Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

mon CNXH 21 tranthuhuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.15 KB, 15 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂNVIỆT
NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

MỤC LỤC
1


MỞ ĐẦU ........................................................................................................................3
NỘI DUNG.....................................................................................................................5
1.
Khái
niệm
giai
nhân....................................................................................5
2.
Thực
trạng
giai
cấp
nay..................................................6

công

3. Giải pháp phát triển
nay...................................9

cấp

giai



nhân
công

cấp
Việt

nhân

công
Nam

Việt

Nam

hiện
hiện

KẾT
..................................................................................................................14

LUẬN

TÀI
LIỆU
THAM
...........................................................................................15

KHẢO


2


MỞ ĐẦU
Kể từ khi ra đời, Đảng ta luôn chú trọng tới việc xây dựng và phát triển
giai cấp công nhân và sự phát triển của giai cấp công nhân trong suốt tiến
trình cách mạng đã qua càng khơng thể thiếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Lịch
sử xây dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai
đoạn cách mạng đã qua, đặc biệt trong tiến trình đổi mới hiện nay đã chứng minh
điều đó.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng
trở thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh
giáo dục, đã sớm giác ngộ, mục tiêu, lý tưởng chân lý của thời đại: độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giai cấp cơng nhân Việt Nam ln ln có tinh
thần và bản chất cách mạng triệt để. Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ
nhất kết thúc trở đi, do ảnh hưởng sâu sắc của cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 và sự truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cơng nhân
Việt Nam đã có bước chuyển biến sâu sắc về chất. Giai cấp công nhân đã
từng bước giác ngộ về mình, về địa vị, vai trị của mình trong xã hội, trong
cách mạng Việt Nam và ngày càng tiến tới sự tự giác. Sự ra đời của Công hội
đỏ Bắc Kỳ (28/7/1929) và Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) là mốc lịch sử
đánh dấu bước phát triển mới về chất của giai cấp công nhân Việt Nam: Từ sự
tự phát lên sự tự giác.
Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của
giai cấp cơng nhân - đã không ngừng vươn lên và phát triển mọi mặt, từng
bước giác ngộ và thực hiện hoá sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và cũng
từ đây giai cấp công nhân Việt Nam - thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cao trào

cách mạng năm 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh và cao trào
cách mạng dân chủ 1936-1939 chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng vượt
bậc của giai cấp cơng nhân Việt Nam về mặt chính trị, về ý thức giai cấp, về
tinh thần đồn kết, tính kỷ luật trong đấu tranh cách mạng. Với thắng lợi của
cách mạng Tháng Tám năm 1945, không những mở ra một kỷ nguyên mới

3


cho lịch sử dân tộc, cho cách mạng thế giới mà cịn là dấu mốc đưa giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động từ địa vị của người dân mất nước, người lao
động làm thuê lên địa vị người làm chủ của đất nước. Sự thành công của cuộc
cách mạng Tháng Tám 1945 cũng chứng tỏ vai trò lãnh đạo không thế thay
thế của giai cấp công nhân Việt Nam thơng qua đội tiền phong của mình là
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cuộc cách mạng mới ở Việt Nam. Lịch sử
cách mạng Việt Nam hiện đại đã trao cho giai cấp cơng nhân Việt Nam vai trị
sứ mệnh lịch sử ấy và giai cấp công nhân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ
mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn cách mạng này. Đúng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: "Chỉ có giai cấp cơng nhân là dũng cảm nhất cách
mạng nhất, luôn luôn đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách
mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công
nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của
nhân dân Việt Nam”.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đã
và đang tác động mạnh đến giai cấp công nhân Việt Nam, dẫn đến sự sự biến
đổi to lớn cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ. Xây dựng giai cấp
công nhân nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, cả
hệ thống chính trị, của mỗi người cơng nhân và của tồn xã hội.
Ngay từ khi thành lập và trong suốt 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng

ta luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân; khẳng định địa vị
lãnh đạo của gia cấp công nhân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; là giai
cấp đại diện cho các phương thức sản xuất tiên tiến; lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong khuôn khổ môn học, em chọn đề
tài " Phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" để
viết bài thu hoạch, trong đó tập trung phân tích thực trạng giai cấp cơng nhân
Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát triển giai cấp
cơng nhân Việt Nam.
Trong q trình hồn thành Bài thu hoạch, chắc sẽ cịn có khơng ít
những khiếm khuyết và thiếu sót nhất định. Kính mong các thầy giáo, cô giáo
xem xét và cảm thông.
Em xin trân trọng cảm ơn!

