Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

(SKKN 2022) Một số giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng D2 hứng thú đến lớp.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.83 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP TRẺ NHÀ TRẺ
24 - 36 THÁNG D2 HỨNG THÚ ĐẾN LỚP

Người thực hiện: Ngọc Thị Hải
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Phú Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực: Chun mơn

Thanh hóa, tháng 6 năm 2022

1


MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

1
1.1
1.2
1.3
1.4
2


2.1

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận.
Thực trạng công tác giúp trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng D2 hứng
thú đến lớp tại trường mầm non trước khi áp dụng sáng kiến.
Một số giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 - 36 thỏng D2 hng thỳ
n lp .

2
2
3
3
3
4
4

6

Giải pháp 1: .Cụ giỏo luôn quan tâm,gần gủi ,yêu thương
trẻ như con đẻ của mình.

6

2.2

2.3
2.3.
1
2.3.
2
2.3.
3
2.3.
4
2.3.
5

Giải pháp 2: Làm đồ dùng đồ chơi và trang trí lớp đẹp,hấp
dẫn thu hút trẻ. .
Giải pháp 3:Điều tra thực tiễn để nắm bắt tâm lý của trẻ ,tạo
niềm tin với trẻ và phụ huynh.
Giải pháp 4: Động viên, khuyến khích, tuyên dương trẻ đúng
mức và kịp thời để giúp trẻ hứng thú đến lớp.
Giải pháp 5: Dạy trẻ có một số nề nếp thói quen cơ bản phù
hợp với lứa tuổi qua các thời điểm trong ngày.
Giải pháp 6: Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc tạo
2.3.6
hứng thú cho trẻ đến lớp.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận.
3.2 Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo


5

9
11
12
14
16
18
19
19
20
21

1. MỞ ĐẦU
2


1.1. Lý do chọn đề tài:
“Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã khẳng định: Làm mẫu giáo tức
là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy,
phải bền bỉ chịu khó mới ni dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây
non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này các
cháu thành người tốt. Cô giáo luôn luôn gương mẫu về đạo đức để các cháu noi
theo”. Lời giáo huấn trên đã khẳng định sứ mệnh cao cả và trách nhiệm lớn của
giáo viên mầm non đối với trẻ mầm non, đối với xã hội; đồng thời cũng khẳng
định, đạo đức nhà giáo phải luôn luôn đặt lên hàng đầu, phải luôn quan tâm giáo
dục và không được sao nhãng.
Thấm nhuần lời dạy của người trong những ngày đầu của năm học mới mỗi
giáo viên chúng tôi ai ai cũng phải cố gắng hết mình,phải có tinh thần trách nhiệm
cao trong cơng việc,có trái tim nhân hậu ,u nghề mến trẻ bởi trẻ nhà trẻ bắt đầu

đi học là thời gian mà trẻ cũng mới bắt đầu xa dời vòng tay cha mẹ,đến với một
môi trường mới với những người mà trẻ chưa từng gặp,nhiều trẻ đi học khóc rất
nhiều,có những trẻ cịn nơn trớ ra cả người cơ,thậm chí đách cô,cào cô…sau
những ngày học tiếp trẻ không chịu vào lớp vì lạ bạn,sợ cơ.Trẻ khơng thể biết rằng
sau những ngày bỡ ngỡ trẻ sẽ quen với môi trường mới trẻ được vui chơi, học
hành, được thể hiện cá tính của bản thân, trẻ vui tươi hồn nhiên và được khám phá
những điều mình muốn. Đến trường trẻ cịn được sự chăm sóc ân cần của cơ giáo,
lại có các bạn cùng trang lứa, cùng học, cùng chơi thật vui và trẻ sẽ ham thích đến
lớp học của mình. Khó khăn hơn nữa là một số phụ huynh còn chưa nhận thức
được tầm quan trọng của trẻ khi đến lớp nhà trẻ. Cha mẹ chưa biết cân nhắc những
điều kiện để cho con đi học phù hợp với lứa tuổi, vì lo cho vấn đề sức khỏe của trẻ
sợ trẻ đi học khóc, ốm và mọi sinh hoạt của con ở trong lớp ra sao?…Nên cha mẹ
cảm thấy không được yên tâm khi cho con đến lớp. Nhưng cha mẹ cần biết rằng
cho con đi học sớm hơn để trẻ nhanh chóng thích nghi và tránh được tình trạng
quấy khóc. Khi đến lớp trong giai đoạn này trẻ sẽ học và tiếp thu được những kỹ
năng kiến thức mới nhanh và dễ dàng hơn giai đoạn 3 tuổi. Đối với những trẻ
chưa biết nói, chậm nói hoặc ít nói, thì đi học ở giai đoạn này là phương pháp tốt
nhất, giúp trẻ cải thiện khả năng ngôn ngữ của trẻ. Tuy nhiên để làm được việc đó
thì cha mẹ trẻ nên cho các con đến và làm quen với môi trường trong và ngoài lớp
ở trường Mầm non trước khi đưa bé đến lớp để các con có điều kiện thích nghi
dần tránh việc làm cho các con bỡ ngỡ với mơi trường khơng giống như ở gia đình
mình. Nhưng đa số cha mẹ trẻ đều khơng có thời gian để làm được việc đó do
khơng quan tâm hoặc do cơng việc q bận.
Chính vì thế cha mẹ thường bất ngờ cho con đến trường, đến lớp theo thời
gian làm cho các con khơng kịp thích nghi với mơi trường mới nên thường sảy ra
quấy khóc.
3


Việc thiết lập thời gian biểu ở nhà và ở trường có sự khác biệt nên các con

chưa bắt nhịp được với việc hoạt động ở trường, điều này khiến trẻ gặp khơng ít
khó khăn trong việc thay đổi mơi trường sống của mình sau cả ngày ở lớp. Trước
khi cho các con đi học chính thức cha mẹ cũng khơng có thời gian nói chuyện với
các con về việc đi học nên trẻ chưa có sự chuẩn bị về tâm lý và dễ bị hụt hẫng, bởi
thực tế bộ não của trẻ vẫn xử lý, tiếp thu những thông tin đó. Bên cạnh đó lỗi của
nhiều cha mẹ là luôn lấy cô giáo và việc đi học ra để dọa trẻ mỗi khi trẻ mắc lỗi
hoặc không nghe lời. Cách này vơ tình khiến cho cơ giáo, trường học trở nên
khủng khiếp đối với trẻ. Đó cũng là một lý do khiến cho trẻ không muốn đến lớp.
Hơn nữa trong độ tuổi này trẻ còn non nớt, đang còn trong vịng tay ơm chặt của
bố mẹ và gia đình, đang được bố mẹ dìu dắt từng bước đi, bón từng thìa cơm,
chăm cho từng giấc ngủ, nên việc rời bố mẹ đến lớp hàng ngày với trẻ là việc rất
khó khăn. Mặt khác vẫn cịn một số giáo viên khi đón trẻ vào lớp vẫn chưa sẵn
sàng giang rộng vịng tay, âu yếm vỗ về trẻ như tình cảm của bố mẹ. Chính vì vậy
bản thân là một giáo viên trong nghề đã nhiều năm công tác, dựa trên thực tế trẻ
trong độ tuổi mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng nói riêng để giúp trẻ
hứng thú đến lớp là một điều rất khó khăn. Bản thân suy nghĩ rất nhiều làm sao để
các con hứng thú, ham thích đến lớp và giúp các con quen dần với môi trường
hoạt động tại trường mầm non để làm tiền đề cho sự phát triển toàn diện nhân
cách trẻ. Chính vì những lí do trên mà bản thân đã mạnh dạn đưa ra“Một số giải
pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng D2 hứng thú đến lớp” làm đề tài nghiên cứu
của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài: “Một số giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng D2 hứng thú
đến lớp”
Giúp trẻ hứng thú đến lớp hàng ngày, nhằm nâng cao tỉ lệ chuyên cần giúp
trẻ phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có vượt trội của mình nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục cho trẻ tại trường mầm non đạt kết quả cao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
“Một số giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng D2 hứng thú đến lớp”
1.4. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
Tham khảo các tài liệu liên quan đến nội dung trẻ 24 – 36 tháng hứng thú
đến lớp và các nội dung có liên quan đến SKKN.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế thu thập thông tin.
Khảo sát thực tế trên trẻ ở lớp 24 – 36 tháng lớp D2, thu thập thông tin cần
thiết khi điều tra trên trẻ.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
4


