Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

AJC chu nghia xa hoi khoa hoc cuong linh dan toc cua chu nghia mac lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.29 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
–––––––––––––––––––––––––––––––––

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng
trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam
hiện nay

Sinh viên:
Mã số sinh viên:
Lớp

Hà Nội, tháng năm
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………..………3
Tính tất yếu của đề tài ....................................................................................................... 3
Khái niệm dân tộc ............................................................................................................ 3
NỘI DUNG
1. Dân tộc và xu hướng phát triển, hình thành của dân tộc ....................................... 5
1.1. Khái niệm dân tộc .................................................................................................. 5
1.1.1.

Dân tộc - tộc người ...................................................................................... 5

1.1.2.



Quốc gia dân tộc (QGDT) ........................................................................... 7

1.2. Xu hướng cơ bản của quá trình phát triển, hình thành dân tộc .............................. 9
1.2.1.

Xu hướng liên kết các dân tộc ..................................................................... 9

1.2.2.

Xu hướng phân lập của các dân tộc ............................................................. 9

2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng trong thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.......................................... 10
2.1. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin ................................................... 10
2.2. Sự vận dụng trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam hiện
nay 12
2.2.1.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác- Lênin và vận dụng vào thực tiễn đất nước ....................................................... 12
2.2.2.

Nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam ............... 14

KẾT THÚC…………………………………………………………17

2


MỞ ĐẦU

Tính tất yếu của đề tài
Khái niệm dân tộc
-

Theo nghĩa dân tộc, tộc người

Theo nghĩa thông thường, khái niệm dân tộc để chỉ một tộc người (ethnic) có chung
ngơn ngữ, lịch sử – nguồn gốc, đời sống văn hoá và ý thức tự giác dân tộc, bao gồm bốn
điểm chung lớn nhất:
– Chung một ngơn ngữ (tiếng nói)
– Chung một lịch sử nguồn gốc
– Chung một đời sống văn hóa
– Cùng tự nhận mình là dân tộc đó (ý thức tự giác chung về dân tộc)
-

Theo nghĩa quốc gia dân tộc (QGDT)

Theo nghĩa rộng, quốc gia dân tộc (nation) chỉ cộng đồng người cùng sinh sống trong
một quốc gia, một đất nước.
Việt Nam là một trong những quốc gia có số lượng dân tộc lớn trên thế giới, số lượng
lớn dân tộc như trên là kết quả của hành trình dài của lịch sử. Trong 54 dân tộc anh em,
dân tộc Kinh chiếm 1 tỷ lệ cao nhất (85,7%). Về cơ bản, đặc điểm các dân tộc Việt Nam
được thể hiện qua các mục sau đây:
– Có truyền thống đoàn kết tương thân tương ái
– Cư trú xen kẽ nhau rải khắp mọi miền Tổ quốc
– Các dân tộc thiểu số ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, biên giới,
có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ biên giới quốc gia
– Có trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đều nhau
– Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc anh
em có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng

– Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo khác

Khái niệm dân tộc cần được hiểu theo hai góc độ, dân tộc là dân tộc, tộc người, hiểu
theo nghĩa rộng là cư dân của một quốc gia. Hai vấn đề tuy không giống nhau nhưng có
3


liên quan mật thiết với nhau. Khi nói đến dân tộc Việt Nam khơng thể khơng nói đến 54
dân tộc (tộc người) đang sinh sống ở nước ta hoặc ngược lại, khi nói đến các dân tộc ở Việt
Nam khơng thể khơng nói đến cộng đồng người Việt Nam.
Với tính cách là bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác-Lênin và dựa trên các nguyên tắc
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa xã hội khoa học tiếp cận nghiên cứu dân tộc chủ
yếu với tính cách là một QGDT, trong đó bao gồm một hay nhiều dân tộc - tộc người hợp
thành được hình thành, phát triển trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Vấn đề dân tộc ln có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị – xã hội của mỗi quốc
gia có một hay nhiều tộc người, cả trong lịch sử và trong thế giới hiện đại. Nó có thể gây
ảnh hưởng đến sự ổn định, tồn tại và phát triển của nhà nước, thể chế chính trị ở quốc gia
đó nếu khơng được giải quyết đúng đắn.
Là một đất nước đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên mọi miền của Tổ
quốc, các vấn đề về dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng, dành sự quan tâm
đúng mực với tầm quan trọng của nó, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập quốc tế vấn đề này
càng được chú trọng.
Trên đây là những khái niệm cơ bản nhất của dân tộc, ở phần sau em sẽ đi chi tiết hơn
vào từng nghĩa của dân tộc.