4


NỘI DUNG
1. Khái niệm giai cấp công nhân
Ngay từ năm 1845, khi bắt tay vào việc nghiên cứu giai cấp cơng nhân,
trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C. Mác đã đặt câu hỏi: “Vấn đề là ở
chỗ tìm hiểu xem giai cấp vơ sản thực sự là gì và phù hợp với sự tồn tại ấy
của bản thân nó, giai cấp vơ sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. Trong các
tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê ghen”(1844),
“Tình cảnh những người lao động ở Anh” (1844-1845), “ Những nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản” (1847), “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848)…
C. Mác và Ph. Angghen đã bàn và sử dụng nhiều từ đồng nghĩa để biểu đạt
khái niệm giai cấp công nhân: “giai cấp công nhân”, “giai cấp vô sản”, “giai
cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp vô sản hiện đại”, “giai cấp công nhân hiện
đại”, “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp công nhân công xưởng, nhà

máy”, “giai cấp cơng nhân đại cơ khí” và nhiều thuật ngữ khác nữa. Ngoài ra,
trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các ơng cịn sử dụng một số hình
thức diễn đạt khác như: “lao động làm thuê”, “giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ
sống dựa vào bán sức lao động của mình”, “giai cấp của những người hồn
tồn khơng có của”, “giai cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX”… Cần khẳng
định rằng, tất cả những thuật ngữ đồng nghĩa này chỉ là sự khác nhau về hình
thức biểu đạt trong những văn cảnh cụ thể của một khái niệm: giai cấp công
nhân. Sự khác nhau căn bản, theo các ông, chỉ là sự khác nhau giữa những
công nhân đứng máy (thuộc về những người này có một số cơng nhân trơng
coi máy phát động, nghĩa là cho nó ăn than, dầu) và những người giúp việc
(hầu hết là trẻ em) cho những cơng nhân cơ khí đó. Trên một mức độ nhiều
hay ít, tất cả những feeders (những người chỉ nạp nguyên liệu cho máy móc)
đều là những người giúp việc. Bên cạnh những loại thợ chính đó cịn có
những người, với một số lượng khơng đáng kể, làm cơng việc kiểm tra tồn
bộ máy móc và thường xun sửa chữa máy móc như kỹ sư, thợ máy, thợ
mộc v.v… Đó là lớp cơng nhân cao cấp, một phần có tri thức khoa học, một
phần có tính thủ cơng, đứng ngồi giới cơng nhân cơng xưởng và chỉ được kết
hợp với những công nhân này thôi. Sự phân công lao động đó có tính chất
thuần t cơng nghệ”.

5


Xuất phát từ quan niệm trên, có thể đi tới định nghĩa về giai cấp công
nhân như sau: Giai cấp cơng nhân là một tập đồn người ổn định, hình thành
và phát triển gắn liền với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và nền
kinh tế tri thức ngày càng phát triển với trình độ xã hội hố, quốc tế hoá cao
và rộng lớn; là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến của thời đại hiện nay;
là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc
đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong

toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp.
Từ cách tiếp cận như vậy có thể định nghĩa giai cấp cơng nhân Việt Nam
như sau: Giai cấp công nhân Việt Nam là một tập đoàn người, mà lao động
của họ gắn với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp hiện đại, thu nhập
chủ yếu của họ bằng làm công ăn lương; là lực lượng sản xuất chủ yếu và là
lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn liền với phát
triển kinh tế tri thức vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
2. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
2.1.