Điều tra và khảo sát được số liệu sau đó thống kê lại để sử lý số liệu phù
hợp nội dung nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận.
“Giáo dục mầm non là cấp bậc đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân là
cấp học đặt nền móng cho sự phát triển lâu dài nhằm hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ. Khi trẻ đến trường sẽ được phát triển mạnh mẽ được tiếp xúc với các
cơ giáo có trình độ chun mơn đúng chun ngành, được đảm bảo an tồn, được
chăm sóc chu đáo và được sử dụng các trang thiết bị đáp ứng nhu cầu về thể chất
và phát triển trí tuệ cho trẻ. Điều quan trọng là tạo cho trẻ được mơi trường thuận
lợi để phát triển nhân cách, trí tuệ và tình cảm xã hội. Chính vì thế khi các con đến
trường sẽ là một vai trò quan trọng giúp các con có những nền tảng kiến thức đầu
tiên cho quá trình học tập lâu dài của trẻ.
Như chúng ta đã biết “Hứng thú là một hiện tượng tâm lý rất phức tạp có
vai trị quan trọng trong cuộc sống, trong các lĩnh vực khoa học làm tăng hiệu quả
của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động một
cách say mê sáng tạo, có hiệu quả, làm tăng thêm sức làm việc... của mỗi người.
“Hứng thú đến lớp chính là thái độ lựa chọn đặc biệt của chủ thể đối với đối
tượng của hoạt động đến lớp vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực
của nó trong đời sống cá nhân”.

Xuất phát từ tâm lý của trẻ nhà trẻ lúc này, trẻ vừa sống trong mơi trường
gia đình, bước đầu trẻ phải đi học, được tiếp xúc với nhiều người trong xã hội, do
bản thân đứng lớp là độ tuổi trẻ 24 - 36 tháng trẻ còn non nớt, khóc nhiều vì xa
cha mẹ, chưa quen với cơ và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và
các hoạt động ở lớp. Các con không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có tính cách và
sở thích khác nhau. Vì vậy việc giúp cho các con thích đến trường, đến lớp chính
là một nhiệm vụ hết sức quan trọng mà mỗi giáo viên Mầm non nói chung, giáo
viên lớp nhà trẻ nói riêng phải lưu ý. Để tạo được tâm lý thoải mái cho trẻ thì giáo
viên phải dìu dắt âu yếm vỗ về, thương yêu trẻ như con đẻ của mình. Từ đó tạo
điều kiện cho trẻ ham thích đến trường, đến lớp, yêu mến bạn bè và cơ giáo. Đó
cũng là cơ sở giúp cho trẻ nhanh thích nghi và ham thích đến trường, đến lớp hơn.
Mơi trường trong lớp và ngồi lớp khang trang sạch đẹp cũng là một điều
kiện để thu hút tính tị mò, sáng tạo của trẻ, giúp cho trẻ được đến trường được
khám phá vui chơi, học tập, được thể hiện cá tính, được thoải mái vận động theo ý
thích của mình. Chính vì thế tạo được mơi trường trong và ngoài lớp tại trường
Mầm non bắt mắt thu hút được trẻ cũng là một cơ sở giúp cho trẻ hứng thú đến
trường, đến lớp hạn chế được các vấn đề ở trẻ như: Quấy khóc, nũng nịu... khơng
thích đi học. Tạo niềm tin cho phụ huynh yên tâm gửi con cho cơ giáo, chăm sóc
và dạy dỗ để thực sự mái trường Mầm non là ngôi nhà thứ hai của trẻ.
5


2.2. Thực trạng công tác giúp trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng D2 hứng thú
đến lớp tại trường mầm non trước khi áp dụng sáng kiến.
Năm học 2021 - 2022 bản thân được nhà trường phân cơng dạy nhóm nhà
trẻ 24 -36 tháng D2 với tổng số là 22 cháu.
Trong quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp phát
giúp trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng D2 hứng thú đến lớp” tại trường Mầm non. Năm
học 2021 - 2022 bản thân đã gặp những thuận lợi và khó khăn như sau:
* Thuận lợi:

Được sự quan tâm sát sao của Phòng giáo dục huyện Thọ Xuân cũng như
sự quan tâm của Ban giám hiệu trường mầm non về công tác bồi dưỡng chuyên
môn và đầu tư về cơ sở vật chất trang thiết bị phòng học.
Các nhóm lớp được phân cơng giáo viên hợp lý,phân chia trẻ theo đúng độ
tuổi.
Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho trẻ phong phú về màu sắc, số lượng, chất liệu
hấp dẫn thu hút trẻ.
Giáo viên tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc giáo dục
trẻ trong các hoạt động học.
Môi trường lớp học gọn gàng ,sạch sẽ
Bản thân là giáo viên dạy nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi D2 ln có tinh thần
trách nhiệm cao trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ ,hiểu tâm sinh lý của trẻ ở lứa
tuổi này.
Phụ huynh quan tâm đưa đón con đi học đúng giờ, thường xun trao đổi
tình hình học tập vui chơi của trẻ ở nhà cũng như ở trường.
* Khó khăn:
Hầu hết các phụ huynh đều đi làm ăn xa và phải gửi con ở nhà cho ơng bà
nên việc truyện trị và chuẩn bị tâm lý cho con trước khi đi học ở trường Mầm non
là khơng có nên trẻ dễ bị hụt hẫng khi phải rời xa gia đình để đến mơi trường mới
cả ngày cùng cô và các bạnPhụ huynh học sinh chưa biết cân nhắc những điều
kiện phù hợp cho trẻ đi học theo lứa tuổi và khơng có thời gian để đưa con đến
làm quen với mơi trường trong và ngồi lớp trước khi đưa con đi học.
Thời gian biểu ở nhà và ở trường có sự khác biệt nên các con chưa bắt nhịp
được các hoạt động ở trường
Nhiều trẻ mới đi học cịn khóc nhè,khơng chịu vào lớp thậm chí cịn cào cấu
cơ.
Một số bộ phận phụ huynh ln lấy giáo viên và việc đi học ra để dọa trẻ mỗi
khi trẻ mắc lỗi hoặc không nghe lời và cịn có thái độ chưa cương quyết, chưa dứt
khốt đối với việc cho con đến trường Mầm non nên phần nào ảnh hưởng đến việc
thu hút trẻ hứng thú đến lớp.