4


NỘI DUNG

1. Dân tộc và xu hướng phát triển, hình thành của dân tộc
1.1. Khái niệm dân tộc
Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất
hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ
tộc. Với tính cách là một cộng đồng người to lớn, tương đối ổn định, được hình thành trong
một quá trình lịch sử lâu dài, dân tộc là khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội
khác nhau. Mỗi một khoa học, do có sự khác biệt của đối tượng nghiên cứu, sẽ tiếp cận
nghiên cứu khách thể ấy theo những tiêu chí cụ thể xác định và đặc thù. Với tính cách là
một chuyên ngành triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học tiếp cận nghiên cứu dân tộc đồng
thời theo hai hướng tiếp cận có quan hệ hữu cơ với nhau: tiếp cận dân tộc với nghĩa là dân
tộc - tộc người (ethnic) và tiếp cận dân tộc với nghĩa là quốc gia dân tộc (nation).

1.1.1. Dân tộc - tộc người
Dân tộc - tộc người là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng mang tính tộc người, được
hình thành và phát triển trong một quá trình lịch sử lâu dài, thường thì có chung một tên
gọi, một ngơn ngữ (trừ trường hợp cá biệt), được liên kết với nhau bởi những giá trị sinh
hoạt văn hóa tinh thần tạo thành một ý thức văn hóa tộc người, có chung một đời sống văn
hóa tinh thần (phong tục tập quán, lối sống, tín ngưỡng...). Cộng đồng người cấu thành một
dân tộc - tộc người có thể sinh sống trong một hay nhiều vùng khác nhau, thuộc lãnh thổ
của một hay một số quốc gia dân tộc khác nhau. Dân tộc, tộc người có những đặc trưng cơ
bản sau:

-

Có chung ngơn ngữ

Ngơn ngữ là tiêu chí cơ bản đế phân biệt các dân tộc - tộc người khác nhau (bao gồm
ngơn ngữ nói, ngơn ngữ viết, hoặc chỉ riêng ngơn ngữ nói). Như một nguyên tắc, ngôn ngữ
là phương tiện giao tiếp và gắn kết tất cả các thành viên trong một tộc người thống nhất,
nhờ có ngơn ngữ mà văn hóa tộc người được bảo tồn và phát triển. Tuy nhiên, điều đó

khơng có nghĩa trên thế giới có bao nhiêu ngơn ngữ thì có bấy nhiêu tộc người. Trên thực
tế, nhiều nhóm tự coi minh là những tộc người riêng biệt nhưng lại nói cùng một ngơn ngữ
với những tộc người khác. Vấn để xem xét tiêu chí ngơn ngữ của mỗi dân tộc cần phải
được cụ thể: có dân tộc sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp chung, cũng có dân tộc dùng
5


ngôn ngữ của các dân tộc khác như tiếng mẹ đẻ hoặc sử dụng nhiều ngôn ngữ cùng một
lúc bên cạnh ngôn ngữ mẹ đẻ.
Nhu vậy, trên thế giới tồn tại nhiều ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ không phải chỉ cho một tộc
người mà là cho nhiều nhóm tộc người. Ranh giới của sự phân chia các tộc người riêng
biệt và sự phân bố các ngôn ngữ không phải bao giờ cũng trùng hợp. Vi vậy, dù ngôn ngữ
là tiêu chí rất quan trọng để xác định một tộc người, nhưng khơng thể cho rằng nó là dấu
hiệu duy nhất.

-

Có chung bản sắc văn hóa

Là một trong số những dấu hiệu quan trọng phân định các tộc người, bản sắc văn hóa
đã được các cư dân sáng tạo nên trong quá trình phát triển lịch sử của mình và được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những biểu hiện cụ thể của văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần (hay văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể) ở mỗi dân tộc phản ánh những giá trị
truyền thống, lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tơn giáo của dân tộc đó. Rất nhiều
dân tộc đã trái qua hàng ngàn năm phát triển vẫn khơng bị đồng hóa nhờ sức sống trường
tồn của văn hóa dân tộc.
Ngày nay, xu thế giao lưu văn hóa song song với bảo tồn và phát huy bản sắc đã trở
thành xu thế tất yếu đối với sự phát triển dân tộc - tộc người. Như vậy, đặc thù văn hóa cần
được xem xét như là một dấu hiệu cơ bản của một tộc người bất kỳ, khơng có ngoại lệ,
phân định họ với các tộc người khác. Văn hóa có quan hệ chặt chẽ với ngơn ngữ; ngơn ngữ

được coi là thuộc tính cơ bản, có liên hệ chặt chẽ với văn hóa của tộc người nói thứ tiếng
đó, đặc biệt là với văn hóa tinh thần.