Số lượng, chất lượng và cơ cấu

Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam
đã tăng về số lượng, trưởng thành về chất lượng và khẳng định, phát huy vai
trò, địa vị của mình trong phát triển kinh tế. Theo số liệu thống kêcuối năm
2020, tổng số lao động làm công hưởng lương trong các loại hình doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay có khoảng 24,5 triệu người, trong đó cơng nhân lao
động trong các doanh nghiệp chiếm khoảng 60%, chiếm tỷ lệ khoảng 14%
dân số và 27% lực lượng lao động xã hội. Hằng năm, giai cấp công nhân Việt
Nam đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% giá trị thu
ngân sách nhà nước. Từng bước hình thành lớp cơng nhân trẻ có trình độ học
vấn, văn hóa được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, nắm vững khoa học
công nghệ, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại, phương pháp làm
việc ngày càng tiên tiến. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
tay nghề của công nhân ngày càng được nâng lên: Có khoảng 70% tổng số
cơng nhân có trình độ trung học phổ thơng, 27% có trình độ trung học cơ sở
và 3% có trình độ tiểu học. Cơng nhân có trình độ trung cấp chiếm 18%, trình
độ cao đẳng chiếm 7%, trình độ địa học chiếm 17%; công nhân được đào tạo,
đào tạo lại tại doanh nghiệp chiếm 48%. Xét một cách tổng quan, chất lượng

nguồn nhân lực của Vệt Nam ngày càng tăng so với sự gia tăng dân số; đã có

6


sự cải thiện rõ rệt, góp phần nâng cao năng xuất lao động của Việt Nam trong
thời gian qua.
Bên cạnh những kết quả đạt được, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
vẫn còn những hạn chế nhất định so với yêu cầu nhiệm vụ mới đang đặt ra, cụ
thể: Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu
nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành
nghề; tác phong cơng nghiệp và kỷ luật lao động cịn nhiều hạn chế; đa phần
công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống; việc làm và
đời sống của công nhân chưa tương xứng với những thành tựu của cơng cuộc
đổi mới và những đóng góp của chính mình; trình độ giác ngộ giai cấp, bản
lĩnh chính trị của một bộ phận cơng nhân cịn thấp; sự hiểu biết về chính sách
pháp luật cịn hạn chế. Tỷ lệ đảng viên, đồn viên cơng đồn trong cơng nhân
lao động cịn ít…
Khi chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt Hiệp định
đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và AEC đi vào thực chất, những rào
cản về không gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học cơng nghệ, thị
trường lao động được gỡ bỏ, thì sự cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay
gắt. Hiện ASEAN đã có Hiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực, có thỏa
thuận cơng nhận lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề của cơ quan chính thức đối
với 8 ngành nghề được tự do chuyển dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ,
bác sĩ, y tá, điều tra viên và du lịch. Việc cơng nhận trình độ lẫn nhau về kỹ
năng nghề sẽ là một trong những điều kiện rất quan trọng trong việc thực hiện

dịch chuyển lao động giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Tuy nhiên,
theo dự báo của ILO, khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng
lên 14,5% vào năm 2025. Nhưng trình độ phát triển khơng đồng đều dẫn đến
việc lao động có tay nghề chủ yếu di chuyển vào thị trường Singapore,
Malaysia và Thái Lan. Những lao động được chứng nhận về trình độ, kỹ năng
sẽ được di chuyển tự do hơn. Đây sẽ là thách thức cho Việt Nam, vì số lượng
cơng nhân lành nghề ở nước ta còn khiêm tốn, buộc phải chấp nhận nguồn lao
động di cư đến từ các nước khác có trình độ cao hơn. Thời gian tới, nếu trình
độ của cơng nhân nước ta không được cải thiện để đáp ứng yêu cầu, thì chúng
ta sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”.
2.2.