6


Đồng thời, trẻ ở lứa tuổi này đang ở giai đoạn khủng hoảng tuổi lên 3 nên
mỗi cháu lại có những sở thích và cá tính khác nhau.
Để khắc phục một số khó khăn cịn tồn tại bản thân đi sâu nghiên cứu và
mạnh dạn viết đề tài: “Một số giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng D2 hứng
thú đến lớp” tại trường mầm non Năm học 2021 - 2022”.
Từ những thuận lợi, khó khăn trên vào đầu năm học tôi đã lên kế hoạch phối
hợp với phụ huynh, khảo sát thực tế trên trẻ tại lớp nhà trẻ 24 – 36 tháng D2. Kết
quả như sau:
Biểu 1:
Số trẻ
Đạt
Chưa đạt
Tỉ lệ
Tỉ lệ
STT
Nội dung
khảo
Số trẻ
Số trẻ
%
%
sát
Sự hào hứng của trẻ khi được
1
22
13/22 59%

9/22
41%
bố mẹ đưa đến lớp.
Ngoan ngoãn vui tươi khi
2 được cơ đón từ tay người
22
14/22 64%
8/22
36%
thân trong giờ đón trẻ.
Trẻ vui tươi khi được gặp các
3
22
14/22 64%
8/22
36%
bạn trong lớp.
Qua bảng tổng hợp trên bản thân tôi thấy sự hào hứng của trẻ đến lớp cịn ít,
số trẻ ngoan ngỗn vui tươi khi được cơ đón và gặp các bạn chưa nhiều. Trước
thực trạng này nếu cứ để như vậy tỉ lệ chuyên cần thấp, trẻ đi học khơng đều dẫn
đến sự thích nghi với mơi trường lớp học gây khó khăn cho việc chăm sóc giáo
dục của cơ và làm ảnh hưởng đến trẻ khác. Vì vậy tơi tìm hiểu và đưa ra một số
giải pháp giúp trẻ hứng thú đến lớp ở trong trường mầm non.
2.3. Một số giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 -36 tháng D2 hứng thú đến lớp
Để nâng cao tỉ lệ chuyên cần, giúp trẻ hứng thú đến lớp để đạt được mục
tiêu “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Tôi đã lựa chọn và áp dụng một số
giải pháp sau:
2.3.1. Giải pháp 1: Cô giáo luôn quan tâm, gần gũi, yêu thương trẻ như
con đẻ của mình.
“Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo

Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền
Cô và mẹ là hai cô giáo
Mẹ và cô ấy hai mẹ hiền”
Lời bài hát “Cô và mẹ” của nhạc sỹ Phạm Tuyên phần nào đã nói lên vai trị
của cơ giáo đối với trẻ. Cơ giáo được coi như người mẹ hiền thứ hai. Nên mỗi
ngày đến lớp cơ giáo là người ln mang tấm lịng và tình yêu thương của mình để
uốn nắn, dạy dỗ các con như chính cha mẹ của trẻ khi ở nhà. Đối với trẻ, ngoài bố
7


mẹ thì cơ giáo là người để trẻ có thể tin tưởng, có cảm giác được quan tâm, bảo
vệ. Cơ giáo không chỉ là người chăm lo, dạy dỗ cho các con, mà cịn là người đặt
nền móng đầu tiên cho bước đường trưởng thành của trẻ. Cô dạy trẻ biết cách cư
xử lễ phép, biết cách tơn trọng hịa nhã, bắt đầu phân biệt được cái tốt cái xấu
trong cuộc sống. Bởi cô là người truyền đạt những bài học đầu tiên cho trẻ trong
môi trường giáo dục xã hội.
Sự yêu thương, quan tâm của cô là cách giúp cho trẻ cảm thấy an tâm và
nhanh chóng làm quen với môi trường mới khi bắt đầu đến trường. Phần lớn trẻ
nhà trẻ thường khóc rất nhiều trong những ngày đầu tiên đến lớp vì lo lắng, sợ hãi
khi phải xa vòng tay bố mẹ và gặp gỡ những người lạ. Khi được cô giáo gần gũi,
quan tâm yêu thương làm cho trẻ hồn tồn tin tưởng thì trẻ rất hứng thú và hợp
tác cùng cơ.
Ví dụ : Ngày đầu tiên đến lớp có cháu Minh Thư, cháu Thanh Trúc cịn ơm
chặt lấy cổ mẹ khơng muốn rời xa và nhìn xung quanh một cách dị xét. Để các
con khơng sợ sệt và cảm thấy được che chở cô giáo tươi cười và làm quen với các
con bằng những câu hỏi đơn giản thân mật như: “Con tên gì?”, “Con mấy tuổi
rồi”, “Con muốn vào lớp chơi cùng cô và các bạn khơng nào”…Sau đó cơ từ từ âu
yếm trẻ, kế đến là nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng dần dần thuyết phục để bế được trẻ
từ tay bố mẹ và vỗ về trẻ đó là bước khởi đầu để trẻ cảm thấy an lòng khi đến lớp.
Ở trường Mầm non, đặc biệt đối với trẻ nhà trẻ việc thể hiện tình cảm giữa

giáo viên đối với các con như tình cảm ruột thịt. Điều này có tác dụng rất lớn đến
việc thu hút trẻ đến lớp và hình thành nhân cách trẻ ở trường.
Trẻ 24 - 36 tháng đang được ấp ủ, yêu thương của ông bà, bố mẹ vì thế các
con đến trường, đến lớp vừa bỡ ngỡ, lạ lẫm, vừa lưu luyến gia đình, các con hoang
mang, sợ hãi khóc nhè thậm chí cịn có cảm giác bị bỏ rơi vì thế lúc này trẻ cần
hơn hết mọi thứ là sự yêu thương, âu yếm, sự dỗ dành nhẹ nhàng của cô giáo. Vậy
cô giáo phải làm gì để các con có thể cảm nhận được sự an tồn, sự u thương tin
tưởng của cơ giống như cha mẹ trẻ ở nhà? Cô luôn coi trẻ như những đứa con của
mình để chăm sóc, dạy dỗ. Biết lắng nghe tôn trọng những nét riêng của trẻ. Quan
tâm và tạo cho trẻ niềm vui khi ở bên cô bằng những cử chỉ lời nói, những trị chơi
vui nhộn. Từ đó tạo nên khơng khí vui vẻ cởi mở giúp trẻ dễ hịa nhập với bạn bè
và cơ giáo.
Ví dụ: Với trẻ mới đi học cịn khóc như cháu Bảo Anh khơng theo cơ giáo
thậm chí cịn đánh vào người cơ. Lúc đó cơ đến bên trẻ, bế trẻ âu yếm, trò chuyện
dỗ dành trẻ, đánh lạc hướng bằng những câu hỏi và dẫn trẻ đến các góc chơi cơ
đưa ơ tơ ra hỏi “Cái gì đây con!; Ơ tơ có phải của con khơng? Cơ cho con nhé... để
dỗ cho con khơng khóc nữa.
Ngồi ra để tạo cho trẻ có niềm tin và trẻ thêm u cơ hơn, tin tưởng vào
cô như người mẹ của trẻ ở nhà, tơi chủ động tổ chức các trị chơi nhẹ nhàng gần
8


gũi với trẻ như các trò chơi: Chi chi chành chành, dấu tay, cắp cua bỏ giỏ, nu na
nu nống...
Hình ảnh cơ và trẻ chơi trị chơi Nu na Nu nống
Hay: Trong giờ chơi cơ cho trẻ chơi theo nhóm, khi trẻ chơi xong cơ có những
thủ thuật để trẻ cất đồ chơi giúp cô. Cô để ý trẻ từng li từng tí, kiểm tra sức khỏe
của trẻ, trị chuyện với trẻ về những buổi hôm trước và hỏi trẻ để trẻ quên đi nỗi
nhớ nhà.
Lúc này trẻ cảm nhận được tình u thương của cơ và cảm thấy khơng bị

