sự được xác lập
trước ngày BLDS có hiệu lực. Đối với vụ việc của Án lệ số 26/2018, việc chia tài
sản của cụ T là trường hợp thừa kế theo pháp luật, mà loại thừa kế này không phải
là giao dịch dân sự hơn nữa khơng có cơ sở văn bản để khẳng định quy định
chuyển tiếp của các áp dụng theo thừa kế của pháp luật này hay không.

+ Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T là hợp lý. Vì thực tế vẫn cịn tranh chấp giữa những người thừa kế của cụ
T, dù thời hiệu yêu cầu chia tài sản đã chấm dứt. Điều này tạo nên hành lang pháp
lý cho các vụ việc tranh chấp về di sản thừa kế được giải quyết nhằm đảm bảo lợi
ích của những người được chia thừa kế


5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản

của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được cơng bố có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?
- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
cơng bố chưa có cơ sở văn bản.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu
chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời
điểm mở thừa kế”. BLDS lấy thời hiệu 30 năm bắt đầu kể từ thời điểm mở thừa kế
và không hề đề cập đến thừa kế mở trước khi ban hành Pháp lệnh thừa kế ngày
30/8/1990 thì có áp dụng thời điểm bắt đầu là kể từ thời điểm mở thừa kế hay kể
từ ngày công bố Pháp lệnh trên.
- Tuy việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
công bố chưa có cơ sở văn bản nhưng nó thuyết phục. Nội dung Án lệ là sự kết
hợp giữa BLDS 2015 và Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990. Như vậy, thời
điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế từ ngày Pháp lệnh thừa kế
năm 1990 công bố ngày 10/9/1990. Với quy định trên thời hiệu chia di sản thừa kế
vẫn còn, được Tòa án kéo dài thêm nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người thừa kế.
6.


Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.
Án lệ số 26/2018/AL cho ta cái nhìn về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời
hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản. Cho thấy đây là một vấn đề hết
sức phức tạp đặc biệt khi có sự thay đổi giữa các thế hệ dẫn tới áp dụng sự thay
đổi của luật pháp tạo sự khó khăn trong q trình xác định. Các quyết định của
Tịa án đưa ra hầu hết phải xem xét trên nhiều khía cạnh để mang tính thuyết phục.
Đây có thể xem là một Án lệ hay vì tính thực tết hường xun xảy ra của nó.

TÌM KIẾM TÀI LIỆU:
1. Nguyễn Phương Anh, “Xử lý vật chứng vụ án hình sự là tài sản thế

chấp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 1(401)/Kỳ 01, tháng 01/2020,
tr.50-56
2. Nguyễn Phương Thảo, " Hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế quyền
tácgiả", Tạp chí Tịa án nhân dân số 1/2019, tr.30-36.
3. Nguyễn Phương Thảo, Huỳnh Quang Thuận, “Hoàn thiện quy định của
pháp luật về quyền từ chối nhận di sản”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn,
số 37/2018, tr. 86-95


4. Nguyễn Quý Khuyến, “Về sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,

5.

6.
7.

8.

9.


10.
11.

12.
13.

14.
15.

16.

17.

phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm
sát, Số 09/2020, tr.37-42.
Nguyễn Thanh Phúc, “Quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu theo quy
định tạiĐiều 167 và 168 Bộ luật dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Số3/2020, tr. 29-36.
Nguyễn Thanh Thư, “Hình thức di chúc miệng”, Tạp chí Khoa học Pháp
Lý, Số 2/2020, tr.23-31.
Nguyễn Thanh Tú, “Một số vấn đề pháp lý về quyền sở hữu tài sản từ
góc độtài sản mã hóa trong bối cảnh cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ
tư” Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số 4/2020, tr.1-14
Nguyễn Thế Đức Tâm – Lê Bảo Khanh, “Thừa kế theo pháp luật giữa
anhchị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha”, Tạp chí Tồ án
nhân dân online, 09/4/2020.
Nguyễn Thị Hạnh, Vũ Thị Hương, “Bình luận các sai sót trong giải
quyếtmột vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, Tạp chí Nghề luật, Số
5/2019 -Năm thứ Mười Bốn, tr.59-62.

Nguyễn Thị Hồng Vân, “Một số vấn đề về người làm chứng cho việc lập
di chúc”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 2(335)-2020, tr.15- 9.
Nguyễn Thị Hường, “Bảo vệ quyền đối với bất động sản liền kề ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2019 - Năm thứ Mười Bốn,
tr.12-16.
Nguyễn Thị Hường, “Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hơn nhân”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 6-2020, tr.18-24.
Nguyễn Thị Lan, “Quản lý, định đoạt tài sản chung của vợ chồng –
nghiên cứu so sánh pháp luật của Việt Nam với pháp luật của Pháp”, Tạp
chí Pháp luật và thực tiễn, số 36/2018, tr. 52-62.
Nguyễn Thị Long, “Nâng cao công tác xét xử tranh chấp hợp đồng vay
tàisản”, Tạp chí Nội chính, Số 79(7/2020), tr.36-40.
Nguyễn Thị Thu Hồng, “Đấu giá tài sản cơng bằng hình thức bỏ phiếu
trực tiếp tại cuộc đấu giá”, Tạp chí Nghề luật, Số 6/2019 - Năm thứ
Mười Bốn, tr.72-79.
Nguyễn Thị Thu Trang, Châu Thanh Quyền, “Quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng về tài sản đối với người thứ ba khi ly hôn”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Số 12(345) - 2020, tr.50 - 54.
Nguyễn Thùy Trang, “Bình luận về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và đảm bảo quyền đòi tài sản từ một vụ án cụ thể”, Tạp
chí Nghề luật, Số 3/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.66-71


18. Nguyễn Văn Hợi, Giáp Minh Tâm, “Hoàn thiện quy định về bảo lưu

19.