-

Có chung ý thức tự giác tộc người

Đây là tiêu chí quan trọng nhất trong các tiêu chí dùng để xem xét, phân định một dân
tộc. Đặc trưng nổi bật ở các dân tộc - tộc người là luôn tự ý thức về dân tộc mình từ nguồn
gốc đến tên gọi dù có nhiều tác dộng hoặc thay đổi về địa bàn cư trú, lãnh thổ hay tác động
ảnh hưởng của giao lưu kinh tế, văn hóa... Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác
tộc người liên quan trực tiếp đến các yếu tố ý thức, tình cảm và tâm lý dân tộc. Tuy thuộc
vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau ở mỗi dân tộc mà ý thức tu giác tộc
người được biểu hiện rất sinh động và đa dạng, nhưng đây vẫn là tiêu chí quan trọng, có vị
trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người.
Ba tiêu chí vừa nêu trên đã tạo ra sự ổn định trong mỗi cộng đồng dân tộc trong quá
trình phát triển tộc người. Ngay cả khi có sự thay đổi về phương thức sinh hoạt kinh tế,
cộng đồng dân tộc vẫn tồn tại trên thực tế. Đây chính là căn cứ khoa học và thực tiễn giúp
6


xem xét và phân dịnh các dân tộc ở nước ta một quốc gia da dân tộc với sự xen kẽ cư dân
các tộc người trên lãnh thổ dã hình thành từ lâu đời.

1.1.2. Quốc gia dân tộc (QGDT)
Quốc gia dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người to lớn, ổn định, hình
thành trong một quá trình lịch sử lâu dài. Khác với dân tộc, tộc người , các cộng đồng trong
QGDT cịn được gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ cộng đồng về lãnh thổ, về đời sống
kinh tế,... Một QGDT có thể gồm một hay nhiều dân tộc - tộc người. Có thể thấy, trong thế
giới hiện đại, đại đa số QGDT tồn tại trong mình nhiều dân tộc - tộc người. Sự khác biệt

về cộng đồng lãnh thổ và cộng đồng về đời sống kinh tế... được thể hiện tập trung thơng
qua đặc thù cộng đồng về chế độ chính trị, nhà nước đại diện cho ý thức tự giác cộng đồng
QGDT. Đó cũng chính là nét nổi bật làm nên và quy định sự khác biệt QGDT với dân tộc
- tộc người.
Quốc gia dân t (nation) là một cộng đồng chính trị - xã hội, được chi đạo bởi một nhà
nước thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, có một tên gọi, một ngơn ngữ hành chính (trừ
trường hợp cả biệt), một sinh hoạt kinh tế chung, với những biểu tượng văn hóa chung, tạo
nên một tỉnh các dân tộc.
Đặc trưng cơ bản của của QGDT:

-

Có lãnh thổ chung.

Lãnh thổ là biểu hiện chủ quyền của dân tộc trong mối quan hệ với QGDT khác. Lãnh
thổ của một QGDT bao gồm vùng lãnh thổ cư trú của các dân tộc - tộc người hợp thành
QGDT và vùng lãnh thổ có chủ quyền và cả các vùng lãnh thổ có quyền chủ quyền.
Lãnh thổ QGDT nói chung, cũng như từng bộ phận của lãnh thổ ấy được hình thành,
phát triển trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, gắn với lịch sử tồn tại, phát triển QGDT,
cũng như của các dân tộc - tộc người hợp thành... Do đó, lãnh thổ là một giá trị văn hóa
chung, đặc thù của QGDT, là sản phẩm của quá trình phát triển phương thức sản xuất,
phương thức sinh hoạt vật chất và tinh thần của cả cộng đồng QGDT trong quan hệ biện
chứng với sự hình thành, phát triển nhà nước, biểu hiện, thể hiện tập trung nhất của các giá
trị văn hóa về chủ quyền QGDT của cộng đồng dân tộc - tộc người hợp thành và là chủ thể
của mỗi QGDT.