hụt hẫng khi phải xa gia đình, quen dần với cơ và các bạn, ham thích đến trường
hơn.
Tình cảm của cô đối với trẻ giàu cảm xúc thân thiết yêu thương trẻ như
con ruột của mình. Bởi lẽ các con cịn non nớt cần được chăm sóc và bảo vệ. Vì
vậy bản thân ln tơn trọng thể hiện sự đồng cảm với trẻ tạo nên khơng khí cởi
mở là một người bạn thực sự đối với trẻ. Khi trẻ có tình cảm, có hứng thú cơ sử
dụng nghệ thuật của mình để thu hút lơi cuốn trẻ vào các hoạt động.
Trẻ ở lứa tuổi này nhiều trẻ rất cá tính không nghe lời cô, không chịu ăn
hay trêu bạn, hay tranh dành đồ chơi với bạn... Có thể do trẻ chưa quen trường,
quen lớp hoặc khi ở nhà được nuông chiều theo ý thích của mình vì vậy cơ giáo
cần phải kiên nhẫn và tìm hiểu lý do vì sao trẻ lại có biểu hiện như vậy. Cũng từ
đó cơ giáo chính là người giúp trẻ giải tỏa những căng thẳng, bình tĩnh và quan
trọng là tạo ra sự gần gũi để trẻ thoải mái vui chơi và cũng chính từ đó cơ giáo tạo
ra khơng khí đầm ấm của một gia đình, tạo ra sự gần gũi thân thương giữa cơ và
trẻ từ đó giúp trẻ có cảm giác yên tâm khi đến lớp, đến trường.
Ví dụ: Trong giờ ăn đối với những trẻ không chịu ăn tôi cho trẻ ăn từng chút
một, vừa ăn vừa dỗ trẻ bằng các đồ chơi đôi khi là phải chấp nhận cả việc cho trẻ
ăn rong bên ngoài. Trẻ cảm nhận được mình vẫn được yêu chiều giống mẹ ở nhà.
Khi trẻ quen cô cho trẻ ngồi vào bàn, cô ngồi cạnh trẻ và trẻ đã chịu ngồi để ăn
giống các bạn.
Đối với trẻ nhà trẻ, khi xa gia đình để đến trường là một khó khăn rất lớn.
Vì thế sự quan tâm, tình u thương của cơ giáo là một sự bù đắp rất quan trọng
đối với trẻ. Được cô giáo quan tâm, chăm sóc và yêu thương như “con đẻ” thì trẻ
sẽ vui vẻ thoải mái vui chơi và học tập.
Qua một năm thực hiện biện pháp này, tôi thấy trẻ lớp tôi luôn vui vẻ, gần
gũi với cô giáo, thoải mái trị chuyện với cơ về nhu cầu cá nhân hay ý thích của
trẻ, chơi hịa đồng cùng các bạn. Không chỉ vậy, khi về nhà trẻ lớp tôi kể chuyện
trên lớp cho ông bà bố mẹ nghe một cách vui vẻ, hào hứng nên phụ huynh rất yên
tâm. Nhờ việc nắm bắt rõ tâm lí và nhu cầu của trẻ mà tôi luôn được các con quý
mến và các con rất thích đi đến lớp học cùng cơ cùng các bạn.

9


2.3.2. Giải pháp 2: Làm đồ dùng đồ chơi và trang trí lớp học đẹp, hấp dẫn
để thu hút trẻ.
Như chúng ta đã biết trẻ ở lứa tuổi Mầm non khi đến lớp là “Học bằng
chơi” và “chơi mà học”. Chính vì vậy đồ dùng đồ chơi là nhu cầu tự nhiên không
thể thiếu với cuộc sống của trẻ. Tuy nhiên nhu cầu của trẻ ngày càng tăng thì việc
có đủ các đồ dùng đồ chơi để phục vụ cho các hoạt động của trẻ hàng ngày ở lớp
rất nhiều. Để thỏa mãn được nhu cầu học tập và vui chơi của trẻ với đồ chơi, đòi
hỏi giáo viên phải luôn sáng tạo ra nhiều đồ dùng đồ chơi mới lạ, hấp dẫn phù hợp
với nội dung giáo dục trẻ.
Với tấm lịng u nghề mến trẻ và có sự sáng tạo tơi ln chú trọng trang
trí, xây dựng mơi trường trong lớp của mình thật đẹp bẳng những nguyên vật liệu
sẵn có của địa phương để giúp trẻ thích đến lớp hàng ngày.
Ví dụ: Từ các khối gỗ nhỏ tạo thành những viên gạch, những chiếc ô tô con
hay những chiếc máy bay…hay cát, sỏi, lá cây, mo cau, gáo dừa, vải vụn những
vỏ hộp sữa chua, vỏ su su mà trẻ đã uống hết tôi đã tận dụng, vệ sinh sạch sẽ, an
toàn để làm đồ chơi phù hợp với lứa tuổi của trẻ, phù hợp với chủ đề tạo không
gian mới lạ, đẹp mắt để các con quên đi nỗi nhớ bố mẹ, làm quen môi trường mới
tốt hơn.
Bên cạnh đó đồ dùng, đồ chơi phải phù hợp với trẻ mầm non, an tồn, tiện
lợi. Chính vì thế đòi hỏi giáo viên phải vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, sự khéo
léo để cải tiến các đồ dùng sáng tạo nhằm đạt hiệu quả.
Hình ảnh cơ giáo trang trí các góc chơi.
Hằng năm trước khi vào năm học mới nhà trường tổ chức họp triển khai
phương hướng và kế hoạch cho năm học mới. Trong đó kế hoạch xây dựng môi
trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là công việc cần thực hiện ngay trước khi
bước vào năm học. Để trẻ đến trường được vui chơi, hoạt động đảm bảo nhu cầu
theo lứa tuổi của trẻ và bản thân đã xây dựng kế hoạch định hướng cho lớp mình,

tơi nhận thấy việc trang trí lớp học phong phú, gợi mở và hấp dẫn trẻ là rất cần
thiết; Vừa là để thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giao tiếp, nhận thức, nhu cầu hoạt
động cùng nhau của trẻ, vừa tạo cơ hội cho trẻ được chơi và hoạt động theo sở
thích tích cực, sáng tạo vận dụng những kỹ năng đã học vào các hoạt động khác
cũng là cách giúp tăng sự phấn khởi khi trẻ đến lớp một cách hiệu quả nhất. Từ đó
tơi đã trang trí lớp học theo kế hoạch từng tháng đã xây dựng và đảm bảo khơng
gian thực tế của lớp, tạo góc mở, an toàn, thẩm mĩ và đảm bảo các nhu cầu của trẻ.
Bố trí các góc chơi phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ, khoảng cách giữa góc động và
tĩnh bố trí hợp lí cùng những hình ảnh ngộ nghĩnh, đẹp mắt với trẻ. Khi dắt trẻ vào
lớp tôi hướng trẻ chú ý vào các góc chơi, dắt trẻ đến từng góc chơi để gợi hỏi trẻ
những đồ vật, đồ chơi có trong góc chơi.
10