20.
21.


22.

23.
24.

25.

26.

27.

28.

29.
30.

quyền quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Số 2/2019, tr.12-17
Nguyễn Văn Tiến, "Quyền khởi kiện của Chấp hành viên trong việc xác
định, xử lý tài sản chung để thi hành án dân sự", Tạp chí Tịa án nhân
dân số 2/2018, tr.30-32
Nguyễn Văn Vân, “Tài sản và sở hữu - Kinh nghiệm pháp luật Liên bang
Nga”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số 4/2020, tr. 31-44.
Nguyễn Viết Giang, “Bàn về vấn đề thừa kế và thừa kế thế vị giữa con
riêng và bố dượng, mẹ kế theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”,
Tạp chí Tồ án nhân dân, số 7-2020, tr.23-24
Nguyễn Vinh Diện, “Hoàn thiện pháp luật về bồi thường cho đồng quyền
sở hữu đất, đồng sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất
vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, lợi ích cơng cộng”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 39/2019,

tr.17-24.
Nguyễn Vinh Hưng, “Về người thừa kế khơng phụ thuộc vào nội dung
của di chúc”, Tạp chí Kiểm sát, Số 02/2021, tr.38-41
Nguyễn Xuân Bình-Lê Thị Xuân, "Một số lưu ý khi giải quyết tranh
chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015", Tạp
chí Tịa án nhân dân, số 7/2018, tr.28-32.
Phạm Minh Tuyên, “Vướng mắc trong việc định tội và định khung hình
phạt với một số tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Kiểm sát, Số 23/2020,
tr.44-48.
Phạm Thị Huệ, “Những tác động của hệ thống pháp luật về kiểm soát tài
sản, thu nhập đến cơng tác phịng, chống bn bán động vật hoang dã
trái pháp luật”, Tạp chí Nội chính, Số 82(10/2020), tr.29-33
Phạm Văn Lợi, “Một số tranh chấp phổ biến liên quan đến tình trạng
pháp lý của tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất từ thực tiễn giám đốc
thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao”, Tạp chí Nghề luật, Số
09/2020 – Năm thứ Mười Lăm, tr.3-6.
Phạm Xuân Việt, “Thực trạng công tác thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt
Nam, nguyên nhân và một số giải pháp”, Tạp chí Nghề luật, Số 3/2018
-Năm thứ Mười Ba, tr.25-33
Phan Huy Hồng, “Bảo đảm sở hữu trong luật Đức”, Tạp chí Khoa học
Pháp Lý, Số 4/2020, tr.15-30.
Phan Thành Nhân, “Người thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự
2015”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 12/2020, tr. 39-45.


31. Phùng Bích Ngọc, “Hồn thiện quy định pháp luật về di chúc có điều
32.

33.


34.

35.

36.

37.

38.

39.
40.

kiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 11(344)-2020, tr.19-23.
Phùng Văn Hải, “Xác định các căn cứ pháp lý để tính tốn lợi ích gắn
liền với việc sử dụng, khai thác một số loại tài sản”, Tạp chí Nghề luật,
Số10/2020 - Năm thứ Mười Lăm, tr.28-33.
Quách Hữu Thái, “Một số vướng mắc, bất cập khi giải quyết các vụ án
về chia thừa kế và kiến nghị hồn thiện”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 12021, tr.19-24.
Quách Hữu Thái, “Xác định di sản và phân chia di sản thừa kế trong Bộ
luật Dân sự 2015 - một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hồn thiện”,
Tạp chí Tồ án nhân dân, số 23-2020, tr.18-23.
Vũ Thị Thanh Huyền, “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hiệu lực của
hợp đồng chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, Số 1(346)-2021, tr,12-17.
Vương Văn Bép, Nguyễn Thị Hồng Yến, “Những lưu ý trong kiểm sát
việc giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngồi liên quan đến các tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế”,
Tạp chí Kiểm sát, Số 03/2021, tr.37-45.
Vũ Thị Hồng Yến, “Bình luận quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về

hợp đồng tặng cho tài sản”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 9/2018,
tr.36-43.
Võ Nguyễn Nam Trung-Lâm Thị Thu Thảo- Trần Thị Cẩm Nhung, "Di
sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 4/2019, tr. 21-24.
Võ Hoàng Khải, Võ Tuấn, “Bàn về xác định thiệt hại đối với tài sản bị
xâm phạm là di vật, cổ vật”, Tạp chí Kiểm sát, Số 07/2021, tr.54-57.
Tưởng Duy Lượng,"Quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do
chiếm hữu, được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật trong Bộ luật
Dân sự năm 2015", Tạp chí Kiểm sát, số 1/2018, tr. 44-50.

Những bài viết trên được tìm kiếm ở các tạp chí tại trung tâm thư viện trường Đại
học Luật Tp Hồ Chí Minh.



×