Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

THẢO LUẬN LUẬT DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.12 KB, 99 trang )

TOEIC GIAO TIẾP CUC CU – ĐỒNG HÀNH CÙNG SINH VIÊN LUẬT
LIÊN HỆ: 0359033374

CÁC BẠN LƯU Ý: ĐÂY CHỈ LÀ FILE LÀM MẪU, CHỈ CÓ GIÁ TRỊ
THAM KHẢO, ĐÁP ÁN CÓ THỂ ĐÚNG HOẶC SAI!!!
CÁC BẠN SỬ DỤNG MỘT CÁCH HIỆU QUẢ VÀ CÓ KẾT QUẢ
RIÊNG CHO BÀI THẢO LUẬN CỦA MÌNH NHA NHA NHA!!!
TÀI LIỆU CHỈ NÊN SỬ DỤNG THAM KHẢO TRONG NỘI BỘ
TRUNG TÂM TOEIC GIAO TIẾP CUC CU!!!!!!!!


BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT:
CHỦ THỂ CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ

*Bài tập 1: Năng lực hành vi dân sự cá nhân
Câu 1: Cho biết những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) so với Bộ luật Dân sự 2005
(BLDS 2005) về quy định mất năng lực hành vi dân sự.
Khoản 1 Điều 22 BLDS 2005: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án
ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định. Khi không
còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc
của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự.”
Khoản 1 Điều 22 BLDS 2015: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự
trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.” Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực
hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra
quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, so với BLDS 2005, BLDS 2015 về quy định mất năng lực hành vi dân sự có những điểm mới sau
đây:


Thứ nhất, về chủ thể yêu cầu Tòa án tuyên hay hủy bỏ quyết định, BLDS 2015 đã bổ sung “cơ quan, tổ
chức hữu quan”.
Thứ hai, BLDS 2015 đã thay “kết luận của tổ chức giám định” bằng “kết luận giám định pháp y tâm
thần”.

Câu 2: Hoàn cảnh của ông P như trong Quyết định được bình luận có thuộc trường hợp mất năng lực
hành vi dân sự không? Vì sao?

2


Hoàn cảnh của ông P như trong Quyết định được bình luận không thuộc trường hợp mất năng lực hành
vi dân sự. Vì theo giám định pháp y tâm thần kết luận ông P bị rối loạn lưỡng cực và đang thuyên giảm,
rối loạn lưỡng cực là một dạng của bệnh trầm cảm nên không đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Về
mặt pháp lý được xem là khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Do vậy ông P thuộc trường hợp có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Câu 3: Nêu những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi dân sự và mất năng
lực hành vi dân sự.
Về điểm giống nhau:
Thứ nhất, họ là những người từng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Thứ hai, việc họ bị hạn chế hay bị mất năng lực hành vi dân sự dựa trên quyết định của Tòa án trên cở sở
yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan.
Thứ ba, giao dịch dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hằng ngày của người đó; giao dịch dân sự chỉ
làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho họ với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ
thì không bị vô hiệu.
Thứ tư, khi không còn căn cứ cho rằng họ bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự thì họ có quyền được khôi phục lại năng lực hành vi dân sự của mình.
Về điểm khác nhau:
Hạn chế năng lực hành vi dân sự


Mất năng lực hành vi dân sự

Chủ thể

Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích
dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.

Người mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh khác mà không thể nhận
thức và làm chủ được hành vi
của mình.

Hệ quả pháp lí

Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản của họ phải có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật.

Giao dịch dân sự của họ phải do
người đại diện theo pháp luật
xác lập, thực hiện.

3


Câu 4: Trong Quyết định được bình luận, ông P có thuộc trường hợp người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự không? Vì sao?
Trong Quyết định được bình luận, ông P không thuộc trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự.

Vì theo khoản 1 Điều 24 BLDS 2015 quy định trường hợp một người bị coi là hạn chế năng lực hành vi
dân sự: “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra
quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.”.
Ông P bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực dẫn đến khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và không thuộc
nhóm đối tượng được quy định tại Khoản 1 Điều 24 nên ông P không thuộc trường hợp người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
Câu 5: Điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Có hai điểm khác nhau cơ bản sau:
Chủ thể: người có hạn chế năng lực hành vi dân sự là người không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành
vi tuy nhiên chưa hoàn toàn mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Còn người hạn chế năng lực
hành vi dân sự là Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia
đình.
Người yêu cầu: đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là bản thân người này, người
có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan. Đối với người hạn chế năng lực hành vi dân
sự là người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan.

4


Câu 6: Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là có
thuyết phục.
Vì đáp ứng đủ các điều kiện sau theo Điều 23 BLDS 2015:

• Có yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan: Bà H yêu cầu tuyên bố ông P có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi để giải quyết vụ án ly hôn giữa bà H và ông P.