Ví dụ: Đã vào đầu năm học sau 3 tuần nhưng cháu Việt Anh, Bảo Anh lúc
đầu vào lớp vẫn cịn khóc theo mẹ về Cơ bế trẻ lại xem bức tranh vẽ cảnh
cô giáo và các bạn đang xếp hình để trẻ tập trung vào hình ảnh và hỏi trẻ: Tranh vẽ
ai đây? Cịn ai đây nữa? Cơ giáo và các bạn đang làm gì?... Mai cơ con mình cùng
xếp hoa và xếp hình giống các bạn nhé..
Nhờ thực hiện tốt kế hoạch “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm” đã giúp cho bản thân làm được rất nhiều đồ dùng đồ chơi từ các
nguyên vật liệu sẵn có và nguyên vật liệu phế thải được xử lý đảm bảo vệ sinh an
toàn. Ngoài ra bản thân còn sáng tạo làm ra những đồ dùng đồ chơi hấp dẫn, đẹp
mắt từ các loại đồ dùng hỏng và sách báo cũ cho trẻ chơi
Ví dụ 1: Từ những sách, báo cũ, tôi đã làm ra những quyển sách tranh
truyện cho các cháu theo chủ đề
Ví dụ 2: Từ những cái ví hỏng bản thân đã tạo ra thành những cái giỏ, túi
sách cho trẻ chơi hay áo váy cũ tôi đã làm được ra các loại đồ chơi như: Rối tay,
đồ chơi búp bê..để phục vụ cho trẻ chơi.
Từ việc chú trọng tới đồ dùng đồ chơi đa dạng phong phú và trang trí lớp

học đẹp, thẩm mỹ, thân thiện, phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ nên kết quả cho thấy
các con rất ham thích đến lớp, hứng thú, tham gia các hoạt động sôi nổi. Vì thế
khả năng hoạt động thu hút trẻ đạt kết quả cao.
2.3.3 Giải pháp 3: Điều tra thực tiễn để nắm bắt tâm lý của trẻ ,tạo niềm
tin với trẻ và phụ huynh.
Việc thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn giúp cho giáo viên nhìn
nhận chính xác về tình trạng thực tiễn của lớp mình,để nắm bắt được đặc điểm
tâm sinh lý của trẻ từ đó đưa ra các hoạt động điều chỉnh đến từng cá nhân trẻ.
Giáo viên thơng qua giờ đón trả trẻ trị chuyện với phụ huynh về trẻ để biết
trẻ thích ăn những gì?Khơng ăn gì?Và ngủ như thế nào?Những ngày đầu tiên đến
trường cô giáo luôn tạo niềm tin cho trẻ ,luôn gần gủi,nhẹ nhàng ân cần Vì những
ngày đầu bố mẹ đưa trẻ đến lớp trẻ thường ôm chặt lấy bố mẹ không muốn rời
xa ,trẻ không muốn đi học với cô,với bạn ánh mắt nhìn xung quanh một cách dị
xét.Nếu lúc đó cơ giáo đến ơm và bế trẻ khỏi tay bố mẹ thì trẻ càng khóc to hơn và
có những trẻ rẫy rụa với tâm lý càng ghét cô và sợ cơ,sợ phải đi học…Chính vì thế
tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ cô chỉ chào hỏi ,cười và làm quen bằng những câu hỏi
đơn giản thân mật như: Con tên gì?con vào chơi với các bạn nhé trong đó có nhiều
đồ chơi lắm.Sau đó cơ trị chuyện với phụ huynh từ từ vút ve trẻ hay cầm tay trẻ
mhàng đó là bước khời đầu để trẻ cảm thấy an tâm hơn.
Khi trị chuyện hoặc chơi cùng trẻ tơi thường xuyên xưng tên tôi chứ không
xưng “cô”và trẻ thuộc tên của cô rất nhanh .Ở lớp tôi dạy trẻ một số nề nếp đơn
giản như: khi đến lớp các con chào cô,chào bạn.Các con cất ba lô vào tủ nhé.Khi
đi vệ sinh các con phải gọi cô nhé,đi song các con phải rửa tay sạch sẽ ,phải
11


thường xuyên đeo khẩu trang để đảm bảo sức khỏe không lây lan dịch bệnh côvit
nhé.Khi về nhà trẻ cũng bắt chước thuật lại lời nói của cơ ở trường trẻ cịn làm
những động tác mà cơ làm cho bố mẹ xem điều này làm phụ huynh thấy được sự
tiến bộ của trẻ khi đến trường ngày càng tin tưởng ở cô ,thấy được tầm quan trọng

khi trẻ đến trường đến lớp với cô.
Trong thời gian đầu tôi chiều theo cá tính của từng trẻ để trẻ cảm thấy an
tồn khi đến lớp với cơ .Tơi có thể đáp ứng thói quen khơng đẹp của trẻ như ngồi
đưa chân lên ghế ,đi vệ sinh không gọi cô ,vứt rác bữa bãi ra lớp ,chơi xong đồ
chơi vứt lung tung ra lớp….rồi từ từ sau đó khi trẻ quen tơi cho trẻ thực hiện các
nề nếp vệ sinh ,xếp hàng ra ngoài đi thể dục sáng ,thu dọn đồ chơi khi chơi xong
và kết quả mà tôi thu được như mong đợi đó là trẻ khi trẻ đến lớp rất hứng thú
theo cô vào lớp không theo bố mẹ nữa mà hễ đến lớp thấy có cơ ở đó thì trẻ n
tâm vào lớp với cơ và trẻ sẽ khơng khóc nữa .
2.3.4. Giải pháp 4: Động viên, khuyến khích, tuyên dương trẻ đúng mức
và kịp thời để giúp trẻ hứng thú đến lớp.
Đối với trẻ Mầm non, đặc biệt trẻ lứa tuổi Nhà trẻ việc khuyến khích động
viên trẻ kịp thời sẽ là động lực rất lớn tác động đến trẻ giúp trẻ phát triển tốt tâm
lý, tạo động lực để trẻ làm những điều tốt hơn nữa. Trẻ con cũng rất thích được
nhận lời khen động viên của người lớn. Khi trẻ nhận được các con sẽ cảm thấy rất
hào hứng, tự tin vào bản thân hơn. Nó cũng chính là hệ thống những biện pháp
kích thích, nhằm cũng cố lịng tin, nâng cao bản lĩnh ý chí cho trẻ trong học tập và
hịa nhập vào mơi trường. Bất kỳ một đứa trẻ phát triển bình thường nào đều có
nhu cầu vươn lên khẳng định chính mình. Do đó, ngồi cha mẹ thì giáo viên cần
phải tìm mọi cách thức để kịp thời động viên, khích lệ sự vươn lên đó. Khen ngợi
đúng mức và kịp thời sẽ kích thích trẻ đem hết năng lực của mình để hoạt động.
Ngược lại, nếu khơng có sự khích lệ đúng đắn của thầy cô, cha mẹ trước những
thành quả mà trẻ đạt được, thì sẽ làm mai một những ý tưởng sáng tạo của trẻ.
Vì thế, khi khen ngợi, động viên trẻ, giáo viên phải thực hiện một cách kịp
thời, chính xác, cơng khai và mang tính giáo dục cao, có tác dụng thúc đẩy tính
tích cực mặt ưu điểm của trẻ. Khen ngợi, động viên trẻ phải kết hợp với yêu cầu
cao để trẻ tiếp tục phấn đấu vươn lên hơn nữa. Giáo viên phải kết hợp linh hoạt
nhiều hình thức khen ngợi, động viên khác nhau.
Trẻ 24 - 36 tháng với đặc điểm sinh lý phát triển mạnh, trẻ cịn hay tị mị
bắt chước, tơi ln tơn trọng trẻ và hết sức công bằng, sử dụng khen chê đúng

mức. Khen và chê có tác dụng mạnh đến hành vi vâng lời của trẻ nhưng không
được chê trách đối với trẻ Mầm non đặc biệt đối với trẻ nhà trẻ mà vẫn phải khen
trẻ
12


