Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

ĐỀ TÀI LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ đề XUẤT CÁC PHƯƠNG THỨC để BẢO VỆ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÔNG DÂN KHI THAM GIA CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.79 KB, 10 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KIỂM TOÁN
------------------*------------------

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ ĐỀ
XUẤT CÁC PHƯƠNG THỨC ĐỂ BẢO VỆ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA CƠNG DÂN KHI THAM GIA CÁC HOẠT
ĐỘNG KINH TẾ XÃ HỘI

Sinh viên thực hiện
Khóa
Lớp
Mã sinh viên

: Lê Thu Hằng
: 63
: 13
:11212047


I. Mở đầu
Để tồn tại, phát triển, con người cần được thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng
như nhu cầu tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu cầu của
mình. Lợi ích có thể là lợi ích vật chất, có thể là lợi ích tinh thần. Trong mỗi điều
kiện lịch sử, tuỳ từng bối cảnh mà vai trò quyết định đối với hoạt động của con
người là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Nhưng xuyên suốt quá trình tồn tại
của con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng vai trị quyết định thúc
đẩy hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã hội. Lợi ích kinh tế là lợi ích
vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế của con người.


Cơ sở, nền tảng của lợi ích kinh tế xuất phát từ sự thể chế hóa về quyền sở hữu
đối với vốn, tài sản, trí tuệ nói riêng và với tài sản (hữu hình và vơ hình) nói chung.
Đây là cơ sở của mọi quan hệ, liên hệ, giao dịch và lợi ích kinh tế của các chủ thể
tham gia thị trường, nó định dạng cơ sở của trị chơi, luật chơi của kinh tế thị trường.
Mặt khác kinh tế thị trường được xác lập trên nền tảng quan hệ giá trị mà biểu hiện
của nó là quan hệ hàng hóa - tiền tệ, đằng sau quan hệ này chính là các chủ thể kinh
tế sở hữu hàng hóa, tài sản hay vốn. Vì vậy có thể nói lợi ích kinh tế gắn liền với lợi
ích chung của các cá nhân và chỉnh thể trong nền kinh tế thị trường.
Lợi ích kinh tế là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của từng cá nhân
nói riêng và tồn xã hội nói chung. Tuy nhiên trên thực tế, khi tham gia vào các hoạt
động kinh tế, xã hội, nhiều người lại chưa có đủ khả năng nhận biết hoặt hiểu biết
vẫn còn sơ sài về khái niệm lợi ích kinh tế và những lợi ích hợp pháp của bản thân,
từ đó đánh mất cơ hội được hưởng quyền lợi chính đáng. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu các biện pháp nhằm bảo vệ lợi ích của người tham gia vào nền kinh tế thị trường
đang là một nhu cầu rất cấp thiết của xã hội.
Để làm rõ mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế của từng chủ thể trong xã hội với
lợi ích lâu dài chung của tồn xã hội, cũng như để đóng góp những đề xuất nhằm
giúp người đọc có định hướng rõ ràng hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích kinh
tế chính đáng của bản thân khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, em đã quyết
định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Lý luận chung về lợi ích kinh tế và đề xuất các
phương thức để bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia các hoạt động
kinh tế, xã hội”.