• Có kết luận giám định pháp y tâm thần: Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần
số: 286/KLGĐTC, ngày 22/5/2017 đối với ông Lê Văn P của Trung tâm Pháp y
tâm thần khu vực Miền Trung kết luận: tại thời điểm hiện tại:
o Về mặt y học: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại thuyên giảm (F13.7).
o Về mặt pháp luật: Khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.1
Câu 7: Việc Tòa án không để bà H là người giám hộ cho ông P có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án không để bà H là người giám hộ cho ông P là có thuyết phục.
Vì bà H là vợ của ông P, theo quy định tại khoản 1 Điều 53 của BLDS 2015 thì bà H là người giám hộ
đương nhiên của ông P. Tuy nhiên, mục đích của bà H yêu cầu tuyên bố ông P có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi là để giải quyết vụ án ly hôn giữa bà H và ông P mà Tòa đã thụ lý. Do đó, sau khi
Tòa tuyên bố ông P có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì bà H không còn là vợ của ông P
nữa. Vì vậy bà H không đủ điều kiện làm người giám hộ cho ông P.
Câu 8: Việc Tòa án để bà T là người giám hộ cho ông P có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án để bà T là người giám hộ cho ông P là có thuyết phục.
Vì ông P yêu cầu Tòa chỉ định bà T là người giám hộ cho mình (phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 46
BLDS 2015) và bà T đồng ý (phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 48 BLDS 2015). Đồng thời, bà T đáp
ứng đủ các điều kiện của cá nhân làm người giám hộ theo điều 49 BLDS 2015.

1

Quyết định số 11/2017/QDDS-ST ngày 18/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn tỉnh Quảng Nam.

5


Câu 9: Với vai trò của người giám hộ, bà T được đại diện ông P trong những giao dịch nào? Vì sao?
Với vai trò của người giám hộ, bà T được đại diện ông P trong những giao dịch dân sự, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 125 của BLDS 2015: “Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này
không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:


a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự
nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người
đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành
niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.”

6


*Bài tập 2: Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý
Câu 1: Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu rõ từng điều kiện).
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 74 của BLDS 2015:
“Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.”
Thứ nhất, pháp nhân được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và các luật khác có liên
quan như Luật doanh nghiệp 2014, Luật đầu tư 2014,.... tức là phải đuợc thành lập theo đúng trình tự,
thủ tục tương ứng do pháp luật quy định cho loại pháp nhân đó. Trình tự thủ tục thành lập pháp nhân
phụ thuộc vào loại hình và mục đích hoạt động của nó. Trên cơ sở sở đó Nhà nuớc ban hành các văn bản
pháp luật khác nhau quy định về cơ cấu tổ chức và cách thức, thủ tục thành lập đối với các tổ chức khác
nhau. Quy định trên nhằm mục đích thừa nhân sự ra đời và khai sinh pháp nhân, từ đó pháp nhân có thể
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ theo quy định: Theo đó, pháp nhân phải có cơ quan điều hành,

tổ chức và nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của
pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Thứ ba, Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Để
một tổ chức tham gia vào quan hệ tài sản với tư cách là chủ thể độc lập thì phải có tài sản riêng, tài sản
của pháp nhân là tài sản thuộc quyền sở hữu của pháp nhân hoặc do nhà nước giao cho quản lý.
Tính độc lập trong tài sản của pháp nhân được thể hiện ở sự độc lập với tài sản của cá nhân là thành viên
của pháp nhân, với cơ quan cấp trên và các tổ chức khác.
Trên cơ sở tài sản độc lập của pháp nhân, pháp nhân mới có thể chịu trác nhiệm bằng tài sản của mình.
Thứ tư, pháp nhân nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập: Pháp nhân tham gia
vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập, được hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật và điều lệ. Pháp nhân có thể đóng vai trò nguyên đơn hoặc bị đơn trước Tòa khi mà quyền lợi
bị xâm phạm.

Câu 2: Trong Bản án số 1117, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ Tài nguyên
và Môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn nào của Bản án có câu trả lời?

7


Theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp
nhân nhưng là tư cách pháp nhân không đầy đủ, vẫn là một đơn vị phụ thuộc vào pháp nhân.
Đoạn trong Bản án có câu trả lời là:
“Như vậy Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị trực thuộc Bộ
Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán phải
theo phân cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân sách của Nhà nước và phân cấp của Bộ Tài
nguyên và Môi trường chứ không phải là một cơ quan hạch toán độc lập. Mặc dù trong quyết định 1364
nói trên có nội dung “Cơ quan đại diện có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng” nhưng là Cơ
quan đại diện Bộ phải hạch toán báo sổ nên cơ quan nầy có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp
nhân không đầy đủ”.
Câu 3: Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ Tài nguyên và Môi trường

không có tư cách pháp nhân?
Như quy định tại Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005:
“…2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi
ích của pháp nhân và được thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các lợi ích đó…
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu Văn phòng đại diện, chi
nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền;
5. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do Văn phòng đại diện, chi nhánh
xác lập thực hiện”.
Như vậy, Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh không có tư cách
pháp nhân.
Xét theo quyết định số 1364/QĐ-BTNMT ngày 8/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan đại diện Bộ Tài
nguyên và Môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi
trường thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại diện
hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán phải theo phân cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân
bổ ngân sách của Nhà nước và phân cấp của Bộ Tài nguyên và Môi trường chứ không phải là một cơ
quan hạch toán độc lập.
Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường không có tư cách pháp nhân vì không có tài sản độc lập,
không nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập mà có nhiệm vụ đại diện theo ủy
quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện bảo vệ các lợi ích đó.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo suy nghĩ chủ quan của tôi thì hướng giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là hợp
lý và khách quan.