Ý thức chính trị, đạo đức, kỷ luật và tác phong lao động

7


Ý thức, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp khơng chỉ mang lại lợi
ích cho doanh nghiệp mà có ý nghĩa quan trọng đối với chính người lao động.
Hiện nay, tâm lý, thói quen và tác phong lao động gắn liền với nền sản xuất
nhỏ còn in đậm trong một bộ phận giai cấp công nhân nước ta. Hơn nữa,
trong q trình phát triển, giai cấp cơng nhân thường xuyên tiếp nhận những
thành phần mới, phần lớn là từ nơng dân, họ cịn trẻ tuổi đời, ý thức lập
trường giai cấp cịn hạn chế. Vì vậy, “Cơng nhân nước ta không đồng đều về
nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ
luật lao động”.
Dưới tác động của hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân nước ta năng
động, chủ động hơn, cố gắng nâng cao năng lực, hướng tới hiệu quả công việc
ngày càng cao hơn. Nhưng mặt khác, một bộ phận công nhân nước ta bị phai
nhạt giá trị đạo đức truyền thống, xa rời lý tưởng cách mạng. Kết quả một

cuộc khảo sát về lối sống của giai cấp công nhân nước ta hiện nay cho thấy:
một bộ phận cơng nhân có lối sống bng thả, thực dụng chiếm 27,9%;
22% ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân; 13,6% phai nhạt lý tưởng, giá trị sống; 18,7%
có biểu hiện suy thối đạo đức, lối sống; 12,9% có thái độ bi quan, chán đời;
20,3% vô cảm trước bất công; 25,5% ứng xử, giao tiếp kém; 8,1% trụy lạc;
29,4% đua đòi, lãng phí. Những kết quả khảo sát cũng chỉ ra, nhiều công nhân
vi phạm kỷ luật lao động như: không sử dụng thiết bị bảo hộ lao động
(45,2%); đi muộn, về sớm (24,8%); lấy đồ của công ty (11,8%); nghỉ làm
không xin phép (25,6%); khơng hồn thành định mức cơng việc (25,6%);
không chấp hành kỷ luật lao động (19,3%). Điều này gây ảnh hưởng đến
doanh nghiệp và hình ảnh người cơng nhân Việt Nam trong q trình hội
nhập quốc tế.
Nhiều cơng nhân coi cơng việc tại nhà máy, xí nghiệp như là một cách
mưu sinh, chứ chưa phải là một nghề nghiệp; họ chưa coi đó là một sự
nghiệp, khơng ý thức được vị trí và vai trị của giai cấp mình. Theo một cuộc
khảo sát gần đây đối với cơng nhân ba miền (Bắc, Trung, Nam) cho thấy, hầu
hết công nhân khơng nhận mình thuộc giai cấp lãnh đạo xã hội, họ chỉ nhận
mình là những người làm cơng ăn lương, cố gắng làm tốt công việc để tăng
thêm thu nhập nhằm cải thiện cuộc sống. Khơng ít cơng nhân làm việc trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có tâm lý làm th. Họ chỉ chú
trọng đến “cơng việc”, làm trịn phận sự, thụ động và ít chú trọng đến các lĩnh
vực chính trị - xã hội, coi những hoạt động đó là của ban chuyên trách. Do
nhận thức như vậy, nên có “một bộ phận cơng nhân chưa thiết tha phấn đấu

8


vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội”. Khi
được hỏi vì sao khơng muốn vào Đảng, câu trả lời là: vì kỷ luật nghiêm của
Đảng; vì phải đóng đảng phí; sợ bị phân biệt đối xử; khơng có lợi ích cá nhân;

ngại phấn đấu rèn luyện; ngại học lý luận, nghị quyết của Đảng; mất nhiều
thời gian hội họp. Ngồi ra, cịn có một bộ phận cơng nhân hồi nghi, khơng
tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước, mơ hồ về lập trường giai cấp, nhìn thấy một vài biểu hiện về mức
sống của một số nhà tư bản đã vội ca ngợi, không tin tưởng vào chủ nghĩa xã
hội.
3. Giải pháp phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Từ thực trạng trên, để phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và
chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ
năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân,
cần phải thực hiện những giải pháp cơ bản sau:
Một là, cần phải cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng
về giai cấp công nhân tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Xây dựng giai
cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong cơng nghiệp, kỷ luật lao
động thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tăng cường tuyên
truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho giai cấp cơng nhân. Chăm lo đời sống
vật chất tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng nhân. Đổi mới tổ chức và hoạt động
của cơng đồn phù hợp cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân
và yêu cầu hội nhập quốc tế, tập trung làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền
và lợi hợp pháp, chính đáng của cơng nhân, tập thể cơng nhân. Định hướng
quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của cơng nhân tại doanh
nghiệp ngồi tổ chức cơng đồn hiện nay”. Phải sử dụng tổng hợp các biện
pháp thực sự đưa nghị quyết của Trung ương Đảng vào cuộc sống, phải làm
cho giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng và những người lao động Việt
Nam nói chung cảm nhận được những thay đổi tích cực khi thực hiện Nghị
quyết của Đảng trong đời sống thực tế.
Đảng và Nhà nước cần sớm thể chế hoá những quan điểm, chủ trương
lớn đã được thể hiện trong nghị quyết của Đảng thành cơ chế chính sách cụ