II. Thân bài
1. Lí luận chung về lợi ích kinh tế:
1.1.

Tính chất, bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế


Tính chất của lợi ích kinh tế phản ánh quan hệ xã hội giữa các thành viên
trong xã hội với nhau thông qua hoạt động kinh tế. Do vậy, lợi ích kinh tế mang tính
chất khách quan. Những nhu cầu kinh tế của con người khi được xác định về mặt xã
hội thì nó trở thành cơ sở của lợi ích kinh tế. Nghĩa là nhu cầu đó phải đặt trong mối
quan hệ với trình độ phát triển, bối cảnh cụ thể của xã hội. Các cá nhân không thể
thụ hưởng lợi ích vượt quá khả năng mà xã hội có thể đáp ứng cũng như đóng góp
của cá nhân đó vào các quan hệ kinh tế -xã hội trong điều kiện lịch sử nhất định. Vì
vậy, khẳng định lợi ích kinh tế là sự thỏa mãn nhu cầu kinh tế của con người nhưng
khơng có nghĩa là nó mang tính chủ quan. Trái lại, sự thỏa mãn nhu cầu đó phải
được quyết định bởi các điều kiện, trình độ phát triển của xã hội, lợi ích kinh tế do
đó, mang tính khách quan.
Bản chất lợi ích kinh tế là biểu hiện ra bền mặt xã hội của các quan hệ lợi ích.
Nghĩa là lợi ích phản ánh bản chất quan hệ kinh tế. Các thành viên trong xã hội xác
lập các quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh
tế mà họ có thể có được. Về khía cạnh này, Ph. Ănghen viết: “những quan hệ kinh
tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thái lợi ích”1. Các
quan hệ xã hội ln mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn
cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
Biểu hiện của lợi ích kinh tế gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những
lợi ích tương ứng: chủ doanh nghiệp thì lợi ích trước hết là lợi nhuận, người lao
động trước hết lợi ích kinh tế là tiền cơng. Tất nhiên, với mỗi cá nhân con người,
trong các mối quan hệ xã hội tổng hợp gắn với con người đó, mặc dù có khi thực
hiện hoạt động kinh tế, trong nhất thời, khơng phải ln đặt mục tiêu lợi ích vật chất
lên hàng đầu. Song, về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế
là lợi ích quyết định. Nếu khơng thấy được vai trị này của lợi ích kinh tế sẽ làm suy
giảm động lực hoạt động của các cá nhân. Nghiên cứu về sự phân phối giá trị thặng
dư trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cho ta thấy, mỗi chủ thể tham gia vào q
trình phân phối giá trị thặng dư đó, với vai trị của mình mà có được những lợi ích
tương ứng. Đây chính là nguyên tắc đảm bảo lợi ích phù hợp với vai trò của các chủ
thể.

1.2.

Vai trò của lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường

Lợi ích kinh tế là mục tiêu của các hoạt động kinh tế: Con người tiến hành
các hoạt động kinh tế trước hết là để thỏa mãn các nhu cầu vật chất, nâng cao phương
thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của mình. Trong nền kinh tế thị
trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất tùy thuộc vào mức
thu nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu
cầu vật chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để nâng cao


thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội, đặc biệt của
người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội, vừa là biểu hiện
của sự phát triển. “Nước độc lập mà dân không được hưởng ấm no, hạnh phúc thì
độc lập cũng khơng có ý nghĩa gì”2.
Lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động kinh tế : Về khía cạnh kinh tế,
tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết vì lợi ích chính đáng của mình.
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất trước hết phụ thuộc vào số
lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ mà xã hội có được. Mà tất cả các nhân tố đó
lại là sản phẩm của nền kinh tế và phụ thuộc vào quy mơ và trình độ phát triển của
nó. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã đóng góp
vào sự phát triển của nền kinh tế. Vì lợi ích chính đáng của mình, người lao động
phải tích cực lao động sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến cơng cụ lao động; chủ
doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp ứng các
nhu cầu, thị hiếu của khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi
mẫu mã, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phục vụ người tiêu dùng... Tất cả
những điều đó đều có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
nền kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
Lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động xã hội: Phương thức và mức độ

thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc địa vị của con người trong hệ thống
quan hệ sản xuất xã hội nên để thực hiện được lợi ích của mình các chủ thể kinh tế
phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ đối với tư liệu sản xuất. Đó là
cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong lịch sử - một động
lực quan trọng của tiến bộ xã hội. “Động lực của toàn bộ lịch sử chính là cuộc đấu
tranh của các giai cấp và những xung đột về quyền lợi của họ” và “nguồn gốc vấn
đề trước hết là những lợi ích kinh tế mà quyền lực chính trị phải phục vụ với tư cách
phương tiện”3. Như vậy, mọi vận động của lịch sử, dù dưới hình thức như thế nào,
xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế cịn là cơ sở thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích
văn hóa: Ngun nhân quan trọng là đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần;
kinh tế quyết định chính trị, văn hóa - xã hội. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo
điều kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi
ích văn hóa của các chủ thể xã hội.
Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển
kinh tế - xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: “Cội nguồn phát triển của xã hội không phải là
quá trình nhận thức, mà là các quan hệ của đời sống vật chất, tức là các lợi ích kinh
tế của con người”4. Điều cần lưu ý là, chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa các
lợi ích kinh tế thì lợi ích kinh tế mới thực hiện được vai trị của mình. Ngược lại,
việc theo đuổi những lợi ích kinh tế khơng chính đáng, khơng hợp lý, khơng hợp
pháp sẽ trở thành trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

2
3
4

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2000, tr.56.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, Tập 4, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội – tr.410.
C.Mác: Phê phán kinh tế chính trị. C.Mác-Ăngghen, Tồn tập, tập 13. Tiếng Nga. NXB Tiến bộ. Tr. 5,6.



Ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài, vì rất nhiều lý do, các lợi ích kinh tế,
nhất là lợi ích cá nhân, khơng được chú ý đúng mức. Hiện nay, trong điều kiện cơ
chế thị trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: coi lợi ích kinh tế là động
lực của các hoạt động kinh tế; phải tơn trọng lợi ích cá nhân chính đáng. Điều này
góp phần tạo động lực cho sự phát triển đất nước ta trong những năm vừa qua.
2. Thực tiễn tình hình bảo đảm lợi ích kinh tế tại Việt Nam
2.1. Quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con
người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp
thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần còn
lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của một
giai đoạn phát triển xã hội nhất định.
Các quan hệ lợi ích có thể thống nhất, có thể mâu thuẫn với nhau, mâu
thuẫn xảy ra khi việc thực hiện lợi ích này có thể sẽ ngăn cản, thậm chí làm tổn hại
đến các lợi ích khác. Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế là cội nguồn của các xung đột xã
hội. Do vậy, điều hoà mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế buộc các chủ thể phải quan
tâm và trở thành chức năng quan trọng của nhà nước nhằm ổn định xã hội, tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội.
2.2.

Thực tiễn tại Việt Nam

Có thể thấy, trong một nền kinh tế mở đa thành phần như ở Việt Nam hiện
nay, khi mọi đối tượng trong nền kinh tế đều lao động, sản xuất và kinh doanh với
mục tiêu tối đa hóa lợi ích thì nhưng mâu thuẫn về lợi ích kinh tế là khơng thể tránh
khỏi. Đó có thể là mâu thuẫn về lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với
doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng TP.HCM Phan Thị Việt Thu

cho biết: Trong năm 2020, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng TP đã tiếp nhận
hơn 200 vụ khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến nhiều lĩnh vực. Hiện nay
người tiêu dùng thường bị lừa gạt mua hàng qua điện thoại với giá cao để nhận quà
khuyến mãi không có thật; mua hàng giả qua Facebook… cơng tác thực thi pháp
luật và xử lý vi phạm vẫn còn nhiều khó khăn, hành vi xâm phạm xảy ra trên nhiều
lĩnh vực như: hàng hóa tiêu dùng, đất đai, tài chính, kinh tế… do các quy định hiện
hành phù hợp với các giao dịch truyền thống. Bên cạnh đó, tính chủ động trong thực
thi pháp luật của các doanh nghiệp còn chưa cao; một số doanh nghiệp có tâm lý lo
sợ mất thị trường; các quy định của pháp luật cũng còn chồng chéo…
Trong mối quan hệ với người sử dụng lao động, người lao động luôn ở vị trị
yếu thế hơn, có sự phụ thuộc và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao
động. Biểu hiện thường thấy nhất của việc của việc người lao động bị xâm phạm về
lợi ích kinh tế là các trường hợp nợ lương, trễ lương trong thời gian dài, chậm đóng
BHYT và các chi phí phúc lợi xã hội khác dành cho công nhân và người lao động.
Môi trường lao động không đảm bảo hoặc mức lương được trả thấp hơn mức thỏa


thuận cũng là những trường hợp quyền lợi của người lao động đang bị xâm phạm.
Tháng 1/2022, hàng chục y bác sĩ bệnh viện Tuệ Tĩnh (Học viện Y dược học cổ
truyền Việt Nam) đã cầm băng rôn đứng rước cổng bệnh viện yêu cầu được chi trả
lương. Tình trạng nợ lương kéo dài suốt 8 tháng đã khiến cho cuộc sống của các y
bác sĩ vơ cùng khó khăn.
Đối với các doanh nghiệp, khi có xung đột lợi ích xảy ra, doanh nghiệp thường
tìm đến các chiến lược nhằm tự bảo vệ lợi ích và chiếm ưu thế trước đối thủ cạnh
tranh. Đơi khi, hành vi này có thể dẫn tới sự cạnh tranh không lành mạnh trong kinh
doanh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Một số hành vi cạnh
tranh không lành mạnh đã từng xuất hiện tại Việt Nam bao gồm có: chỉ dẫn gây

nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, gây rối hoạt
động kinh doanh của người khác, quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh khơng lành
mạnh.
2.3.