8


Thứ nhất, trong vụ tranh chấp bị đơn phương chấp dứt hợp đồng này: Tòa án nhân dân quận 1 và
nguyên đơn – ông Nguyễn Ngọc Hùng tại bản án Lao động sơ thẩm số 32/2012/LĐST ngày 9/7/2012 đều
xác định bị đơn trong vụ tranh chấp này là Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ

Chí Minh. Việc xác định như vậy là chưa phù hợp với quyết định số 1364/QĐ-BTNMT ngày 8/7/2008 của
Bộ tài nguyên và môi trường và quy định của điều 92 Bộ luật dân sự năm 2005, đưa cơ quan đại diện của
Bộ tham gia tố tụng là không đúng mà phải đưa Bộ Tài nguyên và Môi trường vào tham gia với tư cách bị
đơn mới đúng. Vì cơ quan đại diện không có tư cách pháp nhân, chỉ được nhân danh pháp nhân xác lập,
thực hiện các giao dịch trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền. Các giao dịch do cơ quan đại diện xác
lập thực hiện nhân danh pháp nhân, trong phạm vi và thời hạn ủy quyền của pháp nhân thì làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ đối với pháp nhân. Vậy nên, Tòa án thành phố Hồ Chí Minh tuyên hủy bản án lao
động sơ thẩm số 32/2012/LĐST ngày 9/7/2012 về “Tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấp dứt
hợp đồng lao động” của Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh (Vì chưa xác định đúng thành
phần đương sự tham gia phiên tòa). Hơn nữa, để đảm bảo cho nguyên đơn – ông Nguyễn Ngọc Hùng có
quyền khởi kiện lại cho đúng đối tượng mà không để quá thời hiệu khởi kiện vụ án nên Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển hồ sơ về Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh giải quyết
lại sơ thẩm vụ án ( Vì theo điều 263, BLTTDS quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm: “Tòa án chỉ xem xét
lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội
dung kháng cáo, kháng nghị”).
Thứ hai, về án phí lao động phúc thẩm: án phí này sẽ được hoàn trả cho cơ quan đại diện cho cơ quan
đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh. Điều này là hợp lý (Do Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên hủy bản án lao động sơ thẩm số 32/2012/LĐST ngày 9/7/2012. Dựa
trên căn cứ pháp lý là điều 12, nghị định số 70/CP ngày 12/06/1997: “Đương sự kháng cáo không phải
chịu án phí phúc thẩm nếu tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm, hủy một phần hoặc
toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm”.

Câu 5: Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân sự? Nêu cơ sở khi trả lời (nhất
là trên cơ sở BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015).
BLDS 2005:
Pháp nhân

Cá nhân

Định nghĩa


Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
là khả năng của pháp nhân có các quyền,
khả năng của cá nhân có quyền dân sự
nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích
và nghĩa vụ dân sự.
hoạt động của mình.

Căn cứ pháp lý

Điều 86, BLDS năm 2005

Điều 14, BLDS năm 2005

9


Thời gian phát
sinh và chấm
dứt

Phát sinh từ thời điểm pháp nhân được
Có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt
thành lập và chấm dứt từ thời điểm chấm
khi người đó chết.
dứt pháp nhân.

Phạm vi


Phù hợp với hoạt động, mục đích của
mình.

Không giới hạn.

Mức độ bình
đẳng

Mỗi pháp nhân sẽ được xác lập những
năng lực pháp luật dân sự không giống
nhau.

Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật
dân sự như nhau.

BLDS 2015:

Pháp nhân

Cá nhân

Định nghĩa

Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
là khả năng của pháp nhân có các quyền, khả năng của cá nhân có quyền dân sự
nghĩa vụ dân sự.
và nghĩa vụ dân sự.

Căn cứ pháp lý


Điều 86, BLDS năm 2015

Thời gian phát
sinh và chấm
dứt

Phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho
phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng
ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự Có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt
của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi khi người đó chết.
vào sổ đăng ký.
Chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp
nhân.

Phạm vi

Không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật
Không giới hạn.
này, luật khác có liên quan quy định khác.

Mức độ bình
đẳng

Mỗi pháp nhân sẽ được xác lập những
năng lực pháp luật dân sự không giống
nhau.

Điều 16, BLDS năm 2015


10

Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật
dân sự như nhau.