thể, nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp
công nhân, tạo chuyển biến mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống

9


vật chất, tinh thần của người lao động tương xứng với những thành quả của
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp cơng
nhân. quan tâm lãnh đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật có liên quan
trực tiếp tới người lao động và tổ chức Cơng đồn, nhất là Bộ luật Lao động,
Luật Cơng đồn, Luật Bảo hiểm xã hội. Việc sửa đổi, bổ sung các luật trên
vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phải tạo điều kiện để tổ chức
Cơng đồn năng động, tự chủ và sáng tạo trong hoạt động, thực sự trở thành
người đại diện tin cậy, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động - đối tượng yếu thế nhất trong quan hệ lao động. Tăng cường
hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, xử lý
nghiêm những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao
động, khơng vì thu hút đầu tư mà xem nhẹ người lao động, yếu tố có tính
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nhằm xây dựng quan
hệ lao động hài hoà, tiến bộ trong doanh nghiệp.
Hai là, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế gắn
với phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết cần
ưu tiên phát triển những nghành nghề sử dụng nhiều lao động để giải quyết
việc làm, phát huy lợi thế cạnh tranh quốc gia về nguồn lực lao động. Đây
được xem là điều kiện để sử dụng nguồn lực lao động ở mọi trình độ, phân bố
hợp lý lao động giữa các vùng, miền, thành phần, ngành nghề kinh tế. Chú
trọng phát triển đội ngũ công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước. Quá
trình đổi mới và hội nhập đã tác động đến sự biến đổi của giai cấp công nhân
nước ta theo hướng đội nũ công nhân trong thành phần kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển rất nhanh cả về số lượng và chất

lượng. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến vai trị nịng cốt của đội ngũ cơng
nhân trong thành phần kinh tế nhà nước và ảnh hưởng đến quá trình phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, nhất là đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác
phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc cách mạng cơng
nghiệp lần thứ 4; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo nguồn
nhân lực nói chung, đối với giai cấp cơng nhân nói riêng. Cần phải chuyển
mạnh q trình giáo dục từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn;
cần đầu tư mạnh hơn cho đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ
học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ,

10


công nhân xuất thân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng,
nâng cao về chất lượng, hợp lý về cơ cấu. Tăng nhanh số lượng tỷ lệ cơng
nhân là cơng nhân trí thức trong các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh
dịch vụ xã hội, dịch vụ công nghiệp, trong các khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, v.v...
Bốn là, chỉ đạo kiểm tra các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ
chức thực hiện quy chế dân chủ; tăng cường các hoạt động đối thoại, thương
lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động nhằm xây dựng quan
hệ lao động hài hịa, ổn định, tiến bộ. Các cấp chính quyền tăng cường công
tác kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh
nghiệp. Tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch các khu, cụm công nghiệp thêm
hướng gắn với phát triển các khu đô thị mới, trong đó chú trọng xây dựng nhà
ở và các cơng trình phúc lợi thiết yếu phục vụ chăm sóc sức khỏe, nhu cầu
sinh hoạt tinh thần cho công nhân và nhân dân. Trong từng doanh nghiệp phải