Ví dụ: Hơm nay bạn Đạt rất ngoan đến lớp không theo mẹ nữa đã tự vào lớp
chơi với đồ chơi cùng các bạn. Còn Bạn Ngọc Anh gần ngoan rồi, gần giỏi giống
bạn Đạt ngày mai con nhớ phải ngoan hơn nhé.
Bất cứ một đứa trẻ nào cũng đều thích được khen ngợi và đương nhiên
khơng thích bị cơ giáo chê. Khen – Chê có ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ có sức
ảnh hưởng lớn đến tâm lý và vâng lời của trẻ. Dù trẻ chưa làm đúng theo yêu cầu
của cô, trẻ chưa làm theo mong muốn của cơ thì đối với trẻ, trẻ khơng có lỗi gì.
Vậy cớ sao giáo viên lại trách phạt trẻ để gây tổn thương trẻ.
Với tôi, tôi luôn tôn trọng trẻ, động viên tuyên dương trẻ một cách kịp thời
và hợp lý không chê trước mặt trẻ không phủ nhận ý kiến của trẻ.
Ví dụ 1: Bạn Quỳnh Chi đến lớp không chào cô giáo tôi dùng thủ thuât
không nhắc trẻ mà xử lý bằng tình huống là tơi vịng tay trước “Cô chào con”, cô
chào bạn Quỳnh Chi” tự khắc lúc đó trẻ sẽ vong tay chào cơ.
Hình ảnh trẻ chào cơ khi đến lớp
Ví dụ 2: Trong hoạt động tạo hình, bạn Quỳnh Anh di màu chưa đều đẹp cơ kịp
thời khuyến khích động viên trẻ: “Con ơi con muốn di màu cho đẹp bức tranh con
phải làm sao. À con di giống cô nào, di lần lượt từ trên xuống dưới, từ trái sang
phải và không di ra ngồi, con di hết lần lượt giống cơ đi nào, ôi! đẹp quá.
Bên cạnh đó, cuối mỗi một ngày tôi cho trẻ lên cắm hoa bé ngoan và
khuyến khích động viên những trẻ hôm nay chưa được lên cắm hoa ngày sau sẽ cố
gắng được lên cắm cùng các bạn.
Hàng ngày cơ ln nhắc nhở trẻ: Đi học khơng khóc nhè, đến lớp biết chào
cô; ăn ngủ ngoan; học ngoan; Biết nhường nhịn bạn bè,không tranh dành đồ
chơi với bạn; Biết thu dọn đồ dùng, đồ chơi;Biết vâng lời cô giáo ơng bà bố mẹ

Để từ đó giúp trẻ ln có ý thức phấn đấu để trở thành bé ngoan trong ngày,
trong tuần.
Nhờ sự động viên, khuyến khích, tuyên dương trẻ kịp thời giúp cho trẻ lớp
tơi có hứng thú tham gia các hoạt động.
Thông qua hoạt động nêu gương, bình cờ cuối ngày trẻ ngoan hơn, có hứng thú
tham gia vào các hoạt động, hăng hái mạnh dạn tự tin khi giao tiếp. Từ đó giúp trẻ
có động lực hứng thú tham gia vào các hoạt động ở trường, lớp và ham thích đến
lớp học
2.3.5. Giải pháp 5: Dạy trẻ có một số nề nếp thói quen cơ bản phù hợp với lứa
tuổi qua các thời điểm hoạt động trong ngày.
Với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi ở giai đoạn phát triển lời nói. Do đó
khả năng giao tiếp về ngơn ngữ của trẻ gặp nhiều khó khăn, trẻ đang sống trong
mơi trường gia đình được ơng bà, bố mẹ yêu thương chăm sóc. Khi đến trường là
13


nơi hoàn toàn mới mẻ xa lạ với trẻ. Bởi vậy mà trẻ chưa quen với nề nếp thói quen
của lớp, tính rụt rè, nhút nhát, cá tính vẫn cịn ở nhiều trẻ.
Hằng ngày các con đến lớp với các nội dung hoạt động như: Học tập, vui
chơi, ăn, ngủ, vệ sinh… mọi sinh hoạt đều là những hình thức để rèn luyện. Đối
với độ tuổi này để đưa các con vào nề nếp thói quen tốt khơng phải là chuyện dễ.
Muốn tạo cho trẻ có thói quen nề nếp tốt giáo viên phải nhẹ nhàng gần gũi và tình
cảm với trẻ để uốn nắn trẻ qua các hoạt động, học tập, vui chơi, sửa sai cho trẻ ở
mọi lúc mọi nơi và tập cho trẻ thực hiện.`
Đối với giờ đón trẻ – Trả trẻ: Khi các con đã quen trường, quen lớp, quen
bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ cách chào hỏi cô giáo khi đến lớp, tạm biệt ông bà, bố mẹ,
biết “Dạ” nói “Cảm ơn” khi người lớn cho quà, sữa, bánh…
Ví dụ: Khi phụ huynh đưa trẻ đến lớp tôi ân cần chào hỏi trẻ đồng thời nhắc
trẻ biết chào cô, chào tạm biệt ông, bà bố mẹ rồi vào lớp.
Hình ảnh trong giờ đón trẻ

Từ đó dần đưa trẻ vào nề nếp học tập qua từng hoạt động học trong ngày
tạo sự hứng thú thoải mái không gây áp lực cho trẻ trong các hoạt động học. Với
nhiều hấp dẫn như: Cơ giáo đón bé trong những ngày hội ngày lễ cô cài hoa lên áo
bé hay tặng Gấu bơng, Búp bê cho bé. Có thể tổ chức các khu vực chơi gây hứng
thú cho trẻ như tô màu, nặn…
Đối với giờ học: Tôi dạy trẻ biết cách “Dạ”, “Thưa cô”, “cảm ơn”, “xin lỗi”
thông qua một số mơn học như Văn học, âm nhạc...
Ví dụ 1: Dạy trẻ một số thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát: Bé
ngoan, lời chào buổi sáng, Nu na nu nống, Thông qua bài thơ: “Miệng xinh”,
“Chào” hoặc câu truyện “Cháu chào ơng ạ” và thói quen: Đưa đồ vật bằng hai tay.
Ví dụ 2: Trong giờ học, khi cô hỏi, trẻ biết giơ tay và trả lời trọn câu, đi vệ
sinh biết xin phép cô hay đến giờ ăn các con biết xếp hàng, biết chờ đến lượt theo
sự hướng dẫn của cô giáo.
Đối với giờ chơi: Cơ hình thành cho trẻ một số thói quen khi chơi xong
phải biết dọn đồ chơi, không dành đồ chơi của bạn, không đánh bạn, nhường bạn
trong khi chơi. Cơ giáo có thể cho trẻ cùng đọc bài thơ hoặc bài hát giúp trẻ biết
thu dọn đồ chơi sau khi chơi như:
“Bạn ơi hết giờ rồi.
Nhanh tay cất đồ chơi.
Nhẹ tay thôi bạn nhé.
Cất đồ chơi đi nào!”.
Đối với giờ ăn: Cô giáo dạy trẻ trong khi ăn không được nói chuyện, khơng
được lấy tay bốc cơm hay thức ăn, khi cơm rơi các con biết nhặt vào đĩa, lau tay
bằng khăn ướt, khi ăn xong các con biết lấy khăn lau miệng, biết cầm cốc uống
14


nước. Với những trẻ biếng ăn, cơ giáo có thể chia ít hơn mức bình thường một
chút nhưng cơ sẽ nói chuyện âu yếm trẻ giúp trẻ ăn tăng dần.
Ví dụ: Cô xúc cơm cho con ăn nhé! Cơm ngon quá, Miệng của Minh Thư