Câu 6: Giao dịch dân sự do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có ràng buộc
pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Giao dịch dân sự do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có ràng buộc pháp
nhân.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 87 BLDS 2015: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.”.
Câu 7: Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà trong tình huống trên có ràng buộc
Công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý:
Khoản 1 Điều 84 BLDS 2015: “Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không
phải là pháp nhân.”.
Khoản 1 Điều 87 BLDS 2015: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.”.
Vậy nên, việc trong quy chế Công ty Bắc Sơn có quy định chi nhánh Công ty Bắc Sơn tại thành phố Hồ Chí
Minh là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân là trái với khoản 1 Điều 84 BLDS 2015. Theo đó, Chi
nhánh Công ty Bắc Sơn tại thành phố Hồ Chí Minh không có tư cách pháp nhân mà chỉ đuợc nhân danh
pháp nhân (tức Công ty Bắc Sơn) xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi và thời hạn được ủy
quyền. Các giao dịch do chi nhánh của Công ty Bắc Sơn tại thành phố Hồ Chí Minh xác lập nhân danh
Công ty Bắc Sơn, trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền thì đều làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối
với công ty.
Xét trong truờng hợp trên, Chi nhánh công ty Bắc Sơn đã kí kết hợp đồng với công ty Nam Hà, vậy hợp
đồng này sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của Công ty Bắc Sơn chứ không phải chi nhánh của công ty
đó.


11


*Bài tập 3: Trách nhiệm dân sự của pháp nhân
Câu 1: Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và trách nhiệm của các thành
viên với nghĩa vụ của pháp nhân.
Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên:
Cơ sở pháp lý: Khoản 1, 2 Điều 87 của BLDS 2015:
“1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện
xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập,
thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác.
2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho người của
pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp
nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.”
Việc xác lập, thực hiện các giao dịch với tư cách của pháp nhân phải được tiến hành thông qua hànơh vi
của người đại diện hợp pháp của pháp nhân, phù hợp với ý chí của pháp nhân và chức năng, nhiệm vụ,
mục đích hoạt động của pháp nhân.2
Trách nhiệm của các thành viên với nghĩa vụ của pháp nhân:
Cơ sở pháp lý: Khoản 3 Điều 87 của BLDS 2015:
“3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do
pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác.”
Thành viên pháp nhân cũng không được quyền tự ý nhân danh pháp nhân tham gia các quan hệ pháp
luật, nếu không có ủy quyền của người đại diện hợp pháp của pháp nhân. Các thành viên góp vốn hay
người đại diện của pháp nhân cũng không được sử dụng danh nghĩa của pháp nhân để xác lập, thực
hiện các giao dịch vì mục đích tư lợi cho bản thân mình. 3
Câu 2: Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty Xuyên Á không? Vì sao?
Bà Hiền là thành viên của Công ty Xuyên Á. Vì bà Hiền có góp vốn 26,05% vào Công ty.
Câu 3: Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á hay của bà Hiền? Vì sao?

2

Lê Minh Hùng, Giáo trình Những quy định chung về luật dân sự của ĐH Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật
gia Việt Nam 2017, tr. 180
3
Lê Minh Hùng, Giáo trình Những quy định chung về luật dân sự của ĐH Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật
gia Việt Nam 2017, tr. 181

12


Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á. Vì Công ty Ngọc Bích ký hợp đồng
mua bán với Công ty Xuyên Á mà Công ty Xuyên Á có tư cách pháp nhân nên Công ty Xuyên Á phải chịu
trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân
danh pháp nhân theo khoản 1 Điều 87 của BLDS 2015. Đồng thời, bà Hiền là người của pháp nhân chứ
không có tư cách pháp nhân nên không phải chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa
vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện theo khoản 3 Điều 87 của BLDS 2015.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm và Tòa cấp phúc thẩm liên quan
đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích.
Theo bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2015/KDTM-ST ngày 27/10/2015 của Tòa án nhân
dân huyện Tri Tôn buộc ông Phong và bà Hiền trả cho Công ty Ngọc Bích số tiền vốn 77.000.752đ và tiền
lãi 30.030.000đ là không hợp lý. Vì ông Phong và bà Hiền chỉ là thành viên của Công ty Xuyên Á nên
không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về khoản nợ của Công ty bằng tài sản của mình.
Do đó, bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 10/2016/KDTM-PT ngày 17/03/2016 của Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang quyết định hủy bỏ bản án sơ thẩm là hợp lý.
Câu 5: Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty Xuyên Á đã bị giải thể?
Đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ làm rõ để xác định lý do giải thể, thẩm định tài sản của Công ty Xuyên
Á trước khi giải thể và nghĩa vụ về tài sản của Công ty để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp sau khi giải thể, nếu phần tài sản của Công ty Xuyên Á còn và đã được chia cho ông
Phong và bà Hiền thì đề nghị ông Phong và bà Hiền hoàn lại số tiền đó để trả nợ cho Công ty Ngọc Bích.

Trường hợp sau khi giải thể, nếu Công ty Xuyên Á không còn tài sản thì Công ty Ngọc Bích chịu thiệt số
tiền trên.

13


BÀI THẢO LUẬN DÂN SỰ 2

14


*Bài tập 1: Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức
Câu 1: Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) so với Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005)
về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và suy nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
Điều 122 BLDS 2005. Điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự

Điều 117 BLDS 2015. Điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự

1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các
điều kiện sau đây:

1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các
điều kiện sau đây:

a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi
dân sự;

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng

lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập;

b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn
tự nguyện;

c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện.

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự
không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội.

2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp
luật có quy định.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp
luật có quy định.