có quy hoạch bố trí quỹ đất để xây dựng nơi sinh hoạt văn hóa cho công nhân.
Năm là, cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức giai
cấp, tinh thần dân tộc cho công nhân lao động, để họ luôn gắn bó với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có ý chí vươn lên thốt khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, tinh thần phấn đấu vươn lên trong điều kiện phát triển kinh tế tri
thức và hội nhập quốc tế; xây dựng tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động, lương tâm nghề nghiệp. Muốn vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp uỷ Đảng với hoạt động của tổ chức Cơng đồn trong cơng tác
tun truyền, giáo dục công nhân lan rộng, đảm bảo định hướng thống nhất
nội dung và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương
đến cơ sở, nhằm tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với công nhân và
cơng đồn. Nhà nước cần đầu tư và có chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng
thiết chế văn hóa và tổ chức hoạt động của các nhà văn hoá lao động, câu lạc
bộ công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, tạo môi trường lành mạnh để
xây dựng đời sống văn hóa trong cơng nhân lao động, góp phần xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sáu là, phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần
chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống cịn đối với phong trào công nhân hiện
nay. Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi lớn.
Vì sao Đảng của giai cấp cơng nhân, Cơng đồn của cơng nhân, Đồn Thanh
niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ công nhân, nhưng một bộ phận công nhân
chưa thiết tha vào Đảng, vào Đồn, chưa hồn tồn xem cơng đoàn là tổ chức

11


của họ. Thực tế cho thấy công tác xây dựng đảng và tổ chức cơng đồn, đồn
thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới. Một mặt
do áp lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản thân các tổ chức
đảng, cơng đồn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân không theo kịp

u cầu của sự phát triển, nhưng khơng có những chấn chỉnh kịp thời. Đã đến
lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị, nghị quyết mà nên có những văn bản
pháp luật thể chế rõ chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ thể.
Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cơng nhân vừa có tính
ngun tắc, vừa có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển vững mạnh của giai
cấp cơng nhân trong q trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
Liên hệ thực tiễn: Hà Nội là địa phương đi đầu triển khai và thực hiện
hiệu quả Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/01/2008 của Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thành ủy Hà Nội đã ban
hành Chương trình hành động số 32-CT/TU ngày 04/4/2008 về tiếp tục xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Thực hiện Chương trình hành động của Thành ủy, các cấp
các, ngành Thành phố đã xây dựng, triển khai, thực hiện nhiều đề án, dự án
nhằm bồi dưỡng, đào tạo và chăm lo cho công nhân lao động. Thành phố đã
có nhiều chính sách cụ thể nhằm hỗ trợ đào tạo nghề, xây dựng nhà ở cho
người có thu nhập thấp, nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân lao động các khu
công nghiệp tập trung, quan tâm các dịch vụ xã hội và chính sách an sinh cho
người lao động có thu nhập thấp…
Thành phố cũng luôn quan tâm, đầu tư nâng cao chất lượng công tác đào
tạo, giáo dục nghề nghiệp, hiện nay thành phố Hà Nội có hơn 370 đơn vị giáo
nghề nghiệp, lớn nhất so với cả nước. Hơn 10 năm qua cùng với sự trưởng
thành lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân lao
động Thủ đô đã tăng nhanh về số lượng, đã dạng về cơ cấu và ngày càng nâng
cao về chất lượng. Hà Nội hiện có hơn 231.000 doanh nghiệp với 2,5 triệu
cơng nhân lao động, chiếm 66% tổng số lao động của Thành phố. Trong đó số
cơng nhân đã qua đào tạo tăng từ 53,12% năm 2015 lên 70,23% vào năm
2020. Đa số cơng nhân tuổi đời cịn trẻ, năng động, ham học hỏi, thích ứng
nhanh với khoa học cơng nghệ hiện đại và cơ chế thị trường, thể hiện bản lĩnh
chính trị, lập trường kiên định, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu biểu

cho sự lớn mạnh và những đóng góp to lớn cho sự phát triển, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Thủ đơ đó là những cơng nhân đang làm việc tại khu công