-

Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế


7


C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng: Động lực gắn kết các dân tộc thành một
nhà nước, một quốc gia thống nhất chính là yếu tố kinh tế:
- Một QGDT tồn tại nhiều giai cấp có những lợi ích khác nhau nhưng phải có sự tương
đồng về lợi ích, tương đồng càng lớn thì tính thống nhất dân tộc càng cao;
- Tính thống nhất, tương đồng về kinh tế là cơ sở đảm bảo cho sự thống nhất quốc gia;
- Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở hình thành, phát triển, củng cố các giá trị văn hóa tinh
thần tồn tại trên các quan hệ tương đồn về kinh tế ấy;
- Các giá trị, mối quan hệ văn hóa trở thành cơ sở liên kết các bộ phận, thành viên của dân
tộc, tạo nên nền tảng vững chắc cho sự tồn tại, phát triển của cộng đồng dân tộc.

-







Có chung đời sống văn hóa và ngơn ngữ

Văn hóa
Là yếu tố đặc biệt gắn kết cộng đồng
thành một khối thống nhất.
Được chắt lọc trong suốt chiều dài lịch
sử dân tộc.
Là động lực của sự phát triển.
Là công cụ để bảo vệ độc lập chủ quyền

của quốc gia, văn hóa.
Là đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt sự
khác nhau giữa các dân tộc.

Ngôn ngữ
✓ Là sản phẩm của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội lâu dài của dân tộc
✓ Là cơng cụ bảo lưu, giữ gìn những giá
trị văn hóa lâu đời của dân tộc.
✓ Là một biểu tượng cho thấy sự trường
tồn của mỗi dân tộc.
✓ Trong quốc gia nhiều dân tộc bao giờ
cũng có một ngôn ngữ chung thống nhất
làm công cụ giao tiếp.

Cùng với ngôn ngữ, các giá trị hợp thành đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng dân
tộc - tộc người trong QGDT cũng tồn tại, phát triển trong quá trình lịch sử lâu dài. Mỗi
cộng đồng, tộc người được đặc trưng bởi một đời sống văn hóa tinh thần phong phú, giàu
bản sắc của mình, thể hiện trong phong tục tập quán, lối sống, trong ý thức và tâm lý dân
tộc, trong sinh hoạt tín ngưỡng... mang đậm dấu ấn của mình. Trong lịch sử lâu dài cũng
như trong hiện tại, sự phát triển của văn hóa dân tộc là sự kế thừa các giá trị truyền thống,
quan hệ giao lưu, biến đối với các giá trị của các dân tộc khác và của nhân loại.

8


1.2. Xu hướng cơ bản của quá trình phát triển, hình thành dân tộc
Nghiên cứu phong trào dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin đã phát hiện
ra hai xu hướng khách quan trong sự phát triển của dân tộc, đó là: Xu hướng liên kết các
dân tộc - tộc người và xu thế phân lập của các dân tộc - tộc người. Hai xu hướng cơ bản

này được diễn ra qua các hình thức khác nhau, tùy thuộc vào tương quan loi ich của các
giai cấp trong mỗi cộng đồng dân tộc với lợi ích chung của cộng đồng dân tộc ấy.

1.2.1. Xu hướng liên kết các dân tộc
Đây là xu hướng mà theo đó các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
khoa học cơng nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện
nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ giữa các quốc gia
và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.. Đó chính là
xu hướng liên kết đời sống kinh tế để hình thành nên một thị trường chung, thống nhất hình
thành những tổ chức quốc tế về kinh tế, chính trị, quân sự…
1.2.2. Xu hướng phân lập của các dân tộc
Xu hướng phân lập của các dân tộc là xu hướng mà theo đó các dân tộc tách khỏi nhau
để hình thành QGDT độc lập. Xu hướng này xuất hiện rõ nét nhất trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa, nguồn gốc là sự áp bức dân tộc của chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa.
Ở các nước là thuộc địa hay phụ thuộc chủ nghĩa đế quốc, các dân tộc bị nơ dịch, áp
bức đến một thời kì nào đó sẽ có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, sự thức tỉnh đầy đủ về
quyền sống, muốn tách khỏi nhau để thành lập các dân tộc độc lập. Họ hiểu rằng,chỉ trong
cộng đồng độc lập họ mới có quyền tự quyết định vận mệnh, sự tự do lựa chọn chế độ
chính trị và con đường phát triển của mình. Xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào
đấu tranh chống áp bức dân tộc, mục tiêu là đấu tranh thoát khỏi ách áp bức dân tộc để
thiết lập QGDT độc lập.