- Về điều kiện liên quan đến chủ thể (điều kiện chủ quan):

• BLDS 2005: chủ thể tham gia phải có năng lực hành vi dân sự, nghĩa là chủ thể
tham gia chỉ có thể là cá nhân (Điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS 2005);
• BLDS 2015: chủ thể tham gia có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi

dân sự phù hợp với giao dịch, nghĩa là chủ thể tham gia có thể là pháp nhân hoặc
cá nhân (Điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015);
Sự thay đổi đã mở rộng hơn về chủ thể tham gia các giao dịch dân sự không chỉ là cá nhân mà còn là
pháp nhân, đã phù hợp với thực tiễn đời sống, vì trong thực tiễn đối với một số giao dịch dân sự có
pháp nhân là chủ thể tham gia những BLDS 2005 không điều chỉnh được và BLDS 2015 đã khắc phục
được điều này.
- Về điều kiện liên quan đến giao dịch (điều kiện khách quan):

• BLDS 2005: Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. (Điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS 2005). Quy
định điều cấm là điều cấm của pháp luật, là những quy định của pháp luật, tức là
những quy định đó có thể tồn tại trong văn bản luật hoặc văn bản dưới luật.
15


• BLDS 2015: Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội. (Điềm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015). Quy
định điều cấm là điều cấm của luật, là những quy định của luật, tức là những quy
định đó chỉ tồn tại trong luật do Quốc hội ban hành.
Sự thay đổi từ pháp luật sang luật đã thu hẹp lại phạm vi quy định, tránh sự tùy tiện về quy định của
các văn bản dưới luật.
Câu 2: Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và từ thời điểm nào ông
Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
Năm 2007 ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được.
Ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự từ ngày 07/05/2010.
Câu 3: Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau khi ông Hội bị tuyên
mất năng lực hành vi dân sự?
Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi
dân sự. Vì ngày 07/05/2010 Tòa án tuyên ông Hội mất năng lực hành vi dân sự còn lúc bà Hương bán căn
nhà là vào ngày 08/02/2010.

Câu 4: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu không? Vì sao? Trên cơ sở
quy định nào?
Liên quan đến phần của ông Hội, Tòa án khẳng định “căn cứ vào các tài liệu có tại hồ sơ vụ án thì thấy tại
thời điểm ông Hội giao kết hợp đồng thì ông chưa bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự nhưng
các đương sự thống nhất trình bày là ông Hội bị bệnh tai biến mạch máu não và bị liệt nằm một chỗ từ
cuối năm 2008”. Từ đó, Tòa án theo hướng “hợp đồng chưa phát sinh hiệu lực đối với phần ông Hội” và
“trong trường hợp này phải xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 08/02/2010
giữa vợ chồng ông Hội bà Hương với vợ chồng ông Hùng bà Trinh bị vô hiệu một phần, đối với phần ông
Hội”.4
Câu 5: Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội không và Tòa án đã giải
quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà anh/chị biết.
-Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc giống với hoàn cảnh của ông Hội.
- Cụ thể như sau: Ngày 19-9-2003, ông Tình đến Phòng công chứng ký hợp đồng tặng cho một căn nhà
cho bà Nga. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 40/DSST ngày 17-11-2003, Tòa án nhân dân quận 3, Thành phố
Hồ Chí Minh tuyên bố ông Tình mất năng lực hành vi dân sự. Ở đây, ông Tình xác lập hợp đồng trước
ngày Tòa án tuyên bố ông mất năng lực hành vi dân sự. Về thời điểm thực tế mất năng lực hành vi dân
sự, Tòa án nhận định “ông Tình đã có quá một trình dài bị bệnh tâm thần phải điều trị liên tục từ năm
4

Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 56-58, tr. 427, 428.

16


2000”. Từ đó, Tòa án đã theo hướng “hợp đồng tặng cho nhà ở số 611/611F đường Điện Biên Phủ giữa
ông Tình với bà Nga lập ngày 19-9-2013 tại Phòng công chứng nhà nước số 1 Thành phố Hồ Chí Minh là
vô hiệu”.5
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên (liên
quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp lý khi đưa ra hướng xử lý.

Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch
do ông Hội xác lập) là hợp lí. Vì tại thời điểm giao kết hợp đồng, tuy ông chưa bị Tòa án tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự nhưng thực chất ông đã bị tai biến mạch máu não và bị liệt nằm một chỗ từ cuối
năm 2008, do đó ông khó nhận thức và thể hiện ý chí của mình nên không thể chắc chắn được việc ký
kết hợp đồng do ông xác lập là tự nguyện. Vì vậy, theo Điều 117 BLDS 2015 quy định về điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều này mà giao dịch do ông Hội xác lập đã không đáp ứng được điều kiện: “Chủ thể tham gia giao dịch
dân sự hoàn toàn tự nguyện” nên hợp đồng bị vô hiệu một phần, đối với phần của ông Hội.
Câu 7: Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó có bị vô hiệu không?
Vì sao?
Theo điểm b khoản 2 Điều 125 của BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự không bị vô hiệu do người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện: “Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh
quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã
xác lập, thực hiện giao dịch với họ”.
Nên nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó chỉ làm phát sinh quyền
cho ông Hội nên không bị vô hiệu.

5

Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 56-58, tr. 428.