12


nghiệp và chế xuất. Thành phố Hà Nội hiện có 09 khu công nghiệp hoạt động,
thu hút trên 140.000 lao động; đóng góp gần 40% giá trị sản lượng cơng
nghiệp, gần 60% kim ngạch xuất khẩu của toàn Thành phố…
Thành phố đã có nhiều chính sách cụ thể, thiết thực hỗ trợ và tạo điều
kiện giúp công nhân yên tâm lao động sản xuất như đào tạo tay nghề, xây
dựng nhà ở xã hội, nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp tập trung , quan
tâm các dịch vụ xã hội, chính sách an sinh… Cơng tác kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật lao động của các doanh nghiệp cũng được ngành chức
năng triển khai quyết liệt để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao
động, qua đó đã truy thu hàng trăm tỷ đồng nợ đọng bảo hiểm xã hội; kịp thời
giải quyết hữu hiệu những kiến nghị của người lao động. Nhờ vậy đời sống
vật chất, tinh thần của người lao động từng bước được nâng lên. Mức lương
của người lao động Thủ đô được điều chỉnh tăng 6,5-12,4%/năm; thu nhập
của người lao động trực tiếp trong loại hình doanh nghiệp tăng từ 3,2 triệu
đồng/người/tháng từ năm 2013 lên đến 6,5 triệu đồng/người/tháng năm
2021…
Các cấp Cơng đồn Thủ đơ ln đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương
thức hoạt động theo hướng thực chất hiệu quả, sát cơ sở, người lao động; chú
trọng chăm lo toàn diện đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp, chính đáng của người lao động.
Đứng trước yêu cầu phải đổi mới để phát triển, hội nhập, Nghị quyết Đại
hội lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2020 – 2025 tiếp tục
xác định: “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, nhân
lực quản lý xã hội, quản trị kinh tế, nhân lực các ngành văn hóa, du lịch. Xây

dựng và phát triển sinh thái học tập sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi
mới, sáng tạo; thu hút trọng dụng nhân tài trong và ngoài nước, đap ứng yêu
cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế…”. Cũng trong giai đoạn này
Thành phố phấn đấu tỷ lệ lao động qua đào tạo trên địa bàn đạt ít nhất 7580%, cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.

13


KẾT LUẬN
Giai cấp công nhân nước ta đã và đang có sự biến đổi quan trọng, đang
tiếp tục phát huy vai trò là là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Phát triển giai cấp công nhân Việt Nam
lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng học tập, rèn luyện để
nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, tay nghề, nắm bắt khoa học kỹ thuật, nâng cao tác phong chuyên
nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động góp phần tăng năng suất lao động,
phát triển bền vững doanh nghiệp, đống góp cho sự phát triển kinh tế -xã hội
của đất nước đê giai cấp công nhân Việt Nam xứng đáng là giai cấp cách
mạng, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế của nước ta.
Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là sự nghiệp cách mạng lâu dài
khó khăn và đầy thách thức. Chúng ta khơng thể nói giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân một khi giai cấp khơng hồn thành được những
trọng trách và những nhiệm vụ kinh tế - xã hội cụ thể do sự nghiệp đổi mới
đang đặt ra. Vì thế phải bằng sự nhạy cảm và bản lĩnh chính trị kiên định,
Đảng ra sức phấn đấu làm cho giai cấp cơng nhân, bằng lao động sáng tạo của
mình, tạo ra sự giàu có và phát triển ổn định cho đất nước.
Giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu mới của
sự nghiệp cách mạng. Ðể tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công

nhân phải vươn lên về mọi mặt. Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn
mạnh, ngang tầm với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động vững
bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách hiện nay, là trách nhiệm của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị
cũng như mỗi người cơng nhân. Cả hệ thống chính trị, nịng cốt là cấp ủy và
chính quyền các cấp cùng tổ chức cơng đồn cần ra sức quán triệt và thực
hiện sáng tạo tư tưởng chỉ đạo của Đảng để xây dựng giai cấp công nhân
vững mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, 2008.
[2] [3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021
[7] Tạp chí Cộng sản số ra ngày 17/10/2020, bài viết của tác giả
Nguyễn An Ninh
[8] Tạp chí Bảo Hiểm xã hội số ra ngày 09/4/2021
[9] Tạp chí Tuyên giáo số ra ngày 03/8/2021 bài viết của tác giả Nguyễn
Đình Khang, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam.


15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×