Hai xu hướng này khi vận động trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc sẽ gặp nhiều trở ngại:
Nguyện vọng được sống độc lập tự do của các dân tộc bị chính sách xâm lược của chủ
nghĩa đế quốc xóa bỏ; biến các dân tộc nhỏ, lạc hậu thành thuộc địa và bị phụ thuộc vào đế
quốc. Xu hướng các dân tộc liên kết với nhau trên cơ sở tự nguyện bình đẳng bị chủ nghĩa
đế quốc phủ nhận, thay vào đó là những khối liên hiệp do đế quốc lập ra nhằm duy trì sự
áp bức, bóc lột trên cơ sở bất bình đẳng. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, chỉ trong điều
kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng dân

tộc này áp bức, nô dịch các dân tộc khác mới bị xóa bỏ. Chỉ khi đó, hai xu hướng khách
9


quan của sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thực hiện đầy đủ, trong hịa bình và có
tính chất tự nguyện.
Hai xu hướng phát triển dân tộc trên về cơ bản có sự thống nhất chặt chẽ với nhau. Các
dân tộc vươn lên hướng tới độc lập tự do là điều kiện để các dân tộc xích lại gần nhau, từ
đó xóa bỏ sự chênh lệch trình độ phát triển giữa các dân tộc; sự liên kết, hợp tác trên cơ sở
bình đẳng tạo điều kiện cho các dân tộc đi đến tự chủ phổn vinh, cho phép các dân tộc dựa
vào tiềm năng lợi thế của mình và các dân tộc anh em khác để cùng phát triển.
Hai xu hướng cơ bản trên đây của quá trình hình thành, phát triển dân tộc, QGDT được
diễn ra với các hình thức nào: vũ lực, ép buộc hay tự nguyện, hịa bình, hoặc là sự đan xen
các hình thức ấy, lại tùy thuộc vào biện chứng của quan hệ giữa một bên là lợi ích của giai
cấp thống trị trong các dân tộc với một bên là lợi ích của dân tộc.

2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng trong thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay
2.1. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin
Dựa trên quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp; phân tích hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc dưới chủ
nghĩa tư bản; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, thực tiễn cách mạng
nước Nga trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, khôi phục và thống nhất các lực lượng cách
mạng ở nước Nga những năm đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã xây dựng “Cương lĩnh dân tộc”.
Đây là cơ sở lý luận cho việc thực hiện các chủ trương, sách lược cách mạng của giai cấp
công nhân đối với các vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nội dung cơ bản
của “Cương lĩnh dân tộc” thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

-


Một là, các dân tộc hồn tồn bình đẳng

Quyền bình đẳng dân tộc là quyền của tất cả các dân tộc được hưởng những điều kiện
và những khả năng như nhau đối với việc tự do phát triển các năng lực và thỏa mãn các
nhu cầu của mình. Các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả Bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt
trình độ cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào
được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác.
Theo Lênin, bình đẳng dân tộc về thực chất là xóa bỏ tình trạng người bóc lột người để
từ đó xóa bỏ tình trạng dân tộc này có đặc quyền, đặc lợi so với dân tộc khác, dân tộc này
đi áp bức dân tộc khác. Chính vì thế, Lênin đã xem bình đẳng dân tộc là một nguyên tắc