17


*Bài tập 2: Giao dịch xác lập do có nhầm lẫn
Câu 1: So với BLDS 2005, BLDS 2015 có khác gì về giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn? Suy nghĩ của anh/chị
về sự thay đổi trên.

Điều 131 BLDS 2005. Giao dịch dân sự vô hiệu
do bị nhầm lẫn
Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm
lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập
giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu
bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu
bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô
hiệu.
Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho
bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì
được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của
Bộ luật này.

Điều 126 BLDS 2015. Giao dịch dân sự vô hiệu
do bị nhầm lẫn
1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có
sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên
không đạt được mục đích của việc xác lập giao
dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa
án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn
không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác
lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được
hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự
nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao
dịch dân sự vẫn đạt được.

18



- Điều 131, BLDS năm 2005 chia ra hai trường hợp là vô ý và cố ý còn ở Điều 126, BLDS 2015 thì không
chia ra làm hai trường hợp như vậy.
Sự thay đổi này là hợp lý vì trường hợp do cố ý đã được quy định rõ trong phần giao dịch vô hiệu do bị
lừa dối, ngắn gọn và thuận tiện trong việc xử lý vi phạm.
- Điều 131, BLDS năm 2005 quy định “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung
của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch vô hiệu.” còn về BLDS 2015 thì chỉ cần nhận thấy giao dịch bị nhầm lẫn sẽ có quyển yêu cầu Tòa
án tuyên giao dịch vô hiệu.
Việc này giúp cho bên bị nhầm lẫn dễ dàng hơn trong việc giành lại quyền lợi, thuận tiện và nhanh
chóng.
- Điều 126, BLDS 2015 bổ sung cả khoản 2 điều này.
Làm tăng thêm phương án giải quyết cho các bên trong trường hợp bên bị nhầm lẫn không muốn vô
hiệu hợp đồng nhưng vẫn đảm bảo đủ quyền lợi hợp pháp.
Câu 2: Đoạn nào của bản án trên cho thấy Tòa án đã tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn?
Đoạn của bản án cho thấy Tòa tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn:
“Như vậy, vị thế và giá trị nhà đất có mặt tiền đường nhựa rộng 18m và vị thế, giá trị nhà đất chỉ có lối đi
nhỏ rộng 02m là hoàn toàn khác nhau; chênh lệch rất lớn về giá trị và điều này mọi người đều biết và
thừa nhận. Rõ ràng đường nhựa rộng 18m được vẽ trước nhà (trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất) là đường đi của quân đội, quản lí trược tiếp là Sư đoàn BB7; sơ đồ bản vẽ thừa đất do cơ quan có
thẩm quyền lập (khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Anh vào năm 2010) ghi không rõ
ràng, gây nhầm lẫn cho người sử dụng đất và cho nguiờ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bà Mai
không biết thông tin về đường nhựa rộng 18m trước nhà là của Quân đội, Quân đội sẽ xây tường chắn
ngang vào đầu năm 2016; do đó có căn cứ xác định là bà Mai bị nhầm lẫn về vị thế của nhà đất khi thực
hiện giao dịch. Khoản 1 Điều 126 của BLDS 2015 (Điều 131 của BLDS 2005) quy định “Trường hợp giao
dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của
việc xác lập giao dịch thì bên nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu...”; bà
Mai có liên hệ với bà Anh để thương lượng giảm giá trị của hợp động là có thiện chí nhưng bà Anh không

đồng ý thương lượng, trong trường hợp này bà Mai yêu cầu hủy hợp đồng là đúng quy định của pháp
luật.”
“2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Kim Mai; tuyên bố “hợp đồng mua bán
nhà đất”’ xác lập ngày 17/02/2016 và “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” xác lập ngày
02/03/2016 giữa bà Trần Thị Kim Mai và bà Wòng Thị Lan Anh được Văn phòng công chứng Thủ Dầu Một
công chứng số 1170 (quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD) là vô hiệu; bà Wòng Thị Lan Anh phải trả lại cho bà
Trần Thị Kim Mai só tiền đã nhận là 460.000.000 đồng (bốn trăm sáu mươi triệu đồng)”.


Câu 3: Theo anh/chị, nhầm lẫn là gì và trong vụ việc trên, có nhầm lẫn không? Vì sao?
Nhầm lẫn là sự xác định sai về sự việc một cách vô ý do nhiều yếu tố. Trong vụ việc trên, có nhầm lẫn vì
theo bản án: "Bà Mai không biết thông tin về đường nhựa rộng 18m trước nhà là của Quân đội, Quân
đội sẽ xây tường chắn ngang vào đầu năm 2016; do đó có căn cứ xác định bà Mai bị nhầm lẫn về vị thế
của nhà đất khi thực hiện giao dịch."
Câu 4: Giả sử có nhầm lẫn, việc Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn có thuyết phục không? Vì
sao?
Giả sử có nhầm lẫn, việc Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn là có thuyết phục.
Vì theo khoản 1 Điều 126 BLDS 2015: “Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho
một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền
yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”.