rất là xinh, cái thìa thật khéo, Minh Thư đã ăn hết thìa cơm rồi...
Hình ảnh cơ cho trẻ ăn
Có thể vài ngày đầu, tơi vẫn sẽ chiều theo nhiều thói quen khơng tốt của trẻ
như: khơng ăn thịt, rau, đậu, ăn rất ít cơm. Tơi sẽ từ từ tập dần thói quen cho trẻ
đến khi trẻ quen dần. Nếu trẻ không muốn ăn hoặc muốn nơn cơ phải dừng cho trẻ
ăn vì nếu bị nơn, trẻ sẽ rất sợ thức ăn ở trường. Khi đó cô sẽ cho trẻ uống sữa
nhằm bù lại phần thức ăn cho trẻ. Vài ngày sau cho trẻ ăn tăng dần lên vài muỗng
cơm hoặc cháo, trẻ sẽ dễ thích nghi với thức ăn ở trường hơn, sau đó trẻ sẽ ăn
nhanh gọn và hết suất, không cho trẻ ăn quà vặt trước giờ ăn để tạo sự thèm ăn
cho trẻ.
Thái độ ân cần âu yếm vui vẻ của cô giáo giúp trẻ ăn ngon miệng, nhanh thích
nghi với chế độ ăn ở trường.
Đối với giờ ngủ: Trước khi đến trường mầm non, mỗi trẻ có một chế độ ngủ
khác nhau. Có trẻ chưa quen với giấc ngủ ở trường hay có trẻ khơng chịu ngủ nên
cơ giáo phải bế, dỗ trẻ để đưa trẻ dần vào giấc ngủ.
Là một giáo viên tơi ln tạo khơng khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên
trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát, dành thời gian gần
gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể giúp
trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
Nhờ sự uốn nắn kịp thời thường xun của cơ nên trẻ lớp tơi đã có thói
quen nề nếp tốt. Trẻ ăn tốt, ngủ rất ngoan như trẻ ngủ đúng giờ, ngủ sâu và cất đồ
dùng đồ chơi gọn gàng, đúng nơi quy định. Trẻ được vệ sinh sạch sẽ. Trẻ rất lễ
phép chào hỏi mọi người, giúp cho trẻ tự tin và chủ động khi đến lớp nên tỉ lệ trẻ
hứng thú đi học được nâng cao, khơng cịn tình trạng trẻ khơng muốn đi học.
2.3.6.Giải pháp 6: Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc
tạo hứng thú cho trẻ đến lớp.
Với trách nhiệm là một cô giáo, người mẹ hiền thứ hai của trẻ, tơi thường
xun theo dõi, tìm hiểu về điều kiện gia đình, mơi trường sống và nắm bắt tình
hình mọi tính cách của trẻ thơng qua việc trao đổi với phụ huynh và ở mọi hoạt
động trong ngày, tìm nguyên nhân để có giải pháp thích hợp kịp thời uốn nắn trẻ.

Từ đó đưa ra các hoạt động điều chỉnh để phù hợp với từng cá nhân trẻ.
Ví dụ: Hàng ngày, trong giờ đón trẻ - trả trẻ, tơi dành thời gian trao đổi với
phụ huynh về tình hình của trẻ ở lớp như: thói quen ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân; chơi
với bạn như thế nào?
15


Hình ảnh cơ trị chuyện ,trao đổi với phụ huynh
Tơi luôn động viên phụ huynh đưa con đi học đều để tập cho các con có
thói quen trong mọi hoạt động ở lớp và giúp phụ huynh nắm được quy định của
nhà trường, chế độ ăn, lịch sinh hoạt của trẻ. Sau đó phụ huynh sẽ tập cho trẻ sinh
hoạt ở nhà gần giống như ở lớp.
Ví dụ: Giáo viên phối hợp với phụ huynh thực hiện cho trẻ ăn sáng ở nhà
trước khi đến trường và tập cho trẻ một số thói quen trước khi ăn phải rửa tay sạch
sẽ...
Hoặc thường xuyên nói chuyện với trẻ về những điều thú vị ở trường mầm
non. Tránh dọa nạt trẻ như: Con hư bố mẹ sẽ cho con đi trường mầm non, tạo ấn
tượng không tốt cho trẻ.
Tôi động viên phụ huynh mua đồ dùng học tập thêm cho trẻ khi ở nhà như:
Sáp màu, giấy vẽ, đất nặn, các loại sách tranh để trẻ di màu, chơi với đất nặn tùy
vào sở thích của mỗi cháu. Cháu thích di màu hay vẽ gì nên để cháu vẽ, bố mẹ
hướng dẫn trẻ cầm bút di màu như thế nào cho đẹp. Hay cho trẻ hát cho bố mẹ, cả
nhà cung nghe động viên khen ngợi trẻ. Sáng mai trao đổi cùng cô giáo đưa sản
phẩm của trẻ làm được cho cô để cơ trang trí lớp. Dùng chính đồ dùng mà trẻ
mang đến cho trẻ chơi. Cho phụ huynh xem những sản phẩm của trẻ như là: Bức
tranh trẻ di màu, những chiếc vịng trẻ xâu được... Điều đó vừa tạo cho phụ huynh
sự tin tưởng ở cô giáo vừa tạo cho trẻ sự thoải mái, thích thú và muốn đi học của
trẻ.
Hiện nay do đặc thù công việc của phụ huynh nên nhu cầu gửi con đến
trường mầm non ngày một tăng, điều kiện sinh hoạt ngày một cải thiện, hầu hết

các phụ huynh đều có điện thoại di động. Do đó bản thân ln chú trọng việc trao
đổi với phụ huynh trực tiếp vào các giờ đón – trả trẻ hoặc qua tin nhắn điện thoại,
thành lập nhóm Zalo, Fabook để tiện quan tâm và tìm hiểu tâm lí trẻ, tạo lịng tin
với phụ huynh.
Từ đó, tơi xây dựng mối quan hệ giữa phụ huynh và giáo viên, tạo khoảng
cách gần gũi, niềm nở với phụ huynh. Như vậy, mối quan hệ giữa giáo viên và phụ
huynh là mối quan hệ có tính hỗ trợ và gắn bó chặt chẽ để mang lại hiệu quả giáo
dục tốt nhất cho trẻ. Để làm được điều đó, trước hết, giáo viên chúng tôi phải là
những người chủ động và thực sự khéo léo, tận tụy trong việc gắn kết phụ huynh
với giáo viên và nhà trường.
Thơng qua việc tìm hiểu điều kiện môi trường sống của trẻ, tôi cũng hiểu
được mong muốn của phụ huynh khi cho con đi học. Ngoài việc gửi con đến lớp
để phụ huynh có thời gian yên tâm với công việc mà phụ huynh mong muốn các
con đi học để được hòa đồng với các bạn cùng trang lứa, giúp các con mạnh dạn
tự tin khi giao tiếp và có nề nếp tốt trong sinh hoạt. Chính vì lí do đó mà tơi
thường xun trao đổi về tình hình của trẻ ở lớp và hỏi thăm phụ huynh về tình
16


hình của trẻ khi ở nhà để tiện việc chăm sóc giáo dục trẻ, tạo được lịng tin với
phụ huynh. Nhờ vậy mà tôi cũng nhận được rất nhiều sự chia sẻ, cảm thông của
các bậc phụ huynh, làm cho phụ huynh có niềm tin vào cơ giáo để gửi con đến
trường, đến lớp và sự khuyến khích của phụ huynh khiến cho các con tự tin và
ham thích đến trường, đến lớp ngày càng thường xuyên hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau một năm học thực hiện “Một số giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng
D2 hứng thú đến lớp” tại trường mầm non năm học 2021 – 2022” bản thân đã
nhận thấy rằng:
Để có được kết quả như trên bản thân tơi ln dành thời gian học hỏi để
nâng cao trình độ chuyên mơn, linh hoạt, sáng tạo trong việc lồng ghép trị chơi

trong các hoạt động chăm sóc giáo dục cho trẻ. Nắm chắc tâm lí của từng trẻ, tạo
được niềm tin với phụ huynh học sinh. Phụ huynh đã thấy được tầm quan trọng
của việc giúp trẻ ham thích đến lớp để trẻ được thỏa thích vui chơi học tập, hịa
đồng cùng bạn. Tơi ln quan tâm và thường xun trị chuyện trao đổi tình hình
của con ở lớp và ở nhà để phối hợp với các cô, giáo dục con phát triển một cách
tồn diện hơn. Trẻ đã có sự chuyển biến rõ rệt, có khả năng giao tiếp tốt hơn,
mạnh dạn, thích được đi học. Trẻ biết thể hiện tình cảm, nhu cầu bản thân với cơ,
với bạn và mọi người xung quanh. kết quả được thể hiện qua biểu khảo sát sau:
*Biểu 2.
STT