10


quan trọng và việc giải quyết nó là một bộ phận không thể thiếu trong cương lĩnh cách
mạng nhằm thực hiện bình đẳng xã hội.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp
luật bảo vệ như nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa
các dân tộc do lịch sử để lại. Trên phạm vi quốc gia dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng
giữa các dân tộc gắn liền với đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, xây dựng trật tự kinh tế
thế giới mới, chống sự áp bức của các nước tư bản về kinh tế. Thực hiện quyền bình đẳng
giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp
tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
Bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trong nội dung kinh tế hay bình đẳng về kinh tế.
Ở phương diện này, bình đẳng phụ thuộc vào sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế,
cốt lõi là sự phát triển đồng đều về lực lượng sản xuất.
Bình đẳng về chính trị là quyền của mỗi dân tộc tự quyết định vận mệnh của dân tộc
mình, bao gồm: quyền lựa chọn chế độ, con đường phát triển của dân tộc, quyền quyết định
chính sách dân tộc mình trong lĩnh vực quan hệ với các dân tộc khác. Bình đẳng về chính
trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết, cơ sở để thực hiện quyền bình đẳng trên các lĩnh vực

khác trong quan hệ giữa các dân tộc.
Vấn đề bình đẳng trong văn hóa phải ln ln gắn liền với bình đẳng về kinh tế, chính
trị. Bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa có tầm quan trọng đặc biệt và liên quan đến nhiều yếu
tố dân tộc – tộc người. Trên lĩnh vực văn hóa, các yếu tố phân biệt dân tộc này với dân tộc
khác được biểu hiện đầy đủ nhất. Văn hóa của mỗi dân tộc tạo nên sức sống bền vững của
mỗi dân tộc, là một nhân tố có ý nghĩa quyết định địa vị bình đẳng của một dân tộc này với
dân tộc khác.

-

Hai là, các dân tộc có quyền tự quyết

Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ đối với vận mệnh của dân tộc mình. Quyền
dân tộc tự quyết có thể biểu hiện ở những mức độ khác nhau, từ tự trị nội bộ đến tách ra
thành các quốc gia dân tộc độc lập. Theo V.I. Lênin: “Quyền dân tộc tự quyết hồn tồn
chỉ có nghĩa là các dân tộc có quyền độc lập chính trị, có quyền tự do phân lập, về mặt
chính trị khỏi dân tộc áp bức họ”.
- Quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của dân tộc
mình;
- Quyền tự do về chính trị, tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của
các dân tộc;

11


- Quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi
để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền
và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia – dân tộc.
Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai
cấp công nhân, ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của

giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ
đoạn của các thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước. Tuy nhiên, các dân tộc có quyền tự quyết khơng phải để các dân
tộc tách ra mà chính là để các dân tộc xích lại với nhau trong quốc gia xã hội chủ nghĩa.

-

Ba là, liên hiệp công nhân các dân tộc lại

Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin:
- Phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa
sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp
- Đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi
- Quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét, cách giải
quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc,
- Là yếu tố sức mạnh bảo đảm cho giai cấp công nhân và các đân tộc bị áp bức chiến
thắng kẻ thù của mình.
Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong các dân tộc
để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung
liên hiệp cơng nhân các dân tộc đóng vai trị liên kết cả 3 nội dung của cương lĩnh thành
một chỉnh thể.
Những nội dung cơ bản của “Cương lĩnh dân tộc” chính là cơ sở lý luận và cơ sở pháp
lý để giải quyết các quan hệ dân tộc. Đặc biệt hiện nay, vấn đề dân tộc đang diễn ra vô
cùng phức tạp, những xung đột dân tộc, tộc người, những mưu đồ đồng hóa dân tộc vẫn
tiếp tục tồn tại dưới nhiều sắc thái tinh vi, nhiều quốc gia khu vực.

2.2. Sự vận dụng trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam
hiện nay
2.2.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước dựa trên cơ sở lý luận chủ
nghĩa Mác- Lênin và vận dụng vào thực tiễn đất nước

Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng lý luận cơ bản để
Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc. Vấn đề dân tộc cũng
12


được xem như vấn đề có vị trí chiến lược. Trong từng giai đoạn cách mạng, vấn đề này
được nhận thức và giải quyết theo từng quan điểm cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về những
đặc trưng cơ bản của dân tộc để làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng chính sách dân tộc.
Đồng thời, qua nghiên cứu hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc, cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã có những quan điểm đúng đắn, phù hợp khi
giải quyết các quan hệ dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ, trách nhiệm của
tồn hệ thống chính trị, của tồn Đảng, tồn dân và toàn quâ. Vấn đề được đặt ra là chúng
ta phải biết quán triệt và vận dụng một cách đúng đắn, phù hợp những quan điểm, đường
lối của Đảng vào từng giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử của từng dân tộc trong cộng đồng 54
dân tộc anh em cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Đảng ta khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các
dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ,
gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam…”. Qua các
kỳ Đại hội, Đảng ta luôn nhất quán trong chủ trương, đường lối và giữ vững nguyên tắc
thực hiện chính sách dân tộc. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn về đặc điểm cơ bản của quá
trình phát triển tộc người và hình thành dân tộc - quốc gia ở Việt Nam, Đảng ta đã lấy làm
căn cứ để đề ra những chính sách dân tộc hiện nay:
-