*Bài tập 3: Giao dịch xác lập do có lừa dối
Câu 1: Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự do có lừa dối theo BLDS 2005 và BLDS 2015?
Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo Điều 132 BLDS 2005 và Điều 127
BLDS 2015 là: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một
bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc
nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị tuyên vô hiệu do có

lừa dối?
Đoạn cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị tuyên vô hiệu do có lừa dối của Quyết định số 521: “Việc
anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú Vân - họ hàng của anh Vinh) không thông
báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng về nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có Quyết định thu
hồi, giải tỏa, đền bù (căn nhà đã có quyết định tháo dỡ do xây dựng trái phép từ năm 1998 nên không
được bồi thường giá trị căn nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì không đủ điều kiện để mua nhà tái định cư
theo Quyết định 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002) là có sự gian dối. Mặt khác, tại bản “Thỏa thuận hoán
nhượng” không có chữ kí của ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bà Thu bán căn nhà 115/7E
Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ của anh Vinh). Do vậy, giao dịch “Thỏa thuận hoán nhượng”
giữa anh Vinh và bà Thu vô hiệu nên phải áp dụng điều 132-BLDS đề giải quyết”.
Câu 3: Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền lệ anh/chị biết.
Hướng giải quyết trên chưa có tiền lệ.
Câu 4: Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không? Vì sao?
Hướng giải quyết trên còn phù hợp với BLDS 2015 vì theo điều 127 BLDS 2015 về giao dịch dân sự vô
hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép quy định: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc
bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu”. Theo Quyết
định số 521: “Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú Vân - họ hàng của anh
Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng về nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi
đã có Quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù (căn nhà đã có quyết định tháo dỡ do xây dựng trái phép từ
năm 1998 nên không được bồi thường giá trị căn nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì không đủ điều kiện để
mua nhà tái định cư theo Quyết định 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002) là có sự gian dối. Mặt khác, tại bản
“Thỏa thuận hoán nhượng” không có chữ kí của ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bà Thu bán căn
nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ của anh Vinh). Vì vậy, với những tình tiết trên thì
việc áp dụng BLDS 2015 vẫn còn phù hợp, cụ thể là Điều 127.
Câu 5: Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không được yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?


Trong Quyết định số 210, theo Tòa án thì: Bà Nhất không được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có
tranh chấp vô hiệu. Bởi lẽ theo quy định của BLDS 1995 và BLDS 2005 bà Nhất không phải là một bên

tham gia giao dịch với ông Tài nên bà Nhất không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa dối. Trường hợp này chỉ có ông Tài mới có quyền khởi kiện
tuyên bố Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, nếu ông Tài không biết việc ông Dưỡng giả
mạo chữ kí của bà Nhất khi tiến hành giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Câu 6: Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do
lừa dối có còn không? Vì sao?
Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối đã
không còn. Vì “Về thời hiệu: Khoản 1 Điều 142 BLDS 1995 quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa dối là một năm; Khoản 1 Điều 136 BLDS
2005 quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu do bị lừa dối là hai năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Còn Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự quy
định trong trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ án
dân sự là hai năm, kể từ ngày người có quyền khởi kiện biết được quyền và lợi ích của mình bị xâm
phạm.
Bà Nhất khai năm 2007 vợ chồng ly hôn bà mới biết ông Dưỡng giả mạo chữ ký của bà để chuyển
nhượng đất cho ông Tài, nhưng đến 10/12/2010 bà Nhất mới khởi kiện. Nên nếu xác định bà Nhất có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên bị vô
hiệu do lừa dối, thì cũng đã hết thời hiệu khởi kiện”.
Câu 7: Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, Tòa án có
công nhận hợp đồng không? Vì sao?
Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, Tòa án có công
nhận hợp đồng. Vì theo khoản 2 Điều 132 của BLDS 2015: “Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này
mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực”.


Câu 8: Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy định tương ứng của BLDS
2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?
Nếu áp dụng các quy định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết trong QĐ số 210 thì hướng giải quyết
cũng không khác so với áp dụng BLDS 1995 và BLDS 2005. Cụ thể:
Về việc ai được yêu cầu và ai không được yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu thì