1

2

3

Nội dung

Sự hào hứng của
trẻ khi được bố
mẹ đưa đến lớp.
Ngoan ngỗn vui
tươi khi được cơ
đón từ tay người
thân trong giờ đón
trẻ.
Trẻ vui tươi khi
được gặp các bạn
trong lớp.


Kết quả trước khi áp dụng
sáng kiến.
Đạt
Chưa đạt
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số trẻ
%
trẻ
%

Kết quả sau khi áp dụng sáng
kiến.
Đạt
Chưa đạt
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số trẻ
%
trẻ
%

22

13/22

59%


9/22

41%

22/22

100%

0

0

22

14/22

64%

8/22

36%

22/22

100%

0

0


22

14/22

64%

8/22

36%

22/22

100%

0

0

Số
trẻ
khảo
sát

Qua kết quả khảo sát trên đây, bản thân nhận thấy đã có sự tiến bộ rõ rệt.
Trẻ hứng thú đến trường, đến lớp. Trẻ có khả năng giao tiếp mạnh dạn hơn, biết
thể hiện tình cảm giao lưu giữa bạn bè, cô giáo và luôn được sự đồng hành và tin
yêu của tất cả các bậc phụ huynh.
Bản thân mong rằng đề tài “Một số giải pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng D2
hứng thú đến lớp tại trường Mầm non năm học 2021 -2022” tiếp tục được vận

17


dụng tại đơn vị và mở rộng đến các đơn vị bạn trong huyện để giúp trẻ hứng thú
đến lớp cho trẻ trong trường Mầm non nói riêng đạt kết quả ngày càng cao.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua nghiên cứu áp dụng sáng kiến “Một số giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 – 36
tháng D2 hứng thú đến lớp tại trường Mầm non Năm học 2021 - 2022” vào thực
tiễn việc chăm sóc giáo dục trẻ đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
Trước tiên giáo viên cần phải tạo niềm tin, sự an tâm cho trẻ ở mọi hoạt
động, mọi lúc mọi nơi. Sau đó giáo viên phải biết tạo môi trường đẹp, hấp dẫn, thu
hút trẻ, rèn luyện cho trẻ một số nề nếp, thói quen cơ bản phù hợp với lứa tuổi,
động viên khuyến khích trẻ kịp thời. Bên cạnh đó giáo viên ln ln coi trẻ như
con ruột của mình phải tạo được sự tin yêu của trẻ như cha mẹ trẻ ở nhà và cuối
cùng là phải có biện pháp phối hợp với phụ huynh trong việc giúp trẻ hứng thú
trong mọi hoạt động.
Muốn thực hiện tốt được điều này đòi hỏi giáo viên phải hiểu rõ tâm lý trẻ,
nhất là trẻ nhà trẻ. Luôn nghiên cứu kĩ các phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ
trong q trình đứng lớp. Chính vì vậy trẻ đã có những tiến bộ rõ rệt như: Năng
động, mạnh dạn, tự tin và ngoan ngoãn hơn. Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động
của lớp và ham thích đến lớp nên tỉ lệ chuyên cần đạt kết quả cao hơn.
Giáo viên khéo léo sáng tạo để làm ra những đồ dùng, đồ chơi từ nguyên
vật liệu phế thải; sưu tầm được nhiều đồ dùng đồ chơi tạo môi trường lớp học hấp
dẫn cho trẻ. Những đồ chơi tự tạo ngỗ nghĩnh đáng yêu, màu sắc đẹp, gần gũi đã
làm cho trẻ thích thú muốn được chơi, hoạt động với chúng. Kích thích được sự tị
mị, khám phá của trẻ, làm trẻ chú ý, tham gia tích cực các hoạt động và ham thích
đến lớp để chơi với những đồ chơi đó.
Tạo sự gần gũi với trẻ và đặt lòng yêu quý trẻ lên hàng đầu đã mang lại hiệu
quả thiết thực cho cô và trẻ. Cô thực sự là bạn của trẻ, trẻ đến lớp thấy thích thú

hơn, có cảm tình với cơ và các bạn, mạnh dạn tự tin tham gia các hoạt động ở lớp.
Dạy trẻ có một số nề nếp thói quen cơ bản phù hợp với lứa tuổi.
Luôn học hỏi và nâng cao trình độ chun mơn và cách giải quyết tình
huống sư phạm. Ln động viên, khuyến khích, tun dương trẻ kịp thời. Giúp trẻ
mạnh dạn, tự tin, hòa đồng cùng cô và các bạn, tạo điều kiện cho trẻ hứng thú đến
lớp. Tuyên truyền phối hợp với phụ huynh về giải pháp giúp trẻ hứng thú đến lớp.
Được sự tin yêu của phụ huynh, số trẻ đến lớp ngày càng tăng.
3.2. Kiến nghị:
18


Để giúp cho quá trình thực hiện tốt giải pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 -36 tháng
tuổi D2 hứng thú đi đến lớp tại trường mầm non Năm học 2021 -2022 đạt kết quả
tốt hơn nữa. Bản thân tôi xin có một số kiến nghị đề xuất như sau:
* Đối với nhà trường:
Đề nghị ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên được thăm lớp
dự giờ nhiều hơn để giáo viên học hỏi vận dụng kiến thức kinh nghiệm vào thực tế
giúp trẻ hứng thú đi học.
Tham mưu với nhà trường mua sắm thêm đồ dùng đồ chơi ngoài trời đẹp đa
dạng để trẻ húng thú đến trường.
* Đối với phòng giáo dục:
Tổ chức nhiều buổi tập huấn có sự đầu tư và chất lượng cao cho giáo viên
trong Huyện học hỏi lẫn nhau.
Trên đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi viết về “Một số giải pháp
giúp trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng D2 hứng thú đến lớp” tại trường mầm non năm
học 2021 - 2022”.Tơi rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, các bạn
đồng nghiệp để đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tơi được hồn chỉnh hơn, đáp
ứng yêu cầu của ngành và sự mong đợi của phụ huynh.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thọ Xuân, ngày 03 tháng 6 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác
Người viết SKKN

Ngọc Thị Hải

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


[1]. Hồ Chí Minh về vấn đề Giáo dục, NXB Giáo dục, 1990.
[2]. />[3]. Trung tâm học liệu đại học thái nguyên http: ww.lrp tlu.edu.vn.vn9.
[4]. Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện câu đố cho trẻ 24 - 36 tháng.
[5]. Tham khảo trên nguồn internet.
[6]. Tham khảo đồng nghiệp.

20



×