-

-


Một là, các dân tộc Việt Nam cư trú, sinh sống xen kẽ nhau và có sự chênh lệch khá
lớn về nhiều mặt. Trong 54 dân tộc anh em, dân tộc Kinh lại chiếm đa số khoảng
86% dân số cả nước. Trong khi đó, 53 dân tộc còn lại chỉ chiếm khoảng 14% dân
số cả nước và tập trung chủ yếu ở vùng núi, biên giới, hải đảo,…
Hai là, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đồn kết, tương thân tương ái, gắn bó
lâu đời trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Những người anh hùng
dân tộc như anh hùng Núp (dân tộc Ba Na) trong kháng chiến chống Pháp, đồng
bào dân tộc Pa Cô anh dũng trong kháng chiến chống Mỹ,… đó là những tấm gương
tiêu biểu của đồng bào dân tộc thiểu số góp phần vào thành cơng chung của cách
mạng nước nhà.
Ba là, các dân tộc Việt Nam đều có một bản sắc riêng, tạo nên sự thống nhất trong
đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Bốn là, những vấn đề thực tiễn đã và đang đặt ra hiện nay là cơ sở quan trọng để đề
ra những chính sách dân tộc đúng đắn, phù hợp. Có thể thấy một số vụ bạo do các
thế lực thù địch công kích, lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta trong thực hiện
các chính sách dân tộc, tơn giáo nhằm âm mưu chia rẽ, phá hoại chính sách đồn
kết dân tộc của ta. Điều nay, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cũng như các cấp, các ngành
cần có những giải pháp mềm mỏng, phù hợp để thực hiện các chính sách dân tộc
hiện nay cũng như trong giai đoạn tiếp theo.
13


2.2.2.

Nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Nội dung đối nội
-

Các dân tộc đoàn kết.


Đảng ta cho rằng, các dân tộc đều là thành viên của cộng đồng dân tộc Việt Nam, không
phân biệt, chia re dân tộc cùng làm chủ vận mệnh của dân tộc mình, cùng nhau bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà kiến trúc sư lớn đã xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc với những nội dung mới và nâng nó lên tầm cao mới: “Đồn kết, đồn
kết, đại đồn kết; thành cơng, thành cơng, đại thành cơng"; Đồn kết các dân tộc; Đồn
kết trong Đảng gắn với đồn kết quốc tế.

-

Bình đẳng các dân tộc.

Nội dung bình đẳng dân tộc đã được Đảng ta xác định đúng đắn ngay trong thời kỳ
giành chính quyền. Bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trong pháp luật và trên thực tế.
Phải thực hiện bình đẳng về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các dân tộc không
phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo đều có sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ về quyền làm
chủ đất nước và quyền tham chính, dân tộc đa số giúp đỡ dân tộc thiểu số và ngược lại.
Chính sách dân tộc phái tạo điều kiện để các dân tộc, đặc biệt là dân tộc thiểu số phát triển,
gắn bó với sự phát triển chung của cộng đồng.

-

Các dân tộc tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển.

Trong q trình thực hiện chính sách dân tộc Đảng ta cho rằng: phải thực hiện giúp do,
tuong tro nhau từ hai phía: Thứ nhất, các dân tộc thiểu số giúp đỡ nhau. Thứ hai, dân tộc
đa số giúp đỡ dân tộc thiểu số và ngược lại, phải tơn trọng phong tục tập qn, truyền thống
văn hóa, tơn trọng ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc.
Đẩy mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải quan tâm phát triển miền núi, khai thác thế mạnh miền

núi, song phải bảo vệ lợi ích của các dân tộc ít người. Xây dựng những chính sách kinh tế
- xã hội phải chú ý tới những đặc thù của từng vùng và từng khu vuc; chống tư tưởng dân
tộc lớn, dân tộc hẹp hòi và chia rẽ dân tộc.