Điều 127 BLDS 2015 quy định: "Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe doạ,
cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu". Bà Nhất không phải là
một bên tham gia giao dịch dân sự với ông Tài nên bà Nhất không có quyền yêu cầu khởi kiện tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng bị lừa dối. Người được yêu cầu khởi kiện Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
do lừa dối là ông Tài.
Về thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối thì Điều 132 BLDS 2015 có quy định:
"Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và
129 của Bộ luật này là 02 năm...". Vì bà Nhất khai rằng năm 2007 hai vợ chồng ly hôn bà mới biết ông
Dưỡng giả mạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài nhưng đến 10/12/2010 bà Nhất mới
khởi kiện. Do đó đã hết thời hiệu khởi kiện.
Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối thì Toà vẫn công
nhận hợp đồng vì theo khoản 2 Điều 132 luật này: “Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà
không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực".
Câu 9: Quay trở lại vụ việc trong phần nhầm lẫn, vì sao Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
mà không tuyên hợp đồng vô hiệu do lừa dối?
Trong phần nhầm lẫn, Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do nhầm lẫn mà không tuyên hợp đồng vô hiệu
do lừa dối vì chính bà Anh cũng không biết 18m đường nhựa là của Sư đoàn BB7 (trong bản vẽ chỉ thể
hiện nhà đất có mặt tiền là lề đường rộng 5m rồi đến đường nhựa rộng 18m, ghi là “đường vào Sư BB7
(18m) nhựa”, không thể hiện đường nhựa là cửa quân đội (Sư đoàn BB7); bản vẽ không thể hiện nhà,
đất có lối đi nào khác) và Sư đoàn có chủ trương xây hàng rào (bít hoàn toàn mặt tiền có đường nhựa
18m). Bà Anh không có hành vi cố ý làm cho bà Mai hiểu sai lệch vị thế nhà đất có mặt tiền đường nhựa
rộng 18m. Đây rõ ràng không phải hành vi lừa dối mà là sự nhầm lẫn của bà Anh.
Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng tuyên nêu trên của Tòa án.
Theo nhóm em, hướng tuyên nêu trên của Tòa án là hợp lý. Tòa án đã dựa trên cơ sở pháp lý là BLDS
1995 và BLDS 2005 để đưa ra quyết định. Cụ thể ở Điều 132 BLDS 2005 về Giao dịch dân sự vô hiệu do bị
lừa dối, đe dọa có quy định: "Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu." và ở khoản 1 Điều 142 BLDS 1995 có quy
định: "Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe doạ, thì có quyền yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu". Từ 2 quy định trên ta có thể hiểu là chỉ người tham gia giao dịch
dân sự do bị lừa dối mới có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Trong tình

huống của bà Nhất, thì bà Nhất không phải là một bên tham gia giao dịch nên bà Nhất không có quyền
khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sở dụng đất vô hiệu do bị lừa dối.


*Bài tập 4: Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu
Câu 1: Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 131 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.”
Câu 2: Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ có phải thanh toán
cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện
không? Vì sao?
Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty
Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện. Vì tại khoản 2
Điều 131 BLDS 2015 quy định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành
tiền để hoàn trả”.
Câu 3: Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã
thực hiện như thế nào?
Với khối lượng công việc mà công ty Orange đã thực hiện thì Hội đồng thẩm phán đã đưa ra hướng giải
quyết là: “Nếu xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho
Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo
thỏa thuận tại hợp đồng. Còn nếu Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải
thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã
thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất do chậm thanh toán theo quy định của pháp
luật.”
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên quan tới khối
lượng công việc mà công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp đồng vô hiệu.
Theo nhóm em, hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên quan tới khối lượng công việc mà

Công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp đồng vô hiệu là hợp lí. Vì Công ty Orange đã hoàn tất và
bàn giao cho Công ty Phú Mỹ CD và bộ bản vẽ chi tiết của Dự án theo đúng khối lượng và tiến độ công
việc như đã cam kết trong hợp đồng.
Mà theo khoản 1 Điều 131 của BLDS 2015 “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.” và khoản 2 “Khi giao
dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”.


Vì vậy, có nghĩa là Công ty Phú Mỹ có nghĩa vụ phải thanh toán số tiền còn lại cho Công ty Orange ứng với
khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận hợp đồng.
Câu 5: Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực
hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu? Nội dung xử lý khác với trường hợp
xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?
Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán:
“Nếu xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty
Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa
thuận tại hợp đồng. Còn nếu Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh
toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực
hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.”
Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán như vậy là hoàn toàn hợp lý. Vì nếu Hợp đồng dịch vụ hợp pháp thì
Công ty Phú Mỹ là bên có nghĩa vụ trả tiền nhưng lại chậm thanh toán do đó phải trả thêm tiền lãi suất
theo khoản 1 Điều 357 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối
với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.”
Còn nếu Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì theo khoản 2 Điều 131 của BLDS 2015: “Khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp
không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Do đó, Công ty Phú Mỹ chỉ cần
thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã
thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng mà không cần trả thêm tiền lãi suất.
Câu 6: Trong Quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu?

Trong quyết định số 75 Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu vì xét thấy ngày
25/06/2006 anh Dư, chị Chúc đã chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất trên cho ông Sanh với giá
là 195.000.000đ. Hai bên có lập một giấy "chuyển nhượng đất" và một giấy "chuyển nhượng đất thổ cư
và nhận tiền" cùng ngày 25/06/2005. Cả hai tài liệu trên đều có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Trung
Kiên. Khi ông Sanh yêu cầu phải hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng theo quy định của pháp luật thì vợ
chồng anh Dư, chị Chúc không thực hiện.
Hợp đồng vô hiệu là do lỗi của anh Dư, chị Chúc không chịu hợp tác để hoàn thiện thủ tục về hình thức
của hợp đồng.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu
trong Quyết định trên.
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định định hợp đồng vô hiệu là hợp lý. Xét thấy xuyên suốt vụ án,
hợp đồng chuyển nhượng được xác lập dưới sự tự nguyện của hai bên, hoàn toàn đúng pháp luật nhưng
do lỗi của anh Dư, chị Chúc không chịu hợp tác để hoàn thiện các thủ tục về hình thức của hợp đồng dẫn
đến hợp đồng vô hiệu vì vi phạm về mặt hình thức.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×