Những biện pháp của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế cho
cơng dân

Lợi ích lớn nhất của xã hội (hay đất nước, quốc gia) là phát triển. Khi lợi ích xã hội
được thực hiện có nghĩa là đất nước phát triển. Đó là cơ sở, tiền đề để thực hiện các lợi
ích khác. Vì vậy, chăm lo và bảo vệ lợi ích đất nước là nghĩa vụ của mọi công dân, của
mọi chủ thể kinh tế và của nhà nước.
Hiện nay, nhà nước đang tích cực đầu tư tạo lập mơi trường thuận lợi cho các
hoạt động kinh tế, xây dựng được mơi trường pháp luật thơng thống, bảo vệ được
lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế trong và ngồi nước, đặc biệt là lợi ích
của đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp
luật của mỗi quốc gia còn phải tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Trong
những năm vừa qua, hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang thay đổi tích cực.
Tạo lập mơi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đi đôi với đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng của nền kinh tế (bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông,
đường hàng không…; hệ thống cầu cống; hệ thống điện, nước; hệ thống thông tin
liên lạc…). Nhờ phát triển kết cấu hạ tầng được coi là một trong ba đột phá lớn,
trong những năm vừa qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được cải thiện
rất đáng kể, đáp ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế. Môi trường vĩ mô về kinh
tế địi hỏi nhà nước phải đưa ra được các chính sách phù hợp với nhu cầu của nền
kinh tế trong từng giai đoạn. Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam
đang từng bước đáp ứng yêu cầu này.
Để nâng cao chất lượng nguồn lao động, tạo điều kiện cho công dân được
phát huy hết khả năng, nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách xố đói giảm nghèo,
tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các

dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thốt đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các
bộ phận dân cư nghèo, khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại. Chú trọng các chính sách


ưu đãi xã hội, vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống
nước nhớ nguồn. Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ người nghèo,
đồng bào các vùng gặp thiên tai... Cùng với đó là các chính sách khuyến khích người
dân làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện và giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp. Về nguyên
tắc, người dân được làm tất cả những gì luật pháp khơng cấm; luật pháp chỉ cấm
những hoạt động gây tổn hại lợi ích quốc gia và các lợi ích hợp pháp khác.
3. Đề xuất một số phương thức để bào vệ lợi ích hợp pháp của công dân
khi tham gia các hoạt động kinh tế xã hội
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang ngày một cởi mở, các rào cản thương mại
dần được dỡ bỏ, các thủ tục kinh doanh được tối giản hoặc lược bỏ đồng nghĩa với
việc người dân được tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội một cách tự do
hơn. Đặc biệt là trong nền kinh tế số với sự xuất hiện của thương mại điện tử và
các hoạt động giao dịch hoàn toàn bằng máy tính, tuy nhiên, cơ hội cũng đi đơi với
thách thức và nguy cơ. Cả người tiêu dùng lẫn người kinh doanh đều có khả năng
phải chịu thiệt hại về lợi ích kinh tế nếu như khơng có đủ kiến thức về lĩnh vực
này cũng như chưa có những biện pháp xử lý chu đáo và kịp thời. Chính vì lí do
đó, em xin phép đề xuất một số ý kiến với tư cách là công dân nhằm bảo vệ quyển
và lợi ích hợp pháp của cơng dân khi tham gia vào thị trường
- Một là, đề xuất sửa đổi, bổ sung nội dung chính sách, pháp luật, cơ chế,
quy định liên quan đến quyền, lợi ích của người lao động, người tiêu dùng
và các đối tượng dễ chịu ảnh hưởng.
Đây là giải pháp mang tính then chốt nhằm mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động tương xứng với mức độ lao động,
cống hiến, đóng góp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN. Theo đó, phải tiến hành sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong Bộ
luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Cơng đồn, Luật Đầu tư nước ngoài

tại Việt Nam, Luật Bảo hiểm…, ban hành bổ sung những điều luật, luật và
những quy định có tính pháp lý liên quan đến quyền và lợi ích của cơng dân.
- Hai là, phát huy vai trị của chính quyền địa phương và các cơ quan chức
năng trong tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở chính sách, pháp luật, cơ chế của Nhà nước đối với GCCN, chính
quyền địa phương các cấp phải chủ động, linh hoạt, sáng tạo đề ra những quyết
sách cụ thể phù hợp với đặc điểm, điều kiện của địa phương mình, nhằm thu hút
đầu tư, phát triển công nghiệp; đồng thời, bảo đảm việc làm, tiền lương, thu
nhập và các lợi ích vật chất, tinh thần khác của công nhân; bảo vệ quyền làm chủ
của công nhân trên các phương diện đời sống xã hội.
- Ba là, phát huy và nâng cao vai trò của cơng đồn và các tổ chức đại diện
khác chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng dân.
Chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của công nhân là chức năng chủ yếu của tổ
chức công đồn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mục đích cơng đồn là
phải cải thiện đời sống cơng nhân, nâng cao đời sống vật chất, văn hố của
cơng nhân nói riêng và nhân dân nói chung”(4). Người cịn nhắc nhở cán bộ