Những nội dung cơ bản trên đây của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta được
biểu hiện cụ thể như sau:
14


Thứ nhất, chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp
với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai
thác được thế mạnh của mình để vươn lên phát triển, khắc phục sự chênh lệch về kinh tế,
văn hóa, đảm bảo bình đắng thực sự giữa các dân tộc.
Thứ hai, tôn trọng lịch sử, truyền thống, văn hóa, ngơn ngữ, tập qn, tín ngưỡng của
đồng bào dân tộc; từng bước nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc.
Thứ ba, tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân
tộc và sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, nghiêm
cấm hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
Thứ tư, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số, đồng thời
giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc thiểu số.

Nội dung đối ngoại của chính sách dân tộc
Thực hiện quan hệ dân tộc trên tinh thần độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển. Mở rộng quan hệ dân tộc quốc gia
hướng tới việc gìn giữ mơi trường hịa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển
kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh chung cho hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Chủ trương sẵn sàng là đối tác tin cậy thể hiện mong muốn thật sự hội nhập của Đảng

ta, nhằm tạo thêm nguồn lực đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tính đến
cuối 2007, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 172 nước, quan hệ kinh tế - thương mại
với trên 224/255 quốc gia và vùng lãnh thổ, quan hệ đầu tư với hơn 70 nước và vùng lãnh
thổ, quan hệ với 200 tổ chức Đảng và 650 tổ chức phi chính phủ. Đảng ta xác định hướng
ưu tiên hàng đầu là coi trọng và ra sức phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước
xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng

-

Nguyên tắc trong quan hệ dân tộc:

Giữ vững nguyên tắc vì độc lập thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời rất sáng tạo,
năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí và hồn cảnh của nước ta cũng như diễn biến của
tình hình thế giới và khu vuc, phù hợp với từng đối tượng mà ta có thể quan hệ. Giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội.

-

Phương châm chỉ đạo:
15


Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Trong quan hệ dân tộc thúc đẩy hợp tác
bình đẳng cùng có lợi, song khơng chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những hành vi
xâm phạm độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và lợi ích của dân tộc. Việt Nam muốn là
bạn, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Đảng ta quan
niệm trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ hợp tác, trong một số đối tác vẫn có thể
có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên tinh thần đó, chúng ta ra sức thiết lập
và phát triển quan hệ với mọi quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng

việc nội bộ của nhau.

-

Hình thức quan hệ:

Ngày nay khơng chi quan hệ trên lĩnh vực chính trị mà các nội dung kinh tế, văn hóa và
quốc phịng an ninh chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Các mối quan hệ này gắn bó tác
động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ chính trị (bao gồm cả quốc phòng và an ninh) là
tiền đề; quan hệ kinh tế là cơ sở; quan hệ văn hóa là nhân tố góp phần gia tăng sự hiểu biết
lẫn nhau giữa các dân tộc.

-

Chủ thể tham gia

Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cùng tham gia hoạt động đối
ngoại. Bên cạnh các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh một cách
đồng bộ hoạt động đối ngoại nhân dân của các đoàn thể chính trị - xã hội, các hiệp hội
ngành nghề, các cơ quan quốc phòng - an ninh, các địa phương, các doanh nghiệp...

16


KẾT THÚC
Nước ta là một trong những quốc gia đa dân tộc, trải qua mấy nghìn năm dựng nước và
giữ nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh gắn bó máu thịt bên nhau trong đấu tranh chống
ngoại xâm, chống thiên tai địch hoạ và dựng xây đất nước. Các dân tộc nước ta là một cộng
đồng thống nhất trong đa dạng; cư trú xen kẽ và phân tán trên mọi vùng miền với cơ cấu
dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều; bản sắc văn hoá từng dân tộc

tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hiến Việt Nam.
Bình đẳng, đoàn kết các dân tộc là đường lối của Đảng ta đã xác định ngay từ khi mới
thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Dựa trên nền tảng của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc
đúng đắn với những nội dung cơ bản: “Bình đẳng, đồn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát
triển” để thúc đẩy các dân tộc phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống và xóa đi
khoảng cách giữa các dân tộc, cộng đồng tộc người, phát triển dưới danh nghĩa dân tộc
Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:
-

-

-

Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
Viện Kiểm sốt Nhân dân Cần thơ />Luật Quang Huy- />Tuyên giáo - />Luật Dương Gia - />Một số nguồn khác.

17



×