cơng đồn phải tùy khả năng cộng với cố gắng mà nâng cao đời sống vật
chất, trình độ văn hóa, kỹ thuật, bảo vệ sức khỏe, an toàn lao động và cơng
tác vệ sinh cho cơng nhân. Cơng đồn phải hướng về cơ sở, lấy giải quyết lợi
ích ở cơ sở doanh nghiệp làm mục đích hoạt động chủ yếu. Cơng đồn phải
nắm chắc và dựa trên luật pháp làm cơng cụ chủ yếu; đồng thời, phối hợp với
các đồn thể chính trị - xã hội khác của cơng nhân để thương thuyết, hòa giải,
khuyến nghị cùng với người sử dụng lao động chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần và đấu tranh bảo vệ quyền làm chủ của công nhân. Theo đó, phải “Đổi
mới tổ chức và hoạt động của cơng đồn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu
cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế. Tập trung làm
tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
nhân, tập thể công nhân. Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của

các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngồi tổ chức cơng đồn
hiện nay”.
- Bốn là, phát huy vai trị, trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với người
lao động
Trên cơ sở thượng tơn luật pháp, chính sách, cơ chế, quy định của Nhà nước,
hoạt động của chủ doanh nghiệp phải hướng đến mục tiêu: xây dựng quan hệ
lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Đồng thời, khơi dậy tinh thần nhân văn, nhân đạo của chủ doanh nghiệp, nhất
là các doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi. Tổng Liên đồn Lao động Việt
Nam và các bộ, ngành liên quan, chính quyền địa phương có sự phối hợp
đồng bộ xây dựng chương trình, kế hoạch và thực hiện có hiệu quả hoạt động
này.
- Người lao động là đối tượng được chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng; đồng thời, họ là chủ thể trực tiếp quyết định đến hiệu quả của
hoạt động này. Trong cơ chế thị trường, công nhân dù lao động trong loại
hình doanh nghiệp nào cũng phải lao động tích cực, tự giác, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả mới thụ hưởng lợi ích tương xứng. Địi hỏi, cơng nhân
phải phát huy tính tích cực, tự giác trên cả hai phương diện nhận thức và hoạt
động thực tiễn.


III. Kết bài
Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người (hình thái cơng xã ngun thủy), mọi hoạt
động sản xuất xã hội đều mang tính tự cung tự cấp. Nhu cầu của con người thời đó
bị gói gọn trong một giới hạn nhất định, do sự hạn chế của lực lượng sản xuất. Chỉ
đến khi lực lượng sản xuất dần phát triển và đạt được những thành tựu nhất định,
nhu cầu của con người mới được đáp ứng ngày càng nhiều hơn. Chính sự phát triển
của lực lượng sản xuất cũng là nhân tố dẫn đến đến sự thay đổi hình thái kinh tế, từ
nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa, và phát triển nhất chính là
nền kinh tế thị trường.

Để phát huy được tối đa tiềm năng của nền kinh tế thị trường, đảm bảo không chỉ
tạo ra của cải vật chất phục vụ xã hội mà còn tạo ra đủ lợi ích để làm động lực thúc
đẩy xã hội phát triển, việc nghiên cứu về bản chất, vai trò và mối quan hệ giữa các
quan hệ lợi ích kinh tế là hoàn toàn cần thết. Mỗi cá nhân cần ý thức được thế nào
là quyền lợi hợp pháp và khi nào xảy ra xung đột mâu thuẫn quyền lợi để có thể
tìm ra hướng giải quyết chung, đồng thời tránh làm đánh mất những quyền lợi mà
mình xứng đáng được hưởng.
Đồng thời, việc nghiên cứu đưa ra các biện pháp giúp bảo vệ lợi ích kinh tế nhân
dân cũng giúp nâng cao ý thức xã hội về việc xâm phạm quyền lợi của người khác,
chuẩn bị tốt cho các tình huống khi quyền lợi bị xâm phạm, nếu cần thiết có thể
nhờ đến sự can thiệp của nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, việc vận dụng những lý luận đó khơng hề dễ dàng. Nó địi hỏi các nhà
hoạch định và điều hành chính sách cần phải nghiên cứu kỹ càng, phát hiện ra
những hạn chế và ưu điểm của biện pháp, từ đó vận dụng chính sách đúng thời
điểm và phù hợp với giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế nước nhà.


Danh mục tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (2020), NXB Chính trị quốc gia sự thật
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua ba mươi năm đổi mới (1986 -2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 về
“Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
4. Đảng Cộng sản Việt nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. />


×